VÙNG TRỜI NHA TRANG
Vào đến Nha Trang việc đầu tiên mẹ tôi đã làm là tìm mua một căn
nhà để ở. Có an cư thì mới lạc nghiệp. Bà qua lại Núi Sạn, xóm Cồn Giữa, xóm
Bóng. xóm Cù Lao... nhiều lần. Cuối cùng, bà quyết định mua ngôi nhà sàn mái
tôn vách ván tại xóm Cồn Giữa thuộc phường Xương Huân.
Sau khi dọn về nhà mới, mấy chị lo tìm việc làm. Mẹ sắm đôi quang
gánh mua bán rau quả. Hàng ngày, bà dậy từ ba bốn giờ sáng đi đến tận chợ bán
sĩ trên Thành (Thành Diên Khánh cũ) mua sỉ rồi đem về bán lẻ ở chợ gần nhà. Anh
em tôi chưa đi học vì còn chờ nhà trường khai giảng năm học mới. Chúng tôi bỏ
học đã gần một năm qua, do trường ở Sa Huỳnh đóng cửa, thầy giáo di tản.
Mỗi ngày không có gì làm, tôi la cà, rong chơi với bọn nhóc mới
quen nơi vùng đất lạ. Gần chỗ tôi ở có một khoảng đất trống, bên mé sông. Mùa
đông mưa lũ nước ngập trắng băng, nhưng mùa hè khô cạn, bãi cát hiện ra, là chỗ
để bọn trẻ con đá banh, chơi đùa, chia phe đánh lộn. Trong đám bạn tứ xứ, có
thằng Xê, cao hơn tôi nửa cái đầu, thân hình mập ú, chơi rất thân với tôi. Một
hôm chỉ có hai đứa, nó bỗng dưng hỏi tôi:
- Ê này, Thư mày có biết bác Hồ là ai không?
Tôi không để ý gì đến câu hỏi, và cũng chẳng thèm nhìn nó, đáp cộc
lốc:
- Không!
Nó cười, chửi tôi:
- Mày ngu bỏ mẹ! Bác Hồ mà cũng không biết!
Lần này, tôi hơi tò mò:
- Sao? Bác nào thế? Mày biết ông ta à?
Thằng kia bĩu môi:
- Ừ, biết... nhưng chẳng thèm nói với mày!
- Mày xạo ke! Không biết thì nói không biết đi! Đừng làm bộ ta
đây!
Bị tôi chọc tức, nó ghé vào tai tôi nói nhỏ:
- Tao biết đấy! Bác Hồ là chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông là người rất
cao lớn, tài giỏi, có râu dài... Nhưng tao nói ra sợ cảnh sát nghe, nó bắt
tao... Chỉ nói cho mình mày nghe thôi. Cấm mày nói tùm lum! - Nó nói một thôi dài, nét mặt vô cùng nghiêm
nghị, không cười giỡn như lúc bình thường.
Thằng này lớn hơn tôi chỉ một vài tuổi, nhưng đã sống trong
vùng “giải phóng” nên khôn ngoan, và biết nhiều chuyện về cách mạng. Nó từng
nói với tôi đã tham gia vào đội thiếu niên nhi đồng gì đó. Nó mồ côi cả cha lẫn
mẹ, được bà nội đưa từ ngoài quê vào sống chung với ông cậu, anh trai mẹ nó.
Những điều nó nói thật là mới lạ đối với tôi. Lần đầu tiên tôi
được nghe đến hai tiếng Bác Hồ. Vậy là cái tật xấu muốn biết chuyện này chuyện
kia của tôi không kiềm chế được.
- Ông bác... Hồ... của mày bây giờ ở đâu?
Nó suỵt suỵt bảo tôi:
- Mày nói nho nhỏ thôi! – Nhìn dáo dác xung quanh, rồi nó tiếp:
- Ở Hà Nội.
- Vậy Hà Nội ở đâu?
- Ở Liên-xô!
Đến đây thì tôi đành chịu thua, vì Hà Nội và Liên-xô là cái quái
gì, tôi chưa từng nghe ai nhắc đến bao giờ. Tôi khâm phục thằng Xê này ghê lắm!
Nó thấy tôi nhìn nó với ánh mắt đầy “ngưỡng mộ” thì mặt mày vênh vênh, hớn hở,
cười vui.
Thành phố Nha Trang ngày nay, năm 1972 vẫn còn là một thị xã. Dĩ
nhiên dân cư không đông đúc như bây giờ. Dân tình hiền hòa, chân chất. Đời sống
yên lành và thanh bình khác xa với vùng xôi đậu Sa Huỳnh. Nha Trang có con
đường đẹp nhất, đó là đường Duy Tân (nay là Trần Phú), chạy dài từ hữu ngạn cửa
sông Cái đến Chụt, Cầu Đá. Ngày đó trên đoạn đường từ Viện Pasteur tới hành
cung của vua Bảo Đại có nhiều cây cối và bãi cỏ. Những chiều hoàng hôn mùa hè.
bọn trẻ con chúng tôi thường hay lang thang trên khúc đường này để tìm bắt
những con dế than, dế lửa về nuôi, rồi cho chúng đá nhau.
Khi màn đêm buông xuống, những chú dế vô tư thi nhau cất tiếng
gáy, đâu có ngờ đó là tín hiệu để nói rằng ‘lạy ông tôi ở bụi này’ với mọi
người. Chúng tôi chia nhau tuần hành men theo bìa cỏ xanh hai bên đường, hễ
nghe tiếng gáy nơi đâu thì lao tới đó. Nghe động, các chú dế giật mình nhảy
phốc lên, nhưng bị chói mắt bởi ánh đèn đường, ngay lập tức đáp xuống chưa kịp
hoàn hồn, nằm im như chết. Thế là bọn tôi nhào đến chụp lấy, bỏ vào bao ny
lông, mang về nuôi. Sau đó tụ họp lại, cho các chú dế tranh tài cao thấp.
Ngoài việc lùng bắt dế, chiều chiều tôi còn theo thằng Xê, đến khu
chợ chồm hổm gần bến xe Lam, lượn quanh các đống rác bỏ phế lâu ngày để nhổ
những cây cà, cây ớt con con mọc hoang dã đem về trồng. Đây là một công việc
thích nhất đối với tôi lúc đó. Cứ mỗi lần đứa nào tìm được một cây ớt hoặc một
cây cà mập mạp, khỏe mạnh, lá xanh như ngọc thì vui mừng reo lên. Bọn tôi cẩn
thận lấy cái que xới đất xung quanh, rồi mới bứng cả rễ và đất gói vào mảnh
giấy báo mang về. Không có chậu, tôi tìm cái lon sữa bột em bé thật to, đục lỗ
dưới đáy rồi trồng cái cây vào. Ngày nào cũng vậy, cứ sáng sớm ngủ dậy là tôi
chạy ra hiên nhà để xem thử mấy cái cây lớn lên được bao nhiêu. Mỗi lần có
chiếc lá mới nhú ra là thêm một niềm vui nho nhỏ. Sung sướng nhất khi cái cây
mình trồng bắt đầu ra hoa, kết trái. Ngắm nghía những chùm bông ớt, bông cà nhỏ
xíu, cái trắng muốt, cái tim tím lòng tôi lâng lâng khó tả. Chẳng bao lâu sau,
những trái ớt, trái cà non tượng hình, niềm vui đơn sơ của tuổi nhỏ cùng với
hoa quả kia lớn dần lên mỗi ngày. Nhìn những mầm xanh từ chính tay mình tự
trồng trong lòng dạt dào khoan khoái, dễ chịu. Niềm vui nào cũng quá ngắn ngủi.
Ba tháng hè qua nhanh. Chúng tôi tạm ngừng những ngày tháng lêu lổng để trở về
chuẩn bị cho mùa học mới.
Từ đường Phan Đình Phùng đi về hướng sông Cái, băng qua cây cầu
Ván, (thường được gọi là Cầu Xanh), bắc ngang con rạch chạy dọc theo đường
Nguyễn Bỉnh Khiêm, là khu vực Cồn Giữa. Tuy rằng thuộc thị xã Nha Trang nhưng
nơi đây chỉ là một khu dân cư tự phát, chưa hề được quy hoạch. Nhà cửa cất tạm
bợ, đa phần là nhà sàn, mái tôn, vách ván ép. Lác đác mới thấy có một căn nhà
xây gạch khang trang. Khi mới tới nhìn thấy những căn nhà sàn tôi cũng hơi lạ
lùng. Về sau mới biết công dụng của chúng. Cồn Giữa vốn là một khu đất trũng
ven cửa sông Cái nên năm nào cũng bị ngập lụt. Nhà sàn là cách chống lụt hữu
hiệu, ít tốn kém nhất.
Ngay đầu Cầu Xanh có con đường đất chạy về phía biển khá rộng rãi.
Đó là đường chính của xóm Cồn Giữa. Trường Tiểu học tư thục Đức Hòa,, hàng
quán, chợ, phòng mạch bác sĩ... đều nằm trên trục đường này. Còn lại là những
con hẻm nhỏ, ngang dọc, ngoằn ngoèo, len lỏi trong những khu nhà chật chội của
những người dân nghèo tứ xứ đến định cư.
Tại ngã ba trường Đức Hòa, men theo lối rẽ đi ra hướng bờ sông
Cái, lội qua một lạch nước cạn có lót vài tấm gi sắt, cứ tiếp tục đi thêm độ
hơn trăm mét nữa, sẽ đến bến đò ông La. Con đò này chạy bằng máy ép, chở người
qua lại giữa hai xóm cồn. Đây là lối bộ hành ngắn nhất nối Cồn Giữa với Cồn Cỏ.
Tôi vẫn luôn thắc mắc mãi không hiểu tại sao người ta gọi cái cồn bên mé hữu
ngạn, nơi tôi đang ở là Cồn Giữa? Trong khi đó cái cồn ở giữa sông lại gọi là Cồn
Cỏ?
Từ bến đò đi men theo bờ sông, băng con lạch cạn thứ hai là đặt
chân lên một doi đất hẹp nằm kẹp giữa sông Cái và khu đầm lầy. Đầu doi đất có
cái trụ điện cao thế hình tháp, được làm bằng những thanh sắt bắt chéo nhau.
Chân trụ đổ bê tông thành một cái ụ to đùng, vuông vức. Đỉnh trụ hình bánh ú.
Chiều chiều bọn trẻ con thường tụ tập ở đây để chơi giỡn, nói dóc, leo trèo lên
cái trụ điện. Có lần tôi xém bị mất mạng cũng tại chỗ cái trụ điện này. Hôm đó,
sau trận bão to, có một sợi điện cao thế bị đứt. Nhà đèn chưa kịp nối lại. Dây
điện nằm vắt ngang trên mặt đất như con rắn lớn bằng ngón chân cái của đàn ông.
Bên trong lớp nhựa đen nhánh thò ra lõi đồng vàng khè. Buổi trưa đi học về nhìn
thấy, tôi cất sách vở rồi cầm lấy lưỡi cưa nhỏ, loại dùng để cưa sắt, chạy ra
chỗ sợi dây điện. Tôi ngồi xuống cưa một khúc, định bụng rút lấy cái lõi đồng
đem bán nhôm nhựa mua cà-rem ăn. Đang lui cui, hý hửng cưa đứt lớp vỏ cao su
bọc ngoài thì giống như có ai đó đập mạnh vào sau vai tôi. Người tôi giật bắn
lên, rung bần bật. Hoảng quá tôi tưởng là bị ma quỷ đập vào người để trừng phạt
vì tội cưa trộm dây điện. Bỏ cả cưa, tôi chạy một mạch về nhà, trốn luôn vào
phòng ngủ, đóng cửa lại. Sau này mới biết luồng điện cao thế trong sợi dây chưa
ngắt hết, tôi lại dùng cưa sắt chạm vào nên bị giật. Hú hồn! Gần trụ điện là
cây keo tây khá lớn, tới mùa trái chín đỏ rực, nhưng cành lá gai góc nên ít ai
trèo hái. Kế tiếp cây keo già là một dãy nhà sàn, trong đó có ngôi nhà mới mua
của gia đình tôi.
Căn nhà đầu tiên của dãy, chủ là ai tôi không quen biết. Căn thứ
hai của chú Đạo, một ngư dân còn trẻ nhưng đầu đã hói, có một vợ và hai đứa
con. Đứa con gái lớn học chung lớp với tôi. Kế vách là nhà tôi. Căn thứ tư của
bác Liêm già, góa vợ, làm thợ cắt tóc dạo. Nhà bác có ba cô con gái chưa chồng,
cậu con trai út tên Sơn đang học lớp Đệ Thất. Cuối dãy, một ngôi nhà khá đồ sộ
nằm hơi chếch về phía cái đầm cạn là nhà của cậu thằng Xê, chủ tàu đánh cá. Nhà
đó có ba anh em, và một bà mẹ già. Người anh lớn nhất đã lập gia đình, nhưng
không có con, hai cậu em còn độc thân. Tôi ít trông thấy họ vì họ thường vào
Kiên Giang, Rạch Giá để làm biển, mỗi năm chỉ về vài lần. Ở nhà còn mỗi hai
người đàn bà, và thằng Xê.
Nhà tôi có hai cái cầu thang để lên xuống sàn. Một ở phía
trước hướng ra bờ sông Cái, cái còn lại ở phía sau hướng ra khu đầm cạn. Ngay
chân cầu thang có lối dẫn đến nhà cậu thằng Xê. Căn nhà chúng tôi ở rất nhỏ,
chỉ có hai phòng ngủ, một phòng khách, bếp và phòng ăn chung, không có nhà vệ
sinh. Căn nào cũng giống như nhau, ngoại trừ nhà thằng Xê có nhiều phòng ngủ
hơn. Lúc cần thiết mọi người sử dụng mấy cái toilet công cộng ngay chỗ cột
điện, do năm nhà cùng góp tiền làm, xả uế thẳng xuống con sông Cái, giống như
kiểu nhà vệ sinh ở miền Tây.
Tuy cuộc sống mới có hơi chật vật và lạ lẫm mọi điều nhưng đêm đêm
được ngủ thẳng giấc, không bị tiếng ca-nông làm giật mình hỏang sợ nên mặt mày
ai nấy cũng rạng rỡ, tươi vui. Tôi càng vui hơn khi được học trong một ngôi
trường mái ngói tường vôi, và còn quen biết một số bạn mới. Ngoài thằng Xê, và
con gái chú Đạo học cùng lớp, tôi chơi thân với thằng Đua nhà ở cạnh con hẻm,
chỗ cái lạch có lót mấy tấm gi sắt. Chuyện tôi làm quen với thằng này cũng từa
tựa như chuyện “anh hùng võ hiệp, không đánh không quen nhau.”
Số là một hôm tan học tôi và thằng Đua cãi cọ điều gì đó, tôi
không còn nhớ nữa. Mấy đứa quỷ sứ lại đổ thêm dầu vào lửa. Thế là hai thằng
nhóc lao vào đánh nhau túi bụi. Thằng Đua to khỏe nhưng lùn hơn tôi. Mỗi đứa có
một lợi thế riêng. Kẻ tám lạng người nửa cân, cuối cùng cả hai lỗ mũi đều ăn
trầu, cái đầu nổi u. Nhưng chỉ mấy hôm sau lại làm huề xí xóa chuyện đã qua và
kết bạn thân.
Một đứa bạn khác là thằng Tèo lai da đen. Nó nhỏ hơn tôi ba bốn
tuổi, không đi học, nhưng nhà ở chung xóm. Nó thường hay la cà, leo trèo chỗ
cái trụ điện cao thế. Tôi làm bạn vì thấy tính tình nó vui vẻ. Đầu tóc nó xoăn
tít, cái miệng rộng hoác, cười lộ cả hai hàm răng sún bên trong cặp môi dày. Nó
mê phim Lý Tiểu Long lắm. Hễ coi phim xong về nhà cứ bắt chước múa tay, đá
chân, trông cứ như chú khỉ. Không cần bảo, nó cũng thường múa quyền cho tôi
xem. Mỗi lần nhìn nó đánh võ tôi cứ ôm bụng cười ngất.
Dù học ở trường Đức Hòa chỉ có một năm nhưng đến bây giờ tôi vẫn
chưa quên ngôi trường này. Trường gồm hai dãy nhà ngói, tường gạch, phết vôi
vàng, hình chữ L. Một dãy quay lưng về phía con hẻm, dãy kia hướng mặt ra đường
Cồn Giữa. Hai dãy ôm gọn lấy cái sân rộng, lát gạch. Trong sân có cây cột cờ
cao. Mỗi sáng thứ Hai chúng tôi đều xếp hàng chào cờ trước khi vào lớp. Cổng
trường gắn một tấm biển sơn xanh. Hai chữ Đức Hòa màu đỏ to đùng, bên trên có
ghi hàng chữ màu vàng nhỏ hơn: “Trường Tiểu Học Tư Thục.”
Tôi học lớp Hai, do cô Lầm phụ trách. Cô có dáng người đậm, nhưng
cao ráo, nổi tiếng nghiêm khắc nhất trường. Đứa nào không thuộc bài hoặc không
làm bài tập cô bắt nằm dài trên ghế đánh từ năm đến mười thước gỗ. Bọn học trò
lớp lớn đồn rằng mấy năm trước cô đánh một đứa rướm máu cả mông. Bọn nhóc tôi
đứa nào cũng sợ cô. Quả nhiên suốt cả năm học tôi thấy có nhiều đứa bị đòn,
nhưng không đến nổi chảy máu mông. Tôi là đứa trẻ sợ roi nên luôn chăm chỉ học
hành. Vì thế đã không bị ăn đòn mà thỉnh thoảng được ghi tên lên bảng danh dự,
lúc bằng mảnh giấy màu xanh, lúc màu vàng.
Ba năm sống ở Nha Trang, tôi có đi xem xi-nê vài lần ở các rạp Tân
Tân, Tân Tiến với các anh chị. Lần khác, vào khoảng đầu năm 1975, tôi và thằng
Xê đang xem phim ở rạp Tân Thanh thì bỗng dưng có ai đó hô to: “Bom!” Thế là cả
rạp đứng lên, ùn ùn bỏ chạy. Nhiều người bị mất cả dép guốc. Khi ra đến ngoài
đường tôi mới biết mình cũng bị mất một chiếc dép. Thằng Xê nhìn tôi đi dép một
chân cười hô hố.
Trước ngày Nha Trang bị giải phóng thị xã vô cùng hỗn loạn. Những
toán hôi của tỏa ra mọi ngả đường. Chúng vào các cửa hiệu buôn, tiệm thuốc tây,
các nhà kho... đập phá lấy đồ. Thỉnh thoảng có tiếng súng trường nổ râm ran.
Nhưng là súng của bọn hôi của chứ không phải đánh nhau.
Hôm Việt cộng tiến vào thị xã, thằng Xê rủ tôi đi coi xe tăng. Nó
dẫn tôi lên đường Quốc lộ 1A đoạn bên này cầu Hà Ra, gần chỗ Ty Thông Tin. Lúc
đi trên đường Phan Bội Châu, tôi thấy tấm ảnh ông Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
nằm chình ình trên mặt đường, cúi xuống định nhặt lên. Thằng Xê đánh mạnh vào
tay tôi, nó nói to:
- Mày lượm làm gì? Coi chừng bị bắt đó!
Nó nói bị bắt hay bị bắn, tôi không nghe rõ nhưng cũng thôi không
nhặt nữa. Tiếp tục đi theo nó đến ngã ba Ty Thông Tin. Nơi đó có một đám đông
đang tụ tập, đa phần là phụ nữ và những đứa trẻ choai choai. Lác đác thấy có
một vài ông mặc áo sơ mi, quần tây, chân mang giầy da đen đứng xen lẫn vào. Một
đoàn xe tăng có nòng pháo dài ngoằn ngụy trang bằng vài chùm lá chạy qua. Trên
nóc mỗi thùng xe có một vài bộ đội đang ngồi vắt vẻo, đưa tay vẫy vẫy. Dân
chúng hai bên đường nhao nhao vẫy tay reo hò. Thằng Xê nắm tay tôi chạy ra một
chiếc xe tăng, đưa tay bắt với một anh bộ đội. Nó vui mừng cười toe toét khi
được người lính chìa tay bắt lấy. Năm đó, nó đã cao lớn rồi nên mới chìa tay
bắt được, còn tôi thấp bé không thể làm như nó.
Xem chừng một lúc lâu, thấy chán, tôi giật áo nó rủ về. Nó hất
tay, bảo tôi về trước. Tôi bỏ về một mình do không muốn mẹ ở nhà lo lắng vì
mình vắng mặt quá lâu trong thời buổi loạn lạc. Lúc tôi đi ngang qua trụ sở
phường Xương Huân nhìn vào trong thấy có treo một lá cờ nửa đỏ nửa xanh, chính
giữa là ngôi sao vàng. Ngay cửa ra vào có hai người lính bồng súng gác. Lòng
tôi trống rỗng, chẳng vui mà cũng chẳng buồn.
Chiều hôm đó có hai chiếc máy bay phản lực lướt qua vòm trời Nha
Trang. Một tiếng nổ to vang lên, một cột khói và lửa bốc cao bên phía bắc cầu
Xóm Bóng. Hàng loạt tiếng súng phòng không phát hỏa đì đùng. Bầu trời có những
cụm mây nhỏ màu trắng bung ra như những bông hoa tuyết đang nở
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Bạn đọc cảm nhận
về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Trương Ngọc Tuân đọc truyện
ngắn
CHÀNG LÙN NỂ VỢ của Đặng
Xuân Xuyến:
*.
TRẦN ĐỨC PHỔ
Địa chỉ: 819 Kleinburg Dr,
London
tỉnh bang Ontario, Canada.
Email: ducphot946@gmail.com
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản từ email tác giả gửi ngày 27.02.2024.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện
quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét