BÚT CHIẾN GIỮA
DƯƠNG THU HƯƠNG VÀ THỤY KHUÊ
*
(Bài này trích từ chương “Văn
học hải ngoại, nhìn qua những cuộc tranh luận”, là một phần trong loạt bài biên
khảo “25 năm văn học hải ngoại” phát trên Đài SBS của chính phủ liên bang Úc
năm 2000.)
---------------
Cuộc tranh luận giữa Dương Thu Hương và Thuỵ Khuê
diễn ra vào năm 1992, trên tạp chí Diễn Đàn và Hợp Lưu, xoay quanh việc xuất
bản "Tiểu thuyết vô đề" của Dương Thu Hương, bị cấm tại Việt Nam.
Năm 1991, chỉ vài ngày sau khi Dương Thu Hương bị
bắt, nhà phê bình Thụy Khuê được một người bạn trao tập bản thảo cuốn
"Tiểu thuyết vô đề" nhờ xuất bản với mục đích gây tiếng vang dư luận
nhằm qua đó, vận động sự ủng hộ của quốc tế đối với một nhà văn bất đồng chính
kiến cũng như đưa "tác phẩm đến tay người đọc". Nhà Xuất Bản Văn
Nghệ, có cơ sở tại Mỹ, là một nhà xuất bản có uy tín với một chủ trương văn hoá
đúng đắn, đã được Thuỵ Khê chọn lưạ.
Trong lời tựa của ấn bản "Tiểu thuyết vô
đề", Dương Thu Hương được Thụy Khuê giới thiệu như "một hiện tượng
hiếm có, một viên ngọc trong đám sình lầy ô nhiễm…" và với tác phẩm, Thụy
Khuê cho đó là một bước tiến mới. Theo bà, ở "Bên kia bờ ảo vọng"
Dương Thu Hương đã nhắm vào những thần tượng giả hiệu, nếu ở "Thiên đường
mù" Dương Thu Hương nhắm vào huyền thoại đấu tranh giai cấp bằng cách phơi
bày thực chất của cải cách ruộng đất thì với "Tiểu thuyết vô đề",
Dương Thu Hương đã đi "tiên phong trong việc nhìn nhận lại cuộc chiến một
cách sáng suốt và mạnh dạn".
Theo Thụy Khuê, cho dù Dương Thu Hương có đưa ra
những hình ảnh khiến nhiều người phẫn nộ với điều gọi là "bôi nhọ quân đội
miền Nam", đấy chỉ là điều nhỏ nhặt. Với bà, sự hung bạo là một hệ lụy khó
mà tránh khỏi của chiến tranh, đối với bất cứ bên nào. Điều quan trọng hơn, và
đáng trân trọng hơn ở thái độ của Dương Thu Hương là dám "nhắm vào phần
cốt tủy của huyền thoại chống Mỹ cứu nước và vạch trần mặt trái của những lý
tưởng cao đẹp, mặt sau của những khải hoàn môn, mặt nạ của những mỹ từ đã trở
nên những khẩu hiệu trống rỗng: Tổ Quốc – Nhân Dân – Chính Nghĩa – Tự Do – Quốc
Gia – Dân Tộc… vì người ta đã lợi dụng khá nhiều rồi.".
Tuy nhiên, năm sau 1992, sau khi ra tù, Dương Thu
Hương, vốn tự xem mình như một nhà văn bị "ném đá từ hai phía" đã lên
tiếng công kích điều gọi là sự "lợi dụng một cách triệt để…" của
"những người chống cộng cực đoan…". Dương Thu Hương phủ nhận tư cách
"ngọc sáng" của mình mà muốn đồng hoá vào với đại "nhân dân
tôi"; vì, theo bà, "chính dân tộc này mới là một viên ngọc bị vùi lấp
trong sình lầy của nghiệp chướng". Lời giới thiệu trân trọng của Thụy
Khuê, qua cái nhìn của Dương Thu Hương, đã trở thành một sự mạ lỵ chung đối với
dân tộc.
Trong bài "Tự bạch về Tiểu thuyết vô đề”
đăng trên tạp chí Diễn Đàn (số 6 tháng 3/1992) và sau đó là tạp chí Hợp Lưu số
4 (tháng 4/1992), Dương Thu Hương kể lại lai lịch Tiểu thuyết vô đề:
"Mùa thu năm Canh Ngọ, tôi viết Tiểu thuyết
vô đề, tức Khải hoàn môn. Bản thảo đã được đưa đến nhà xuất bản tại Hà Nội và
đã bị từ chối. Chính tôi, tự tay tôi đã gởi nó sang Pháp. Tôi chủ trương vi
phạm pháp luật của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Đối với tôi, vòng
phấn của thứ pháp luật đó quá hẹp. Tôi không thể thích ứng. Tôi dành quyền tự
do cho mình với bất cứ giá nào. Tiểu thuyết vô đề được gởi đi với hai lý do:
- Thứ nhất, nó là quà tặng cho bố mẹ nuôi của
tôi.
- Thứ hai, tôi dụng tâm viết cuốn sách này cho
tất cả những ai thuộc nòi giống Việt. Nếu trong nước tôi bị treo bút thì tôi sẽ
in cho người Việt ở hải ngoại đọc. Thà ít còn hơn không."
Theo Dương Thu Hương, Tiểu thuyết vô đề được gởi
sang Pháp không những như một món quà tặng cho bố mẹ nuôi của mình, mà còn gởi
sang một miền đất ở đó cộng đồng người Việt hải ngoại "ít thành kiến"
hơn, có "tư tưởng tự do phóng khoáng hơn". Với tác giả "Tiểu
thuyết vô đề", trong dư âm của cuộc chiến huynh đệ tương tàn vô cùng khốc
liệt vừa qua, những kẻ cực đoan nhất đang cố thủ ở hai bên lằn ranh đề
"không thể đem lại một tương lai khả quan" nào cho đất nước; và, như
một con người tự do, bà "bất chấp sự khủng bố của phía bên này" và
"phản đối sự lợi dụng xuyên tạc của phía bên kia".
Dương Thu Hương khẳng định mình sẽ "không
bao giờ rời bỏ đội ngũ những người cộng sản để chạy sang hàng ngũ những người
chống Cộng". Bà không phải là một "đảng viên cộng sản sám hối",
có cần sám hối, đấy chính là những người ở phiá bên kia, những kẻ đã từng
"chào đòn lính Mỹ hay lính Đại Hàn" đến quê hương mới cần sám hối. Bà
viết:
"Vào năm tôi mười tám, thế hệ chúng tôi đã
lên đường chống Mỹ theo truyền thống của người Việt. Nói đến người Việt, là nói
đến một hành trình bất tận chống ngoại xâm. Tôi sẽ không bao giờ hối tiếc, tôi
sẽ mãn nguyện hy sinh đến giọt máu cuối cùng nếu phiá trước mũi súng của tôi
chỉ là kẻ ngoại bang. Nhưng sự thể đã không diễn ra như vậy. Những tù binh
chiến tranh lần đầu tiên tôi nhìn thấy lại là những người tóc đen, da vàng,
cùng nòi giống và máu huyết với tôi… Trái tim thầm kín vẫn bảo tôi biết rằng họ
là đồng bào của tôi và số đông trong bọn họ chỉ là nô lệ phục tòng một định
mệnh tàn khốc. Chính những cảm xúc, những ý nghĩa bột phát trong giây phút ấy
đã được bồi đắp nuôi dưỡng và dẫn tới hành trình tư tưởng này."
Theo Dương Thu Hương, chính những đau khổ từ cuộc
chiến đã giúp bà "lọc bỏ mọi định kiến, mọi hận thù", đã thôi thúc bà
viết. Không hề có sự sám hối nào cả. Bà viết:
"…Có đúng Tiểu thuyết vô đề là "lời sám
hối của một tên Việt cộng, của một "con Việt cộng", của "một kẻ
đã từng là đảng viên cộng sản" hay không?"
Thưa vâng, có thể, nếu lịch sử đặt tôi vào vị trí
trọng đại nào đó mà ở vị trí ấy, do mù quáng hay do dục vọng cá nhân lấn át
lương tri, tôi đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho đồng bào của mình. Nếu
như vậy, tôi sẵn lòng sám hối, vì sám hối, theo tôi, là một tình cảm tự nhiên
và thuần nhân tính, cần thiết cho tất cả những ai tồn tại dưới danh hiệu Con
Người.
Ngoái nhìn lại cuộc chiến đã qua, có lẽ những ai
đã treo đèn kết hoa, dàn kèn đồng ra hải cảng và phi trường chào đón những binh
đoàn lính Mỹ, lính Úc, lính Đại Hàn vào xứ sở cần biết đến hai từ sám hối hơn
tôi…"
Dương Thu Hương tự nhìn về mình như "một
người đàn bà bình thường, một phó thường dân, chịu đủ thứ đày ải của đói khát,
bệnh tật, bom đạn" trong cuộc chiến. Chính vì "thiên kiến", vì
"lầm lẫn" hoặc vì "không am hiểu thực tiển" nên "ông"
– theo nguyên văn – Thụy Khuê đã lập lờ với những từ ngữ như Chính Nghĩa – Quốc
Gia mà miền Bắc không bao giờ dùng. Bà viết:
Vì ở miền Bắc có những đội tuyên truyền từng ca
ngợi chiến tranh là ngày hội. Vì ở miền Nam có cả một đoàn quân Tâm Lý Chiến
với các giọng oanh vàng véo von khích lệ những anh hùng quốc gia lên đường nên
ngày hôm nay tôi phải ngồi viết "Tiểu thuyết vô đề". Tôi muốn nói với
đồng bào của mình rằng chiến tranh không giống gìấc mộng vàng mà các nữ ca sĩ
thêu dệt, cũng chẳng là ngày hội tưng bừng mà các bản hoà tấu kèn diễn tả.
Chiến tranh có gương mặt thật của nó mà ít ai tường tận. Và trong bất kỳ cuộc
chiến nào, chết chóc, đau đớn và sự hủy diệt nhân tính cũng được chia đều cho
cả hai bên.
Trả lời, Dương Thu Hương, Thụy Khuê cho rằng sau
16 năm kết thúc chiến tranh, những định danh phân giới bên này hay bên kia, đã
trở nên lạc hậu:
"Một khi thắng trận, viết về những lầm lẫn
của mình, đã là khó. Một khi thắng trận, viết về những nhầm lẫn của đối phương
lại càng khó hơn. Không mấy ai thành công trong cuộc phiên lưu ấy, cho dù viết
với mục đích "để những ai thua trận không thể còn tiếp tục thù hận.
Ngôn ngữ văn học là một con dao hai lưỡi, nếu
Tiểu thuyết vô đề – qua sự kiểm nghiệm lại dĩ vãng – giải toả được một số vần
đề trong sự chia rẽ sâu xa của dân tộc và có một giá trị nhân bản cao thì Tự
Bạch về Tiểu thuyết vô đề, với những tố cáo "tội ác" của đối phương,
giới hạn mọi giải toả chia rẽ và triệt tiêu giá trị nhân bản."
Với Thụy Khuê, khái niệm "huyền thoại chống
Mỹ" không hề thể hiện một cái nhìn thiên kiến hay kẻ cả. Nếu "Tiểu
thuyết vô đề" đưa ra những cái nhìn hoàn toàn mới về cuộc chiến từ miền
Bắc, đấy phải gọi là sự soi rọi vào "huyền thoại chống Mỹ"; nếu một
tác giả nào đó, viết với một cung cách như thế từ góc độ của người miền Nam, dĩ
nhiên, khái niệm ấy phải là "huyền thoại chống cộng". Với bà, những
từ ngữ như quốc gia, dân tộc mà Dương Thu Hương phân biệt là của chính quyền
này hay của chính quyền kia, thực ra, chỉ là những từ thuần Việt, và bất cứ
người Việt nào cũng có quyền sử dụng tiếng mẹ như một người con không bị giày xé
hay câu nệ bởi những ranh giới thù hận. Cả sự ví von của hình ảnh viên ngọc
sáng, với Thụy Khuê, cũng không có gì là mạ lỵ dân tộc: giữa một chế độ áp bức
và thối nát, có ví von sự quả cảm của một nhà văn như một viên ngọc giữa bùn
lầy cũng không có gì quá đáng.
Cũng trên Hợp Lưu cùng số, Nhật Tiến đưa ra những
nhận xét khá khách quan về thái độ có phần quá khích trong bản tự bạch của
Dương Thu Hương.
Nhật Tiến cho rằng sự hạn chế trong cái nhìn của
Dương Thu Hương xuất phát từ những hoàn cảnh riêng và có thể thông cảm được.
Như một người đã tham gia cuộc chiến từ năm 18 tuổi, cái nhìn của bà, cho đến
lúc viết tự bạch, vẫn phảng phất nhãn quan của người chỉ được hưởng thụ nền
giáo dục một chiều, phải sống trong một xã hội bưng bít và ít có cơ hội tiếp xúc
cũng như tiếp nhận nguồn thông tin của thế giới rộng lớn bên ngoài. Cả Thụy
Khuê, một nhà phê bình nữ vẫn được Dương Thu Hương thưa ông. Hơn thế nữa, hoàn
cảnh của Dương Thu Hương, là hoàn cảnh đặc biệt cuả một nhà văn từng bị cầm tù
và đang đối phó với những biện pháp truy bức của một bộ máy công an trị.
Với Nhật Tiến, trong khuôn khổ của cái nhìn một
chiều, Dương Thu Hương chỉ thấy được hậu quả của cuộc chiến qua ảnh hưởng của
chất độc màu da cam, qua những hình ảnh chết chóc của riêng đồng đội mình mà không
thấy được rằng chính những đoàn quân đến từ miền Bắc cũng đã ra tay thảm sát
dân chúng miền Nam, không thấy được rằng chiến tranh Việt Nam cũng được nuôi
dưỡng bằng nguồn quân viện khổng lồ từ những nước cộng sản.
Cũng chính vì thế, vì thiếu thông tin nên Dương
Thu Hưong chắc mẩm rằng tác phẩm của mình đang được tung hô như một thứ bùa
thiêng của những người chống cộng cực đoan. Thực ra, đó mới là những kẻ chống
đối "Tiểu thuyết vô đề" dữ dội nhất và những người đúng ra xuất bản
tác phẩm của bà phải gánh chịu cả hai lằn đạn. Đạn từ Dương Thu Hương và đạn từ
những người chống cộng cực đoan, những kẻ vẫn xem quan niệm bà như một con mồi,
một lá bài trong trò chơi chính trị mới của Hà Nội.
Và như thế, ngay sau đó Dương Thu Hương đã thay
đổi hẳn thái độ. Trong "Thư gởi cho một người bạn văn" đăng trên Hợp
Lưu số 5 1992, bà viết:
"Hôm nay, tôi đã đi lấy bản “Tự Bạch” viết
tay về. Đọc lại bản này, tôi thấy nó hoàn toàn trung thành với ý nghĩ của tôi.
Chỉ có một câu sơ suất. Đó là câu "Tôi không từ bỏ đội ngũ những người
cộng sản để chạy theo những người chống cộng cực đoan. Tôi đã viết thiếu hai từ
cực đoan. Vì thế nó gây hiểu lầm và mâu thuẫn với phần dưới tôi viết:
"Những người Cộng Sản bảo thủ và những người chống cộng cực đoan, sao mà
họ giống nhau đến thế? Hiển nhiên trong thực tế, khi tôi đã phủ nhận triệt để
lý thuyết Mác xít và bị khai trừ khỏi đàng thì tôi đã là một người chống cực
quyền. Nhưng tôi không bao giờ chấp nhận lối chống cộng của những người đã đánh
trọng thương nhà văn Duyên Anh và dọa ném lựu đạn vào các toà báo. Những thứ
quyền uy như thế, dù đỏ hay trắng, đều đáng ghê tởm và phải chống lại chúng cho
đến hơi thở cuối cùng. Đối với tôi, cả những người Cộng sản bảo thủ và những
người chống cộng cực đoan đều không thể đem lại một tương lai tối đẹp cho dân
tộc. Họ chỉ có khả năng đục khoét hận thù trong quá vãng, làm suy tổn sinh lực
của cộng đồng, kéo dài tình trạng lạc hậu của đất nước. Họ chống đối nhau nhưng
giống hệt như nhau: Họ đều muốn giết tất cả những kẻ suy nghĩ khác mình…"
Cũng trên Hợp Lưu cùng số, lá thư riêng ở đó
Dương Thu Hương công khai xin lỗi Thụy Khuê cũng được đăng tải. Dương Thu Hương
viết cho Thụy Khuê:
"Tôi đã đọc bài trả lời của bà cho “Tự Bạch”
cũng trên báo Diễn Đàn. Những khác biệt về quan niệm, về ngôn từ, về phương
pháp suy tưởng… giữa bà với tôi, tôi thiết nghĩ cũng là đương nhiên, vì chúng
ta có hai quá khứ khác nhau, hai môi trường sống khác nhau và hai sự nghiệm
sinh khác nhau. Dù ít hay nhiều, chúng ta cũng đã từng bị khống chế bởi những
hệ ý thức trái chiều và sự chi phối của dĩ vãng bao giờ cũng ghê gớm hơn người
ta vẫn tưởng. Quá trình đi đến sự hoà hợp là quá trình soi rọi lại chính mình và,
sàng lọc, tẩy rửa và vun xới. Nó phải được thực hiện nghiêm cẩn với mọi cá nhân
trên cơ sở thành thật và thiện chí…
Tôi chỉ có một phe nhóm, một đảng phái, một triết
thuyết thôi, ấy là lợi ích dân tộc. Với tôi, lợi ích dân tộc là tối thượng. Đó
là vấn đề cốt tử, cốt lõi. Còn lại, đó sẽ là phận sự của thời gian và sự nỗ lực
của mỗi cá nhân. Vậy thì, xin bà hãy nhận lời xin lỗi chân thành của tôi. Tôi
đã xử sự với bà thật bất công và phi lý. Có lẽ sự lầm tưởng ấy trước hết không
chỉ trái tim mà cả cái đầu tôi cũng luôn luôn bốc lửa. Sau nữa, là do phương
pháp suy tưởng của chúng ta không giống nhau. Tuy nhiên, dầu cho tình huống nào
thì cuối cùng con người cũng có thể hiểu được con người nếu lòng họ rộng
mở…"
Thế là cuộc tranh luận đi đến chỗ kết thúc. Không
như những cuộc tranh cãi dằng dai xưa nay, cái đề tài khá tế nhị với lằn ranh
quốc-cộng, với "huyền thoại chống Cộng", với công hay tội của bên này
bên kia, đã diễn ra một cách thẳng thắn. Với hai quá khứ và hai góc nhìn khác
nhau nhưng cùng chia sẻ một tinh thần nhân bản, cùng hướng về con người, hướng
về dân tộc như là cứu cánh. Với tấm lòng rộng mở, định kiến đã bị vượt qua, tự
ái cá nhân đã bị nhấn chìm. Và đó là một bài học rất lớn cho một dân tộc bị
giày vò và dằn vặt quá nhiều với định kiến và thù hận như dân tộc chúng ta.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Bạn đọc cảm nhận
về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CU TỐ LÀNG TÔI của Đặng Xuân Xuyến:
Trần Chí Cường giới thiệu
Tác giả: Nguyễn Hoàng Vân Nguồn: vanviet
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn:
internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét