TRỞ LẠI NHA TRANG
Sáng hôm sau, trời còn chưa tỏ rõ, mẹ đã quảy trên vai đôi quang
gánh, đầu đội nón lá, mình choàng tấm áo ny lông xuất hiện trước hiên nhà chị
Ba. Giữa làn mưa phùn, gió bấc của thời tiết mùa đông lạnh lẽo trông mẹ liêu
phiêu, gầy guộc. Mẹ đặt đôi quang gánh lên thềm nhà, cởi nón và áo mưa ra, rồi
bưng vào một nồi cháo gà vẫn còn âm ấm. Nồi cháo được ủ trong một ổ rơm dày
dưới lớp ny lông đi mưa. Chị tôi dọn bát đũa ra mời cả nhà cùng ăn sáng. Ngay
sáng hôm ấy, mẹ vội vã cùng tôi lên thị trấn Đức Phổ đón xe, cho tôi vào Nha
Trang. Lúc xe chạy xa rồi tôi vẫn còn trông thấy mẹ đứng bên vệ đường nhìn theo
trong màn mưa bụi mịt mờ.
Vào đến Nha Trang, tôi đi tìm nhà chị Sáu. Hôm ấy đúng vào ngày 25
Tết âm lịch năm 1983. Nhà chị tôi đã trang hoàng để đón xuân. Giữa nhà chưng
một cây mai to nhiều búp xanh mơn mởn. Thấy tôi, chị quá đỗi vui mừng, dẫn tôi
ra sau nhà chỗ chái bếp bên mé sông, hỏi đầu đuôi sự tình. Chị đã biết tôi đi
bộ đội nhưng không ngờ hôm nay đột ngột vào đây. Khi biết tôi đang đào ngũ, chị
trầm ngâm một lát rồi nói:
- Nhà chị dạo này bị công an phường, công an khu phố theo dõi gắt
gao lắm, em ở lâu e không tiện. Nhưng cứ ở lại đây vài ngày. Ăn Tết xong qua
Núi Sạn hỏi cô Tư Lệ chỗ làm, nếu không được hãy liệu tiếp.
Thế là tôi an tâm ở Nha Trang ăn cái Tết xa nhà đầu tiên. Ngay chỗ
nhà chị nhìn xéo qua bên kia đường là ngôi trường Đức Hòa ngày bé tôi đã học.
Trường đang đóng cửa cho học sinh nghỉ Tết. Tôi đi ngang qua nhìn thấy tấm biển
của trường không đề chữ tư thục nữa. Ngôi trường đã được xung công. Tôi men
theo con hẻm đi ra chỗ bến đò ông La. Con hẻm giờ đây nhà cửa hai bên chi chít.
Lối đi chỉ còn rộng chừng hơn một mét, chỉ dành cho cư dân ở đây sử dụng. Con
đò cũng đã ngừng hoạt động, lối qua Cồn Cỏ giờ không còn nữa. Tôi đi men theo
bờ sông đến chỗ ngôi nhà xưa của gia đình mình. Cái trụ điện cao thế vẫn còn,
nhưng bờ sông đã khoét sâu vào chân trụ, giờ trông chênh vênh như muốn đổ xuống
sông bất cứ lúc nào! Dãy nhà của tôi và thằng Xê đã biến thành lối đi. Bờ sông
Cái sát cạnh bên. Cái đầm cạn được đổ đất làm nhà kín mít. Cảnh vật và con
người nơ đây hoàn toàn khác xưa. Bâng khuâng tôi đứng lặng im ngắm nhìn dòng
sông hồi lâu rồi quay về nhà chị.
Mấy bữa sau, anh rể tôi chạy tàu từ miền trong về. Đến tối anh dẫn
tôi lên một quán nhậu trên đường Phan Bội Châu. Anh em ngồi lai rai. Đó là lần
đầu tiên tôi được nếm thử bia hơi. Bia đựng trong một cái ấm thiếc. Mới rót ra
ly tôi cứ tưởng là nước trà đá gião vì cái màu vàng vàng nhợt nhợt. Hai anh em
nâng ly xong, anh Sáu hỏi:
- Cậu thấy thứ nước uống này thế nào?
Tôi trước giờ chỉ uống nước lạnh, nước trà, hoặc rượu đế chứ chưa
hề uống món nào đăng đắng, lờ lợ như thế này. Bị anh hỏi bất ngờ, tôi không dám
trả lời ngay bèn bưng ly uống lại một ngụm nữa. Lần này tôi uống thật chậm để
cảm nhận được mùi vị rõ ràng hơn. Đặt ly xuống tôi đáp:
- Nước gì em không biết, nhưng không ngon lắm, chỉ đỡ hơn nước
lạnh một chút thôi.
Anh rể nghe tôi nói vậy chỉ cười xòa vui vẻ.
Qua Tết, tàu anh tôi chạy biển. Tôi sang nhà cô Tư Lệ bên Núi Sạn để
hỏi chỗ làm thuê. Dạo đó ở Nha Trang phong trào dệt mùng đang rầm rộ. Nhiều nhà
sắm khung cửi, mướn thợ về dệt gia công cho các hợp tác xã vải sợi. Nhà cô Tư
Lệ có hai khung cửi. Một khung khăn lông và một khung mùng. Cô mướn một người
thợ dệt khăn lông quê Bình Định tên Chí. Chồng cô Tư Lệ thì dệt mùng. Thỉnh
thoảng, Hồng, em gái ruột cô Tư cũng vào đứng máy. Nhà hai khung dệt thiếu
người làm sợi nên tôi mới hỏi cô đã đồng ý ngay.
Tôi ở đó mấy tháng trời, chỉ quay sợi và đạp hồ, không được đứng
máy. Lúc rảnh rổi tôi hay tò mò xem người ta dệt như thế nào. Nghề dệt mùng
cũng không có gì khó lắm. Điều cần thiết phải nhanh tay, lẹ mắt, chú ý xem sợi
dọc, sợi ngang. Hễ chúng bị đứt chỉ hoặc con suốt trong cái thoi hết sợi thì
dừng máy lại, nối chỉ, thay suốt rồi khởi động cho chạy tiếp. Máy dệt sử dụng
mô-tơ điện nên thợ làm việc cũng nhàn nhã. Cái quan trọng nhất cần đến thợ là
khâu sửa chữa khung cửi. Bởi vậy người càng có nhiều kinh nghiệm, tay nghề kỹ
thuật về khung cửi càng giỏi thì được hưởng lương càng cao.
Cô Tư Lệ đối với tôi khá tốt, nhưng anh chồng trái lại không ưa
tôi gì mấy. Mỗi lần tôi đạp hồ nếu có anh ta thế nào cũng bị cằn nhằn. Tôi đạp
nhẹ, y bảo hồ sẽ không thấm sợi vải. Tôi đạp mạnh y lại bảo đạp như thế nát hết
sợi! Cô Tư tinh ý sợ tôi buồn nên lúc chỉ có mình tôi thường động viên, bảo tôi
cố gắng làm việc.
Nhà cô Tư Lệ có một cái xe Honda 67. Nghe người lối xóm đồn rằng
cái xe ấy có được là do chồng cô đi hôi của lúc Nha Trang hỗn loạn tháng Tư năm
1975. Lời ong tiếng ve còn nói, lúc đó anh ta vớ được cả mấy bao thuốc tây bên
thị xã, nên sau này đem bán đi mới có tiền mua căn nhà đang ở. Ngôi nhà ba
gian, tường gạch, mái ngói, trước kia là của một ông liên gia trưởng. Cộng sản
vào, ông bán rẻ căn nhà lấy tiền về quê sinh sống. Chuyện hôi của thực hư thế
nào không biết, nhưng gốc gác căn nhà đúng là như thế.
Một hôm vào ngày cúp điện định kỳ, tay Chí thợ dệt mượn chiếc
Honda chở tôi qua đường Trần Phú dạo mát, uống cà phê sáng. Lúc quay về tôi nổi
hứng bảo đưa xe cho tôi chạy thử. Tay Chí liền chỉ sơ sơ cho biết cách sử dụng
chiếc xe như thế nào. Tôi cầm lấy tay lái, Chí ngồi sau, tay giữ yên xe. Tôi
vào số và lên ga phóng đi. Ngồi đằng sau Chí la oai oái bên tai:
- Ui... ui... mày chạy như thế hư hết xe!
- Làm sao mà hư?
- Nhớ bóp côn, rồi mới dzô số
chứ!
Tôi gục gặc cái đầu, cho Chí yên tâm:
- Được mà! Đừng lo!
Tôi sang số, tăng ga lên dốc cầu Xóm Bóng. Chí phát vào đùi tôi:
- Lại nữa! ... Nhớ bóp côn!
Bị nói nheo nhéo bên tai mãi, tôi hơi bực mình nên cho xe chạy
nhanh hơn, không giảm tốc, đổ dốc cầu vù vù! Thấy vậy Chí hét lên:
- Dừng lại!... Dừng lại! ...
- Sao vậy?
- Mày chạy ẩu quá! Thôi, đưa đây tao lái!
Tôi thắng xe. Chí vội trườn lên phía trước cầm tay lái. Đoạn đường
từ đó về nhà hắn không nói gì nữa với tôi. Chẳng biết Chí ton hót thế nào với
chồng côTư Lệ mà mấy hôm sau anh ta mỗi lần đối diện với tôi vẻ mặt đều cau có.
Giọt nước làm tràn ly. Một buổi tối, vợ chồng Tư Lệ chở nhau lên
Thành ăn tiết canh vịt. Tôi và Chí cùng ba đứa con ở nhà. Hai đứa tôi ngồi nói
chuyện chỗ bộ sa lông gỗ chấn song. Mấy đứa nhỏ cùng nhau chơi đùa ngay gian
giữa, nơi có đặt kệ thờ và bộ bàn ghế chữ U. Chí lấy từ chiếc ba lô bộ đội ra
một mớ sợi giống như sợi thuóc lá vấn hút. Thấy tôi tò mò ngồi nhìn, anh ta
quay sang hỏi:
- Mày có muốn hút thử không?
- Lá gì đấy?
- Bồ đà!
- Cho tôi thử một điếu xem sao!
Chí vấn một điếu nhỏ hơn điếu của y rồi đưa cho tôi. Tôi châm lửa,
rít một hơi. Khói thuốc nồng nồng và hôi hôi chứ không thơm như thuốc lá. Chí
nhìn tôi, hỏi:
- Mày thấy sao?
- Chẳng thấy gì khác lạ!
- Hút tiếp đi!
Tôi lại rít một hơi nữa. Đầu óc bắt đầu lâng lâng. Có cảm giác vui
vui, khác thường. Chí nhìn tôi cười cười:
- Thấm rồi! ... Thấm rồi! ...
Tôi cũng cười theo, rít luôn hai hơi liền. Đầu óc có vẻ mơ hồ, cảm
giác như bềnh bồng trên mây. Nhưng tâm trạng lại rất vui vẻ. Thấy tôi như vậy,
tay Chí vộii nói:
- Thôi! Thôi! ... Mày say rồi! Đừng hút nữa. – Vừa nói hắn vừa
giật nửa điếu thuốc còn lại trên tay tôi, dụi tắt, và mang ba lô đi nơi khác.
Tôi cảm thấy mắt mình dần dần trĩu nặng nên nằm luôn trên chiếc ghế sô pha đánh
một giấc.
Nghe tiếng ồn ào, tôi giật mình thức dậy. Cả nhà đang quây quần
bên thằng con út của cô Tư Lệ, Bên trán trái của nó có một vết xước, rươm rướm
máu. Có tiếng của dượng Tư Lệ:
- Giả đò, chớ ngủ gì mà ngủ! Đê tụi nhỏ chơi giỡn đổ máu như dzầy
mà ngủ được à?
Tôi biết dượng ấy muốn nói ai, nhưng nghĩ thân phận mình đang làm
thuê ở mướn nên đành im lặng, chẳng đôi co làm gì. Sau những tháng ngày ở quân
ngũ bị vấn tội về một bài thơ tính tình tôi trở nên điềm tĩnh hơn, không còn
bộp chộp tranh cãi như thời còn đi học. Vả lại nói ra càng thêm nhiễu sự.
Trưa hôm sau, cô Tư Lệ gọi tôi ra chỗ vắng bảo:
- Anh xuống nhà vợ chồng Ba Tâm ở vài tháng giúp nó. Hiện chúng
đang thiếu người làm.
Ngay chiều hôm đó tôi cuốn gói rời đi. Ở nhà Ba Tâm tôi cũng chỉ
phụ làm sợi được mấy tháng thì gia chủ than vãn sợi vải đang trong thời kỳ khan
hiếm, công việc không nhiều, nên bảo tôi tạm nghỉ. Cũng may, ngay lúc đó một
anh bạn giới thiệu cho tôi chỗ làm mới trên con dốc Núi Sạn. Thế là ít hôm sau tôi
lại có công ăn việc làm. Ở nhà cô Tư Lệ và thím Ba Tâm trên danh nghĩa tôi là
người học việc nên họ không trả tiền công cho tôi.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Bạn đọc cảm nhận
về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện
ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng
Xuân Xuyến:
*.
TRẦN ĐỨC PHỔ
Địa chỉ: 819 Kleinburg Dr,
London
tỉnh bang Ontario, Canada.
Email: ducphot946@gmail.com
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản từ email tác giả gửi ngày 27.02.2024.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện
quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét