NGƯỜI CHỒNG MỘT ĐÊM!
Năm ấy, tôi mười bảy tuổi. Ở đất Bình Định, tuổi đó đã có người
đi lấy chồng. Như mẹ tôi, như cô tôi. Tệ lắm cũng đã có người đi dạm. Nhưng tôi
thì chưa. Tôi đang học lớp bảy nên có nhiều mộng ước hơn mẹ và cô. Tôi chưa
nghĩ ra người chồng tương lai của mình sẽ như thế nào, nhưng ít ra cũng hơn cha
tôi và dượng tôi. Đó là những người đen đúa, tuy không đến nỗi xấu xí, nhưng ai
cũng già trước tuổi. Quanh năm gần như chỉ mặc quần đùi để lộ đôi chân khẳng
khiu mốc thếch. Đó là chưa nói tới cái bệnh sốt rét họ mang về từ rừng núi xa
xôi sau khi đi làm nghĩa vụ dân công, tức là đem gạo muối tiếp tế cho bộ đội,
hay đi tải đạn. Người nào mặt cũng tái mét, da dẻ vàng vọt như không còn một
hột máu.
Thực ra, mẹ và cô tôi cũng chẳng hơn gì. Ai cũng một bộ đồ đen
bạc phếch, cũng một búi tóc thiếu chải gỡ, trông xơ xác như một mớ râu bắp. Lũ
con gái chúng tôi có khá hơn vì đang là tuổi dậy thì, tự nhiên da thịt hồng hào
dù phải ăn uống kham khổ.
Năm lớp bảy là năm cuối cấp hai, bọn tôi được chọn đi dự trại
liên hoan mừng chiến thắng ở Bồng Sơn. Cùng đi với chúng tôi còn có các cô gái
chưa chồng trong hội phụ nữ. Vì đã hòa bình, chúng tôi được phép ăn mặc đẹp.
Nghĩa là được đội nón trắng không phải quét bùn, được khoe chiếc kẹp mạ bạc óng
ánh trên mái tóc. Ai khá hơn được mặc áo in hoa cổ tai bèo hay áo trắng khoét
cổ trái tim. Chúng tôi ngắm lẫn nhau, khen lẫn nhau. Biết mình đẹp hơn khi nhìn
vào mắt người khác, chứ cái gương tròn nhỏ như chiếc bánh bèo chỉ đủ để soi mặt
thôi, làm sao thấy được toàn thân như khi đứng trước gương. Nhưng thế cũng đủ
vui quá rồi, nhất là lần đầu tiên được đi xe cam nhông ray, chạy trên đường sắt
êm như lướt đi trong gió.
Chúng tôi được bố trí ở những trại đã được dựng sẵn dưới bóng
dừa. Cơm nước cũng đã có người lo. Trước mặt trại là một đống củi gộc xây hình
tháp, hứa hẹn một đêm lửa trại cháy đến tận sáng. Phía bên kia, cũng là một dãy
trại đã được dựng sẵn dành cho bộ đội. Họ cũng là những người chưa vợ được chọn
từ các tiểu đoàn.
Thế là chúng tôi cứ việc vui chơi, nhảy múa, hát ca. Chúng tôi
làm quen nhau thoải mái, cứ ưng ý là bắt cặp nhau mà không sợ bị phê bình này
nọ. Ai, chứ với bộ đội trẻ trung mà được thân quen với họ, là ước mơ thầm kín
của lũ con gái thời ấy.
Chúng tôi ở đó ba ngày vừa đủ cho trai gái bén hơi nhau. Rồi sau
những màn nhảy xôn đố mì chân nọ đá chân kia, nhảy sạp cắc cắc bụp bên đống lửa
hồng, tất cả lặng lẽ kéo nhau vào rừng dừa, nơi ánh sáng không còn rõ mặt, cứ
mỗi gốc dừa là một cặp ngồi tỉ tê tâm sự. Rồi chúng tôi làm cái việc gọi là yêu
nhau tại chỗ. Nếu ai đó không muốn thì cũng đành chịu, chứ biết thưa kiện ai.
Khi Mỹ đến, sau những trận đánh khốc liệt, bọn họ tràn vào các
quán bar cũng là để mừng chiến thắng hay trút nỗi buồn thua trận trên thân xác
của các gái bán bar mà thôi. Có điều họ phải trả tiền, mà tiền đô, còn bộ đội
thì không ngay cả tiền tín phiếu như giấy vàng mã!
Rồi họ xuống tàu đi tập kết, mang theo những chiếc khăn do chúng
tôi thêu làm kỷ niệm. Còn họ để lại cho chúng tôi một thứ nhiều hơn chiếc lược
nhôm hay lược gỗ được cắt gọt công phu, một thứ có thể họ không ngờ là cái bào
thai trong bụng mỗi đứa.
Rất nhiều đám cưới được tổ chức chớp nhoáng. Không hai họ, không
đón đưa, chỉ có thủ trưởng đứng ra tuyên bố hai người là vợ chồng. Thế là xong,
như cha đạo thay mặt Chúa Trời. Dẫu không mang thai họ cũng đã là những thiếu
phụ mòn mỏi đợi chồng dù chỉ một đêm, nhưng có nghĩa vụ lo cho cách mạng ròng
rã suốt hai mươi năm sau đó.
Tôi được mẹ cha hiểu ra cái trò mừng chiến thắng bằng cách cướp
đi cái phần trinh trắng nhất của đời con gái họ, sau khi đã cướp lúa gạo vòng
vàng bảo là để cho cuộc kháng chiến thành công, nên đã nén cái đau cái nhục
xuống đáy lòng, cho tôi vào trốn ở Sài Gòn.
Từ một xứ nhà quê, lại là vùng Việt Minh, đến một thành phố giàu
có đông đúc, tôi hết sức ngỡ ngàng. Nhưng rồi tôi cũng quen dần, người Sài Gòn
xởi lởi, tốt bụng, có đủ chỗ cho tôi kiếm sống. Chỉ khổ là cái bụng mỗi ngày
một to, lắm khi cũng phải lao đao vì nó. Tuy vậy, đến ngày sinh, cũng có người
sốt sắng đưa tôi vào sinh ở nhà thương thí.
Bao nhiêu cực nhục rồi cũng qua đi. Ơn Trời, tôi sinh được một
cháu gái. Đó là kết quả của mối tình một đêm bên gốc dừa!
Ngồi ngắm con ngủ, tôi cố nhớ chút gì gợi lại hình bóng của
người đã cùng tôi tạo ra nó, nhưng không tài nào nhớ nổi. Tôi chỉ nhớ cái mùi
mồ hôi anh ta, nhớ tiếng thở hào hển và nhiêu đó cũng đủ làm cho tôi cảm thấy
xấu hổ, tủi thân. Chiếc lược mà anh ta tặng tôi trở thành một kỷ vật đắng cay.
Tôi không trách anh, cả tôi cũng không tự trách mình, tôi chỉ trách ai đó đã
lợi dụng tình yêu cho dù là xác thịt để đạt tới những mục đích sâu xa của họ.
Cùng một lứa với tôi, những cô gái tươi non khi ấy, sau này đã
là những người nuôi giấu cán bộ, đào hầm vót chông, mua thuốc trụ sinh, chuyển
vũ khí bằng cách khoét rỗng ruột bí bầu nhét đạn hay lựu đạn vào, khi bị bắt dù
bị đánh đập tra khảo đến thừa sống thiếu chết vẫn không chịu khai…Để đến khi
hòa bình, nhiều người cũ hoặc làm ngơ coi như không biết, hoặc có biết cũng chỉ
lén lút mà gặp nhau một lần rồi thôi, vì sau lưng họ còn có những người đàn bà
xứ Bắc không dễ gì trả lại chồng. Thì thôi đành vậy, vui chỉ một đêm mà buồn
khổ suốt cả một đời!
Sau ngày 30 tháng tư, như bao người miền Nam, hai mẹ con tôi cố
sống lây lất qua ngày, chạy chợ trên bán chợ dưới, bị quản lý thị trường rượt
đuổi như chó săn chuột.
Một lần tôi bị bắt, bị tịch thu mấy bao gạo mua từ ga Biên Hòa.
Nếu tôi bỏ hết hàng họ mà “xéo đi” theo lệnh họ, thì tôi đã không phải bị giam
ở trụ sở phường. Đằng này tôi gào khóc, chửi rủa, cào xé mũ áo nên họ tống tôi
vào như một mụ điên. Sau cùng, họ bảo tôi phải viết kiểm điểm thành khẩn nhận
lỗi đã xúc phạm cán bộ, họ mới chịu thả ra.
Thì viết!
Nhưng cái nỗi đau mất của, cái đói đang chực chờ khiến cho tôi
cứ ngồi mãi mà chẳng viết được dòng nào, ngoài mấy chữ: Tôi tên là…
Lúc ấy có một người mặc đồ bộ đội không biết cấp bậc gì đi ngang
qua, thấy tôi ngồi bên bàn với tờ giấy ở trước mặt liền chồm tới xem thử. Bỗng
người ấy hỏi, chị tên thật đó à? Tôi nói, chứ chẳng lẽ tôi viết tên giả. Lại
hỏi, chị quê ở Bình Định phải không? Tôi nói, ông định tống tôi về ngoài đó chứ
gì? Ừ, tôi là gái Bình Định, theo chồng vào đây không được sao? Người ấy nói,
đó không phải là việc của tôi. Giờ đã tối rồi chị về đi. Nhưng ngày mai chị nhớ
đến đây gặp tôi. Có thể chúng tôi xét mà trả lại hàng cho chị. Nhớ nhé, chị
phải tới không thì hỏng cả đấy.
Thế là sáng hôm sau tôi lại tới dù hy vọng rất mong manh. Lại
thấy ông ta đứng đợi lù lù ở trên thềm. Ông ta ra hiệu cho tôi vào phòng. Dẫu
sao nói chuyện với những người đứng tuổi như ông cũng dễ chịu hơn là với bọn
lau nhau mới hùa theo cách mạng. Ông ta chỉ ghế mời ngồi, nhìn tôi, rồi kéo từ
hộc bàn ra một quyển sổ. Ông đặt lên bàn, lại nhìn tôi kèm theo một nụ cười khá
tử tế. Ông lấy từ trong sổ ra một tấm hình ố vàng đẩy về phía tôi. Đó là tấm
hình chụp một anh bộ đội và một cô gái đứng bên gốc dừa.
Trông thấy tấm hình, tôi xây xẩm mặt mày, toàn thân lạnh cóng.
Tôi nhớ lại những đêm ở Bồng Sơn, nhớ cái phút giây điên cuồng dại dột. Và sau
đó là thấp thỏm lo cha mắng mẹ chửi. Rồi kinh hoàng khi nghĩ tới lúc Tây tiếp
thu, chúng sẽ thọc lưỡi lê vào bụng những người vợ Việt Minh mà lôi đứa nhỏ ra
ngoài!
Tôi nghe ông ấy hỏi: chị có biết hai người trong tấm hình này
không? Tôi bặm môi một lúc rồi nói: không biết. Chị không nhớ cái đêm liên hoan
trong rừng dừa hồi đó sao? ông lại xoáy thêm vào nỗi đau của tôi. Thế là bao
nhiêu uất ức, bao nhiêu đắng cay, cô độc trong hơn hai mươi năm như một con
sóng lớn sắp đập vào bờ, tôi muốn đứng dậy chồm qua bàn, nhìn sát vào mặt ông
mà gào lên: nhớ chứ, nhớ ông đã làm gì tôi, đã hứa hẹn thề thốt rồi bỏ tôi mà
đi đến hơn hai mươi năm, giờ về đây cướp mấy bao gạo của mẹ con tôi. Ông có
biết tôi đã khổ như thế nào mới có được nó không? Ông biết tôi là ai sao không
bảo lũ lâu la kia đem trả gạo lại cho tôi. Ít ra con ông cũng còn có được hột
gạo mà ăn. Các ông vào đây cướp thì có chứ quản lý thị trường cái nỗi gì.
Tôi tức nghẹn, nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh nói với`giọng rắn rỏi
chính tôi cũng không ngờ: nếu tôi đến đây chỉ để ông tra hỏi như thế này thì
tôi thấy không cần phải ở lại nữa! Khoan đã, ông cũng đứng lên nói, giờ, chị có
thể đem mấy bao gạo về! Nhưng tôi trở nên cay nghiệt: đó không phải là gạo của
tôi, mà là của cướp giựt. Các ông cứ nhập kho rồi chia nhau!
Tôi ra khỏi trụ sở phường, người lảo đảo cứ như say. Tôi đi tới
đi lui, đi hoài cho đến khi mệt lả mới nằm dài trên một ghế đá ở công viên. Tôi
nghĩ đến ngày mai, đến con tôi. Đã có lúc tôi muốn chạy đến trụ sở phường gặp
ông ta, bảo rằng tôi biết hai người trong tấm hình đó. Tôi hình dung ra cảnh
ông ôm choàng lấy tôi và cả hai cùng khóc. Ông sẽ bảo với mọi người trong cơ
quan, đây là người vợ ông đã tìm lại được. Còn tôi sẽ bảo với con, đây là cha
của con. Và cuộc đời của chúng tôi sẽ khác.
Nhưng chút tự trọng của một người đàn bà níu chân tôi lại. Ông
hẳn đã biết tôi là ai vậy mà cứ vòng vo hỏi tới hỏi lui. Ngày ấy tôi đã mê muội
đem dâng hết cả đời con gái cho ông. Giờ đây ông còn muốn tôi quỳ xuống nữa
sao? Ông kiêu ngạo hay sợ đảng đến nỗi không dám nhận một con buôn làm vợ?!
Tôi đứng lên, lủi thủi một mình đi về nhà. Con gái tôi hỏi,
không xin lại được sao mẹ? Tôi lắc đầu. Tôi nghe nó thở dài giống như tôi cách
đây hơn hai mươi năm.
Từ đó tôi thôi chạy chợ, kiếm nghề khác để khỏi phải gặp ông.
Lúc đó tôi 39 tuổi, con gái tôi 21. Cũng đã đến tuổi lấy chồng. Cầu trời cho nó
không lấy phải người chồng một đêm!
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
- Bạn đọc cảm nhận
về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân Xuyến:
Đinh Hoàng
Long giới thiệu
Tác giả: Khuất Đẩu
- nguồn: diendantheky
Ảnh minh họa sưu tầm từ
nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét