- Tác giả Nguyễn Thanh Lâm - |
CHỬ VĂN LONG
THI SỸ HỒN QUÊ LẠC LOÀI RA THÀNH PHỐ
Là bạn với
nhà thơ Chử Văn Long gần 20 năm, đã chọn nhau là tri âm tri kỷ, chuyện thơ
chuyện đời gắn bó sẻ chia. Nhưng viết về anh tôi tự dặn lòng mình phải thật tâm
vượt qua những tơ vương tình cảm. Viết là viết cho tôi, cho anh và viết để
người đọc hiểu thêm khát vọng thơ anh mong dâng hiến cõi người.
"Tuyển thơ văn chọn lọc" của Chử
Văn Long (năm 2012, nxb Hội nhà văn), nhà thơ Chử Văn Long không sắp xếp theo
trình tự thời gian, anh sắp xếp theo chủ đề cảm xúc vui buồn. Nhưng tôi đọc là
nhận ra thời gian xuất xứ của từng bài, từng chặng đời. Tôi nhắm mắt lại hồi
tưởng về anh và thơ anh tự thủa ban đầu cho đến hôm nay, cả những bài thơ không
in trong tuyển tập.
Trước
những năm 80 của thế kỷ trước là chặng thời gian các nhà thơ đàn anh như Xuân
Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận ảnh hưởng lớn đến các nhà thơ trẻ của thời ấy như
Chử Văn Long, Vũ Quần Phương, Bằng Việt... và các nhà thơ khác. Thời gian này
là thời gian đất nước đang dốc toàn lực cho cuộc chiến chống chiến tranh phá
hoại của Mỹ và giành độc lập toàn lãnh thổ, xây dựng tổ quốc.
Thời cuộc
sinh ra những nhà thơ thời cuộc. Thời chống Mỹ sinh ra những nhà thơ chống Mỹ.
Năm 1976
"Nguồn Yêu Thương" của nhà
thơ Chử Văn Long ra đời, chậm nhịp thời gian, anh như người đến sau. Hình như
số anh không gặp "thời! "Thời" không mỉm cười với anh như nhiều
nhà thơ thời đánh Mỹ đã thành danh như "Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Vũ Quần
Phương, Hữu Thỉnh..." nhưng so với bao người anh vẫn là người may mắn.
Thời ấy ra một tập thơ rất khó. Mặc dù anh đã nhập đời mình vào đội ngũ công
nhân, vào đời thanh niên xung phong, dù đã cố gắng bao nhiêu vẫn không viết
được thơ về đề tài xây dựng, chiến đấu. Thi thoảng anh đã có những câu thơ lóe
sáng. Lóe sáng và bị khuất chìm!
Ngẫm cho
cùng tài năng mới là quan trọng. Con tim dù cùng nhịp đập với thời cuộc nhưng
thiếu tài năng không thể có thơ hay, khi có tài năng, có thơ hay, dù bị thời
cuộc khuất lấp nhưng ở thời khác nó sinh lại và trường tồn.
Còn cái
"tạng" nữa, tạng người như anh khó hòa nhập với đời muôn mầu và trắc
ẩn. Anh ngây thơ, chân chất, thôn quê. Cái chân chất hiền lành thường bất khuất
khi bị dồn vào chân tường. Ý nghĩ ở anh mộc mạc, hồn thơ mộc mạc và anh bị đau
đòn trả giá...
Ở Quảng
Ninh, anh bị đòn hiểm của giám đốc cơ quan từng nói: "Cho anh đi viết văn,
sau này ai bổ óc anh ra mà rửa". Ở nhà máy bị tai nạn thơ, ở báo Người Hà
Nội cũng bị tai nạn thơ, rồi bị nghỉ việc ăn lương đi tìm những câu ca dao ế
'Nhà thơ bị vô hiệu hóa'. Ở nhà thì vợ ốm con đông, anh kiếm tiền không đủ nuôi
con, mua chiếc áo mới cho con cũng phải đắn đo ngẫm nghĩ, và phải
"Liều": "Lần này cha dũng cảm như người dũng cảm bước lên bàn
mổ". Nhà thơ phải đi buôn rau, đón hàng ở chợ Bắc Qua về mong kiếm đồng
tiền còm cõi cho con no bữa!
Thơ ơi!lúc
này thơ ở đâu?
Có lẽ vì
hoàn cảnh gia đình, vì trắc trở trong cuộc sống mà thơ anh buồn và phẫn trí.
Thương anh
thì nói vậy nhưng nhìn xa trong đời anh vẫn còn may mắn. chỉ so với bạn anh là
nhà thơ Hoàng Cát vì "Cây táo ông lành" mà tưởng chừng tàn lụi, phải
mười bốn năm gác bút ngồi vỉa hè để kiếm sống, để lại bàn chân nơi chiến
trường, trở về ngồi bán nước chè. Nhưng nghĩ sâu hơn, cùng một cái khổ nhưng
cảm thấu nỗi khổ ở mỗi người và mỗi thời khác nhau, thơ viết về những nỗi buồn
cũng khác nhau. Đấy là tạng thơ, tạng người.
Tạng thơ
của Chử Văn Long buồn, lúc cô đơn: buồn, lúc vui: cũng thấm buồn, nỗi buồn mộc
mạc hồn quê!
Từ "Nguồn yêu thương" năm 1976 đến
"Bông hồng bỏ quên" năm
1991 là nỗi buồn trong trẻo "Có một
ngày anh bỗng nhớ về em/ Ơi bông hồng bị bỏ quên/ Nở và tàn nào ai biết".
Bông hồng bỏ quên trong trang sách của Puskin và bông hồng của Chử Văn Long có
hương vị buồn và đẹp như nhau, mà khác nhau. Người thưởng hoa, thưởng thơ tinh
mới thấy.
Nhà thơ
Chử Văn Long thường có nỗi buồn vô cớ: "Nỗi buồn trong trẻo như nguồn suối/ Sớm mai róc rách chảy qua hồn"
và chính nhà thơ cũng không biết nỗi buồn từ đâu "Tôi mãi lần theo mà chẳng gặp/ Nơi nao suối ấy đã bắt nguồn".
Dần dần... nỗi buồn thấm sâu hơn với thời gian. Từ tập "Ru Những Trăm Năm" - năm 1997 NXB
Thanh Niên, nỗi buồn không còn trong trẻo nữa, nó thấm vị đời! Thơ Chử Văn Long
cũng mang chiều kích rộng hơn, xa hơn: "Ngày tháng lạc loài nơi phố xá/ Mùa xuân về thăm lại làng quê/ Ơi cánh
bướm vàng đang mê mải/ Có hay chăng bạn cũ sớm nay về". Nhà thơ "Chìm giữa một trời mơ với thực/ Ngẩng lên
hoa bưởi trắng trên đầu". Cảnh quê hồn quê, quá khứ, hiện tại nhập vào
hồn nhà thơ, đấy là giây phút thăng hoa như Liệt Tử nói: "Ta cưỡi gió hay gió cưỡi ta".
"Hồn quê"
là bức tranh thực và mộng giao hòa, cái đẹp của cảm, của thực và mộng, nhà thơ
say trong tỉnh thức "Mới biết lòng
vừa qua rất đẹp/ Bướm vàng theo mộng đã bay đâu". Bài thơ hay tự nó đã
hay như bông hoa đẹp tỏa hương đâu cần lời khen của người thưởng hoa. Nhưng yêu
hoa thì chắc là hoa không cấm.
Giá như
bài thơ nào cũng như "Hồn quê" thì sướng biết bao. Bao "Ngày lạc
loài nơi phố xá" trở về mà tắm gội tẩy trần bằng hồn quê - xông Hương thì
nhà thơ Chử Văn Long chẳng còn gì tiếc nuối. Anh sẽ nhìn đời bằng đôi mắt
"Hồn quê", không bao giờ nghĩ "Đời lắm lúc nhí nhăng, đùa chơi nhầm lẫn/ Chỉ tại ta quá say đắm yêu
đời/ Đã đi tìm tình yêu tuyệt đích/ Qua cả vai hề phút chốc mua vui".
Chỉ có
người chân chất ngây thơ mới đi tìm tình yêu tuyệt đích và trong "Tháng
ngày lạc loài nơi phố xá" đời đã dạy anh: "Vào xưởng thủy tinh/ Gặp toàn chai lọ/ Lòng bỗng phập phồng/ Điều chi
dễ vỡ".
"Hồn
quê" ở anh đã nhuốm màu cảnh giác, thấp thoáng lo xa. Anh nhận ra không có
tình yêu tuyệt đích, nhận ra: "Vui thì cũ mà nét buồn thật mới", nhận
ra: "Ta đã để lọt qua tay mình bao
niềm vui rất thực/ Bây giờ ngồi tiếc nuối ngẩn ngơ", anh nhìn anh rất
rõ "Một chút thông minh, đầy những dại khờ" và trong "Giấc mơ
mùa xuân" "Anh đã chết bao lần trong đau khổ/ Lại hồi sinh trong đó
bao lần" anh phải: "Quên đi mình tồn tại" vượt qua bản ngã
"Giữa cuộc đời đầy ắp âu lo", để ngộ ra một điều đơn giản, một tình
yêu nhỏ bé không phải tình yêu tuyệt đích: "Anh yêu em một tình yêu nhỏ bé/ Như bao điều nhỏ bé ở xung quanh/ Không
mong ước lớn lao, không mơ gì vĩ đại/ Ngoài đơn xơ mái ấm nhà tranh".
Thơ Chử
Văn Long thấm đẫm buồn! Nỗi buồn của thi sỹ hồn quê, hồn quê thuộc về anh, tạng
anh hợp với "Những người chân đất". Anh tạc chân dung của người chân
đất bằng thơ: "Cả khi có dép rồi họ
vẫn đi chân đất/ Chân đất đã quen, chân đất tự do hơn". Ôi cái
"Tự do" bản năng thơ ngây và thi vị. Tự do gọi tự do!
Anh thổi
vào hồn họ sự hồn nhiên nhi nhiên: "Không
đọc sách và không mơ mộng/ Dễ tin người cả những chuyện tào lao/ Họ có thể ngồi
bên cỗ quan tài nghe thổi kèn và uống rượu/ Uống thật tự nhiên uống đến say
mèm/ Trong cơn say nhìn vào dễ hiểu/ Họ cũng cần đôi lúc để lãng quên".
Nếu Lão Tử sống lại chắc sẽ gật đầu, và ông sẽ giật mình khi cái chất phác hồn
nhiên nhi nhiên ở thời nay không còn, người nông dân thời nay cũng am tường
sách vở và cũng thực dụng.
Chất
nghênh ngang thuần phác của người chân đất nhập vào anh "Nghênh ngang mấy chú xe thồ/ Chở bao nhiêu
nỗi giày vò đi theo". Có lúc anh nhập vào thuyết bình đẳng của nhà
Phật, anh buồn cùng "Cây cỏ", "Hòn đá vô tri". Vạn vật và
con người trong đôi mắt Phật đều bình đẳng không kể sang hèn "Người dưng quen thuộc chi nhau/ Mà tôi
thương nỗi dãi dầu nắng mưa". Thực ra câu thơ mang tính Phật anh không
hề hay biết và tất cả các nhà thơ ở trần gian này khi viết nhưng câu thơ tình
người mang tính Phật không hay biết. Nhưng bản tính thương người 'Phật tự tâm'
và thơ cũng là thuộc tính của tình người. Tình yêu thương và tài năng cho con
người trở thành thi sỹ.
Anh nhập
hồn mình "Nói thay lời các em bé quê" khi thấy cảnh "Làng em cơn bão đi qua/ Vườn xanh chết rụi,
mái nhà ngói bay"... "Vậy
mà mây trắng nhởn nhơ/ Trời xanh như chửa bao giờ bão giống". Mây nhởn
nhơ, trời xanh vô tư nhưng lòng anh không thể vô tư với cảnh đời! Nhưng lạ thay
khi anh ngồi "Trong phòng họp", sự đời ở đây "Tai nghe mà chẳng rõ/ Hồn đang ở nơi nào",
khi anh nhìn ra thế giới "Thế giới
đau nỗi đau tan vỡ/ Liệu có gì tiếp nối với tương lai", nhìn thế giới
xa xăm anh thấy: "Thế giới như thể
bàn cờ, bày ra, dập xóa/ Những bàn tay đeo găng trắng muốt, chơi cờ trên số
phận nhân dân". Anh đi qua nhà thờ: "Tháp thì cao, cửa thì cong/ Khóa im ỉm giấu bên trong điều gì",
anh viết "Thơ tình cửa Phật" "Thân nằm trong tháp vô vi/ Hồn còn khật khưỡng bước đi bên ngoài".
Năm hòa bình 1975, anh đã có câu thơ in ở báo Nhân dân:" Sao tim tôi lại gióng còi báo động/ Khi từ
lâu mặt đất đã báo yên". Có lúc anh hồ nghi cả chính mình, hỏi mình
kiếp xưa mình là ai? "Có lẽ kiếp xưa mình là cá"... "Có lẽ ngày
xưa mình là chim"... "Hay là
kiếp trước mình thi sỹ/ Toàn mơ mộng hão vẫy vùng chơi". Tưởng tượng
kiếp xưa, nghĩ phận kiếp này, cuộc đời ngắn ngủi. Anh ước được sống: "Ước gì sống đến trăm năm/ Để ru mặt đất nhọc
nhằn sớm khuya/ Ru người lúc tỉnh lúc mê/ Sương như nước mắt đầm đìa năm canh".
Nhớ lần
tôi đến thăm anh 'Khi anh bị ngã xe máy gẫy tay', bàn tay bó bột chắp vào bàn
tay lành. Dáng anh khom, mái tóc dài buông xòa trán, anh đứng trước ban thờ
thắp nén hương khấn vợ, anh thầm khấn điều gì không nghe rõ... Khói hương bay
chờn vờn bồng bềnh tỏa lan hình như đã thấm vào tập thơ "Ngôi sao đã khóc".
Anh khóc vợ bằng thơ, 30 bài thơ khóc vợ đã làm rơi nước mắt của bao người
trong đêm "Thơ - nhạc - Chử Văn Long - Huy Thục" ở phố Lương Văn Can.
Những giọt nước mắt ấy an ủi đời thơ Chử Văn Long, cái mơ ước sống trăm năm có
thể không tới, nhưng ru con người... lúc tỉnh lúc mê long lanh nước mắt cảm
thông thì đã là hiện thực!
Có người
bất bình khi anh để trong "Ngôi sao đã khóc" 30 bài thơ khóc vợ cùng
với thơ viết tặng Quỳnh Hoa. Anh im lặng không giải thích, anh biết con người
quen nếp nghĩ đời thường, quen theo sách vở, thậm chí họ hay bàn về "Vô
ngã" nhưng họ biết đâu khi cao giọng bàn về "Vô ngã" thì đã
"Ngã" rồi.
Thơ tình
Chử Văn Long là thơ buồn "Đẹp và buồn" viết thơ tặng vợ đã buồn, viết
về Quỳnh Hoa tưởng vui mà cũng buồn. Đời buồn thơ có bao giờ vui được!
Nhưng nỗi
buồn sâu thẳm nhất của Chử Văn Long là khát vọng thơ! Khát vọng được người biết
mình, hiểu mình muốn thơ "Ru những trăm năm". Khát vọng ấy cũng là
khát vọng của những nhà thơ, nhưng có lẽ ở nhà thơ Chử Văn Long cồn cào hơn,
say hơn. "Hồn anh như thác như
ghềnh/ Đã lao lao đến tan tành vẫn lao/ Con tim còn giọt máu nào/ Giành cho thơ
với ngọt ngào cho em". Nhà thơ Chử Văn Long rất tin ở thơ mình, anh
đặt lên lòng tay những bài thơ hay của anh và những bài thơ hay của các nhà thơ
cùng thời để có cớ để tin, và anh tự nhủ: "Và ta biết có ngôi sao đã tắt/ Triệu năm rồi ánh sáng còn bay/ Nên tin
lắm cả khi ta đã khuất/ Hồn thơ ta còn thổi gió trong cây".
Nhưng sao
phải đợi khi đã khuất? Hôm nay, bây giờ thì sao? Anh biết mình và tin mình nhưng
đời đánh giá thơ anh ở tầm cao nào, tầm cao cũng nhiều tầm lắm! Tôi hiểu khát
vọng thơ là nỗi buồn sâu thẳm của anh biết vì sao anh "Tự đùa", khi
hàng ngày đi qua nghĩa trang Văn Điển: "Có lẽ mình bất tử cũng nên".
Anh tự
biết mình, biết thơ mình và tự thú: "Vì sao cùng lứa các nhà thơ chống Mỹ,
thơ tôi lại nghiêng về những số phận nhỏ nhoi, khuất lấp, u buồn", anh
chọn con đường riêng cho thơ anh. Anh nói "Với thơ": "Anh yêu và đến với em không thể theo lối cũ
mòn/ Người đã hái hết hương hoa trên nẻo ấy". Anh tìm xuân về trên mộ
hai người lính: "Mùa xuân về trên mộ
hai người lính/ Một phía bên kia, một phía bên này/ Những ngọn cỏ gà bò lan
chầm chậm/ Như những bàn tay tìm gặp bàn tay". Anh tìm thấy mình ở
"Thị xã bên bờ biển đẹp": "Thị
xã như con tàu neo lại bên bờ vịnh đẹp/ Mạn còn vỗ sóng Hạ Long xanh"
và: "Mười năm sống ở đây/ Hòn Than
cho tôi nếp nghĩ/ Để tỏa sáng phút giây phải triệu năm trong lòng đất âm thầm".
Anh tìm thấy mình trong hồn "Người thổi sáo" và "Vĩ nhân chết đi bao hay dở để lại ở đời/ Người
thổi sáo chỉ để lại mơ hồ tiếng sáo/ Tiếng sáo đã ra ngoài ống sáo".
Tuổi cao,
nhà thơ Chử Văn Long biết mình biết người hơn. Một lần ở quê cụ Nguyễn Du về
anh bảo: "Để người đời đánh giá đúng thơ mình thật khó!".
Thế rồi
như số phận: Anh gặp người ngưỡng mộ thơ anh. Trong quyển "Cảm nhận thi
ca" nxb văn học năm 1999, tác giả Trần Văn Lý đã xếp anh "Ngồi cùng
chiếu với nhà thơ Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Tố Hữu, Nguyễn Bính" thành 5 ngôi
sao của thế kỷ 20 đã làm bao nhà thơ không chịu nổi, cũng vì khát vọng thơ mà
anh rơi vào tai họa. Có phải vì thế mà anh viết "Thiên tài là cái gì không
chịu nổi"? Có phải vì thế mà anh viết về Patenak, Exenhin, Puskin. Không!
Patenak anh in ở "Ru những trăm năm" - NXB Thanh Niên 1997, trước cái
thời tai họa vì chiếc "Ghế thơ". Người ta lấy cớ bảo anh kiêu ví mình
là thiên tài. Nếu người đời đọc kỹ sẽ thấy Patenak là nỗi buồn của lòng anh
muốn chia sẻ, chia sẻ với nỗi buồn của Exenhin và Puskin "Tôi như nghe thấy tiếng thở dài/ Những thế
kỷ đi cùng bóng tối/ Từ đây đã mọc lên/ Những mặt trời Puskin, Exenhin".
Nỗi buồn
của khát vọng thơ bật lên như câu hỏi cùng lịch sử thành nỗi buồn chung nhân
thế: "Lịch sử sao mà nghiệt ngã/
Luôn chứa ở trong mình dối trá/ Đã ở đâu tìm được công bằng/ Ai nói rằng lịch
sử của nhân dân/ Nhân dân đã bao giờ tự tay cầm lấy" Tầm tư tưởng của
thơ! Thiết nghĩ nếu Exenhin, Puskin chẳng tâm đắc sao.
Không nhập
được với những bon chen cuộc sống, anh thích "Chuyện trò cùng các vì
sao" nhưng có vì sao nào nghe thấu, có lúc buồn anh nghĩ chắc phải đợi đến
lúc "Đóng nắp ván thiên" đời mới hiểu mình! Không phải thế đâu hỡi
nhà thơ của "Hồn quê", thơ anh có một "Thánh địa" riêng,
thánh địa của những số phận nhỏ nhoi khuất lấp u buồn, thánh địa của những
người chân đất - những người chân đất chiếm đa phần ở hành tinh này, họ đang
cần anh, anh cứ hát những bài hát đồng quê - thơ anh cho dịu nỗi buồn của họ.
Thơ anh có nhiều bạn đọc đó là sự thực, dù người không yêu anh cũng phải tin.
"Hồn
quê" thì cứ "Hồn quê", đàn bầu thì cứ là đàn bầu, dù đàn bầu
chơi được nhạc Mozart thì hãy chờ thời gian cho công chúng luyện tai đã. Nhưng
chơi đàn bầu cũng cần kỹ thuật, thơ cũng cần kỹ thuật, xong kỹ thuật quá sẽ
thành thợ thơ, thợ gẩy đàn bầu. Hồn thơ - hồn nghệ sỹ mới là gốc, gốc khỏe bám
sâu hút mạch tiên thiên. Thơ Chử Văn Long ấm áp nhuần nhụy hồn quê, hồn quê dẫn
mạch tiên thiên trong thơ anh thấm vào hồn người đọc, và người đọc đồng cảm với
nỗi buồn của anh. Buồn vì nghèo túng, buồn vì "Hồn quê" "Lạc
loài nơi phố xá", buồn vì khát vọng thơ sâu thẳm ở trong anh, "Ru
những trăm năm". Trăm năm thì chưa biết thế nào nhưng hôm nay đời đã đọc thơ anh với tấm lòng đồng cảm.
*.
NGUYỄN
THANH LÂM
........................................................................................
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi qua email ngày 14.12.2015
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét