(Nguồn ảnh: internet) |
CẦN
XÂY DỰNG MỘT THẾ HỆ
TRÍ
THỨC MỚI
- Phiên bản thu gọn đã
đăng trong Tạp chí văn hóa Nghệ An, Số 307: Cần bắt đầu xây
dựng một thế hệ trí thức mới -
(Tác giả Dương Quốc Việt) |
Trên con đường đổi mới đất nước, nhằm theo kịp sự phát triển của thời đại,
chúng ta đang gặp phải những khó khăn lớn, mà một trong số đó là những mặt hạn
chế của văn hóa dân tộc, và tầm vóc của đội ngũ trí thức hiện nay. Để khắc phục
những khó khăn này, trước hết chúng ta cần bắt đầu để xây dựng một lớp người
mới, văn minh và minh triết, đủ giác ngộ về bổn phận cá nhân đối với dân tộc.
Những mặt hạn chế
của văn hóa dân tộc
Chúng ta đã có một bề
dày lịch sử những chiến tích trong các cuộc chiến tranh giữ nước. Sự quật cường
của dân tộc này luôn được trỗi dậy sau những đêm trường nô lệ. Lịch sử đã chứng
minh rằng, chúng ta đã từng mất nước, nhưng chúng ta gần như chưa hề bị mất
làng. Chúng ta đã luôn giành lại được độc lập, luôn giữ nguyên được bản
sắc. Nhưng tại sao dân tộc này phải gánh chịu nhiều cuộc xâm lăng đến như vậy?
Phải chăng qua nhiều
thời đại, chúng ta chưa có được nền văn minh của một nước hùng cường,
đủ sức dập tắt mọi ý chí xâm lược của ngoại bang. Phải
chăng cái văn hóa “phép vua thua lệ làng” đã khiến chúng ta luôn
giữ được bản sắc, cho dù bị đô hộ trong những thời gian dài, thì nó
cũng là nơi ẩn nấp cho những khuyết tật nghìn đời, làm tổn hại đến sự
tiến bộ. Phải chăng văn minh “làng xã” cùng với tư tưởng ”thua thầy
một vạn chứ không chịu kém bạn một li”, đã làm cho cái “thiên
hạ” trong mắt mỗi cá nhân trở nên vô cùng nhỏ bé. Rồi những giấc
mơ thần “Phù Đổng” không thể không khiến nảy nở tư tưởng “sáng cấy
chiều gặt”, đã tạo nguồn cho đức tính
thiếu kiên nhẫn, và đặc biệt còn có phần hoang tưởng nữa. Những truyền kỳ
về “cá chép vượt vũ môn”
đã khiến sĩ tử của bao đời nay, mơ ước đổi đời bằng những cuộc thi.
Tất nhiên “kẻ đỗ đạt thời nào chẳng có”, nhưng trong mọi thời
đại chúng ta đều rất thiếu những tác phẩm lớn, những công trình lớn, những nhà
quản lí lớn, và cả những nhân cách lớn…, giúp canh tân đất nước.
Rút cục mấy nghìn năm
văn hiến vẫn “con trâu đi trước cái cày đi sau”. Tính cục bộ, sự đố kỵ…,
luôn diễn ra trong mọi ngóc ngách của đời sống xã hội. Nó phổ biến đến
nỗi khiến đại thi hào Nguyễn Du trong Truỵên Kiều bất hủ đã phải chua chát
buông lời:
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Hỏi còn đâu miền đất
hứa cho những nhân tài, cho những lao động sáng tạo, cho những chí hướng
khác thường, tạo những đột phá…, có chăng cũng là quá ít. Thứ văn hóa kể trên
đã và sẽ là một lực cản rất lớn trong quá trình kiến quốc, nó còn là một trong
những mầm mống gây nên sự chia rẽ, cắt cứ, suy yếu, thậm chí dẫn đến làm
mất nước.
Tầm vóc của đội
ngũ trí thức và những bài học
Kể từ khi chấp chính,
Đảng Cộng Sản Việt Nam đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh, đã sớm đặt vấn đề: xây
dựng nền văn hóa mới và con người mới. Kết quả là chúng ta đã có một lớp
người, một xã hội, đáp ứng xuất sắc sứ mệnh giải phóng dân tộc và thống nhất
đất nước.
Nhưng trong bối cảnh
“tất cả cho tiền tuyến”, cũng là lúc mà cái văn hóa “phép vua thua lệ làng”
đựơc dịp hoành hành, một lớp “cường hào mới” xuất hiện ở không ít cơ quan,
phường, xã, thôn, bản. Trên thực tế họ chỉ là một lớp người ăn theo, mà không
đủ giác ngộ về đảng, giác ngộ về bổn phận của cá nhân đối với đất nước. Chính
tầng lớp này, đã gây cản trở không nhỏ tới nhiều chủ trương chính sách lớn quốc
gia, đặc biệt là đường lối xây dựng đội ngũ trí thức. Cảnh đời “con xanh
đầu thì bỏ, con đỏ đầu thì nuôi” đâu đó diễn ra đầy ai oán. Mà hệ luận của nó, là
tạo nên một lớp công chức, trí thức, đảng viên kém phẩm chất, bên cạnh đó
là làm nhụt đi ý chí của không ít các nhân tố tích cực, rất cần cho sự nghiệp
cách mạng của một đảng chân chính.
Vì vậy, mặc dù chúng
ta đã có một thế hệ trí thức đông đảo, nhưng hình như một số đông trong lớp
người này, chưa phải là những đại diện xứng đáng nhất cho mỗi ngành nghề mà họ
được tuyển chọn. Một phần nguyên nhân là bởi chiến tranh, khiến nhiều
thanh niên ưu tú phải xa rời trường học để ra mặt trận. Bởi chính sách ưu tiên
thái quá của một thời người ta dành cho những cá nhân, vốn còn là những người
bất cập và thiếu tự giác trong tu dưỡng và học tập, thiếu nhận thức về bổn phận
của cá nhân đối với gia đình và đất nước. Bởi “chủ nghĩa thành phần”, khiến cho
không ít thanh niên xuất sắc bị ngừng học, hoặc phải xa rời những vị trí và
những nơi đào tạo rất cần có họ. Bởi không ít nơi đã cố tình vận dụng sai chính
sách của Đảng, để tạo nên sự phân biệt đối xử. Khiến cho kẻ được ưu đãi thì có
xấu cũng được cất nhắc, ngược lại con em những thành phần được coi là không “cơ
bản” thì dù có tốt mấy cũng chỉ đủ để che thân. Trong một thời gian dài như
vậy, hỏi “nguyên khí” của dân tộc liệu có suy kiệt hay không?
Hình như văn hóa, tình
cảm và đạo đức của họ chưa đủ để đón nhận những triết lý huyền diệu của cuộc
sống, và những lý thuyết khoa học thâm sâu của nhân loại. Họ nhận thức các quy
luật khoa học một cách nông nổi và duy lý, tức là chưa hề “giác ngộ”. Ngoài một
ít kiến thức mà họ tiếp nhận được bằng truyền trao, thậm chí nhiều khi chỉ cốt
thi cho đỗ. Họ rất thiếu bản lĩnh, tính cách, ý chí của một công dân văn
minh, đóng góp cho sự phát triển đất nước. Chưa kể đa số đã bị “văn minh làng
xã” chinh phục trở lại, hay thậm chí đâu đó, họ còn làm mất đi tính
chất phác của văn minh này!
Sự tác động phản khoa
học vào quy trình đào tạo và sử dụng đội ngũ trí thức, khiến chúng ta mới
chỉ tạo ra một lớp người có nhiều bằng cấp, mà không ít trong số
đó là những con người “được trông mất cậy”. Hình như chúng ta đã phải
nuôi những chú “mèo” không có khả năng “săn chuột”, hoặc không
muốn làm cái bổn phận “săn chuột”. Sự nâng đỡ thái quá cho một lớp người,
đã để lại những mặt trái của nó. Một mặt làm họ ngộ nhận về khả năng, mặt khác
họ sẽ không biết trân trọng và đánh giá những thành quả lao động, những khả
năng chuyên môn. Đặc biệt là họ nhìn nhận cái danh, sự cống hiến và thành
đạt một cách sai lệch. Họ không giống “kẻ sĩ”
của bất cứ thời đại nào, mà trái lại họ là một lớp
người quen sinh hoạt công cộng, ưa các hoạt động bề nổi, sính phô trương vật
chất, và không ý thức được cái bổn phận chính mà họ cần phải
gánh vác… Rồi không ít kẻ đã lấy tấm gương của bọn “tham quan” làm mục tiêu
phấn đấu của đời mình. Còn những cá nhân mang tâm hồn “kẻ sĩ” biết say mê
với học thuật và nghề nghiệp thì sớm bị cô lập, thậm chí còn trở thành các đối
tượng cá biệt và bị chụp mũ là “chuyên môn thuần túy”. Trong bối cảnh như
vậy, liệu có sản sinh ra những trí thức lớn hay không?
Sự giác ngộ về bổn
phận của mỗi cá nhân đối với đất nước là tiền đề quan trọng làm nên sức mạnh
của một dân tộc. Lãnh tụ Hồ Chí Minh do sớm giác ngộ sâu sắc được bổn phận đối
với đất nước nên đã đón nhận trí tuệ và tinh hoa văn hóa của nhân loại,
kể cả con đường cứu nước như một nhu cầu tự thân. Chính vì vậy Người đã thấm
nhuần nó, và nó được hòa quyện trong Người, bằng cả tình cảm, tư tưởng và
hành động… Đặc biệt là Người đã cảm hóa được một đội ngũ trí thức có nhân cách
lớn đi theo cách mạng. Đội ngũ này đã dám từ bỏ những vị trí cao sang, nơi
xuất thân danh gia vọng tộc để theo cách mạng làm cái sứ mệnh giải phóng
dân tộc. Kết quả là, trong thời kỳ giành độc lập và kháng chiến cứu quốc, chúng
ta đã có một đội ngũ trí thức, tuy không đông, nhưng đã có những đóng góp rất
to lớn cho đất nước. Họ đã từng phải làm cả cái sứ mệnh biến “những kẻ
quê mùa trở thành trí thức”.
Tương phản với họ,
chính là tầng lớp “cường hào mới” như chúng ta đã đề cập ở trên. Tầng lớp này
hầu như đã không hiểu, hoặc hiểu sai các nguyên lý khoa học. Họ hăm hở bước lên
vũ đài với vũ khí trong tay là ngọn giáo “đấu tranh giai cấp”, đánh vào “lịch
sử nhân loại”. Và đội ngũ trí thức, chính những người đã từng phải xóa mù cho
họ, và tất cả các tầng lớp được coi là “phi vô sản”, luôn là mục tiêu tấn
công của họ. Những công trình văn hóa, những tinh hoa dân tộc, phải tích lũy
hàng nghìn năm mới có, nay đều bị họ phá hủy!
Thế hệ trí thức cũ qua
đi, còn lại đội ngũ trí thức mới, mà được gọi là “vừa hồng vừa chuyên”,
những đứa con được đẻ ra từ chính sách ưu tiên và thời chiến, như đã đề cập ở
trên. Số đông trong đội ngũ này, một phần còn hạn chế về trình độ,
một phần còn chưa được sử dụng một cách có hiệu quả. Một bộ phận khác tuy có
chuyên môn cao, nhưng họ luôn lo ngại vì sợ bị “chụp mũ”. Còn
tầng lớp được ưu ái đặc biệt, thì bên trong họ tận hưởng những thành quả cách mạng
của cha anh, bên ngoài thì có các thầy trong phe Xã Hội Chủ Nghĩa cứu cánh.
Những người này sớm tìm con đường xa chuyên môn để nhanh được tiến thân, hoặc
chờ đợi những chuyến đi để nâng cao bằng cấp. Hình như quá trình giáo dục
và đào tạo vẫn chưa đủ để số đông trong đội ngũ
trí thức mới “lột xác”, điều mà tổ quốc cần ở họ.
Vì thế một bộ phận
không nhỏ đã sống a dua theo đám đông và cấp trên, mang bên mình cái lý thuyết
“hạt cát trong sa mạc”. Một số khác đã rất sành sỏi trong việc tung ra những vũ
khí xảo biện, những ngón đòn của bọn “đạo chích” để hòng làm nhụt
các khí phách cá nhân quanh họ. Rồi những cảnh bi hài của trò “khỉ vặt lông
khỉ” đã diễn ra thường xuyên và khá phổ biến, càng làm cho họ thêm mông muội
tối tăm. Trong thời chiến, họ mơ tưởng một ngày kia khi chiến thắng tới, đất
nước này sẽ trở thành trung tâm của thế giới, và “một ngày bằng hai mươi năm”
sẽ đến. Thế rồi cái gì đến sẽ đến. “Vận nước gặp cơn dâu bể”, những năm
tháng kéo dài trong sự lãn công, sự thiếu thốn cùng cực của một thời bao cấp,
những cuộc thi cử theo kiểu “treo tiền cột mỡ”, mong được đổi đời bằng một
chuyến du học Đông Âu…, một lần nữa lại nghiền nát tất cả những sinh
khí cần có của tầng lớp trí thức.
Rồi như một tất yếu,
sự đổi mới phải tới, và đó là cơ hội phát triển cho hầu hết các thành phần
kinh tế trong xã hội. Nhưng đáng buồn thay, hầu như đóng góp của tầng lớp
trí thức trong sự phát triển các thành phần kinh tế này là không đáng kể. Ngược
lại để đua ganh với các thành phần kinh tế khác, người ta mang tinh thần “chợ
trời” vào trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu…, cốt sao kiếm tiền hiệu quả.
Kết quả là biết bao nhức nhối xảy ra trong xã hội đương đại. Mấy chục năm cải
cách giáo dục và thi cử, làm suy kiệt giống nòi, mà vẫn chưa đâu vào đâu. Những
cảnh nhan nhản trường lớp và những người đi học, nhưng lại không nhiều người
thực học. Người mang danh nhà khoa học thì đông, nhưng lại không nhiều người
làm khoa học. Đất nước còn nghèo, nhưng đã phải tiêu phí rất nhiều tiền cho
những dự án vô bổ, nằm trong tay những kẻ giả danh nhà khoa học.
Thế rồi đâu đâu cũng
tự coi mình là mũi nhọn, tranh nhau cả những vị trí, những cái danh hão huyền
nhất. Kẻ nhanh chân chiếm được “ngôi cao” thì phát huy lợi thế uy hiếp kẻ khác.
Hình như họ đang cố truy lĩnh tất cả vật chất, danh vọng, địa vị, và sự sa đọa
mà cha ông họ chưa từng được biết đến thì phải (!?) Những tiếng nói tâm huyết
đâu đó đã trở thành xa lạ và lạc lõng. Sự tôn nghiêm của nơi học thuật, tưởng
như vĩnh hằng đối với mọi quốc gia, mọi dân tộc, và mọi thời đại, nay đã bị suy
giảm rất nặng. Lạm phát bằng cấp và học hàm, học vị, cùng các trường đại học,
diễn ra đến chóng mặt. Nền hành chính của chúng ta vốn quan liêu bao cấp, nay
lại thêm bệnh “bằng cấp” và “chứng chỉ” nữa. Thiên hạ có thứ gì người ta cũng
cố nặn ra thứ đó, chỉ khác là nó được chế tác bởi những người làm “hàng mã”
(!?) Phải chăng đó cũng là cái giá cho nền độc lập và thống nhất, mà dân
tộc này phải trả!? Con người quyết định tất cả, không một quốc gia nào, dòng họ
nào, gia đình nào muốn thay đổi số phận, lại xuất phát từ một lớp người tham
lam, vị kỷ, cố tận hưởng tất cả những gì mà có thể giành giật được.
Tình trạng “cắt đau để
buồn” của một số không nhỏ công chức hôm nay đã để lại một bài học lớn rằng,
không nên lạm dụng quyền lực áp chế vào giáo dục và đào tạo. Rằng lĩnh vực này
cần được duy trì một cơ chế tương đối độc lập, để đảm bảo sự tôn nghiêm theo
truyền thống của nó. Rằng không được thỏa hiệp về chất lượng đối với bất cứ đối
tượng nào, và giai đoạn lịch sử nào. “Bài toán dùng người” luôn phải được ôn
lại ở mọi thời đại và mọi thế hệ. Rằng ta dùng được “nhân tài” thì có lợi cho
ta, quyết không phải ta dùng họ vì muốn “ban ơn” cho họ, và nên nhớ “ba
quân dễ kiếm một tướng khó cầu”, hay “một người hay lo bằng một kho người hay
làm”. Những luân lý cơ bản phải được dạy hết sức cụ thể về bổn phận làm con,
làm công dân…, bổn phận của cá nhân với cộng đồng, với dân tộc, với nhân loại…
Rằng dù ở đảng phái nào, giai cấp nào thì quyền lợi của dân tộc bao giờ cũng
được đặt lên trên hết…
Hãy bắt đầu để xây
dựng một lớp người mới
Vào cuối những thập
niên 70 và đầu thập niên 80 của thế kỷ 20, để hiện đại hóa đất nước Trung Hoa,
người ta đã đặt vấn đề “xây dựng lại đội ngũ trí thức”, thiết nghĩ rằng chúng
ta cần lưu tâm đến điều này.
Hơn bao giờ hết để
thay đổi đất nước chúng ta đang rất cần có một đội ngũ trí thức chân chính, văn
minh và minh triết. Đó là một lớp người phải có văn hóa cao, có bản lĩnh vững
vàng, có chí tiến thủ, có đức hy sinh, cần mẫn và nhẫn nại, xứng đáng là tinh
hoa của dân tộc. Một lớp người trung thực, có nhân cách lớn, giác ngộ được bổn
phận của cá nhân đối với gia đình và đất nước, là lực lượng xung kích trong mọi
lĩnh vực, có tư duy phản biện cao, và dũng cảm chỉ ra những sai lầm của những
chủ trương, đường lối thiếu sáng suốt. Một lớp người có giác ngộ tri thức, tức
là thấm nhuần tri thức bằng cả tình cảm, tư tưởng và hành động, học phải đi đôi
với hành, biết vận dụng tri thức một cách sáng tạo. Một lớp người có hoài bão
lớn lao đưa đất nước đi lên, mẫu mực và đi đầu trong lao động sáng tạo, có tình
nhân ái bao la với cộng đồng và nhân loại, có lòng tự trọng cao và say mê với
nghề nghiệp. Một lớp người vững vàng về chuyên môn, có hiểu biết rộng, có
tư duy phân tích gắn liền với tư duy tổng thể, năng động và hội nhập, có khả
năng liên kết cao trong lao động tập thể, thích ứng nhanh trong quá trình
đổi mới. Một lớp người có tầm nhìn xa và giàu ý tưởng, hiểu sâu sắc các bài học
từ lịch sử trong quá khứ, biết đặt vấn đề cho hiện tại và hướng tới tương lai.
Một lớp người luôn biết học hỏi không ngừng, biết khơi nguồn thức dậy cho năng
lực bản thân và đồng nghiệp, có xúc cảm cao về trí tuệ, đạo đức và nhân cách,
biết đau những nỗi đau của dân tộc, của đất nước và của nhân loại, biết công phẫn
và nhức nhối trước những thói hư tật xấu, biết yêu lẽ phải và dũng cảm trong
đấu tranh và bảo vệ công lý. Họ cần biết khiêm tốn và biết tự đánh giá đúng bản
thân, trân trọng thành quả của đồng nghiệp và biết học hỏi, lắng nghe, và chia
sẻ với những người xung quanh, có đạo đức nghề nghiệp cao, không đố kỵ, có khả
năng cạnh tranh lành mạnh. Họ phải là lớp người biết phát huy những mặt
tốt văn hóa dân tộc, gương mẫu trong việc xóa bỏ tàn dư của những
thứ văn hóa xấu, biết tiếp thu và chuyển tải những văn hóa tinh hoa của nhân
loại để làm giàu thêm văn hóa dân tộc… Cuối cùng họ phải là những người có thể
chất tốt, biết rèn luyện và giữ gìn sức khỏe, biết sống tích cực và lành mạnh,
thân thiện với môi trường.
Văn hóa của chúng ta,
tầm vóc của chúng ta, mỗi cá nhân chúng ta, làm nên tất cả những hiện thực như
ngày hôm nay, tốt cũng có và xấu cũng có, là một tất yếu, không nên đổ lỗi cho
ai. Tầm vóc của đội ngũ trí thức hôm nay, còn rất xa với yêu cầu của đội ngũ
trí thức mà chúng ta cần có để xây dựng đất nước. Không dễ gì có thể kiểm soát
được, khi mà “đồ mã” lại xét duyệt “hàng mã”. Biện pháp khắc phục ư? thật khó
có thể chữa khỏi được! Mà hãy tìm cách loại bỏ hoặc kiềm chế chúng bằng một hệ
thống pháp luật, cùng chế tài nghiêm khắc và chặt chẽ. Ngăn chặn sự
lây lan của nó bằng giáo dục và dư luận xã hội. Hãy lấy sản phẩm cuối
cùng làm thước đo theo tiêu chí dân gian “tiền trao cháo múc”, để ngăn chặn sự
giả dối của nó. Cần đánh giá đầy đủ các nguồn lực về giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ. Cần bình tĩnh, nghiêm túc xem xét các đề án và dự án về giáo
dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, kẻo sự phá sản của nó, kéo theo mất niềm
tin, và mất tỉnh táo, rồi dẫn đến những quyết sách nông nổi tiếp theo…, mà hậu
quả có thể sẽ còn nặng hơn cả số tiền đã mất. Không nên so sánh hay đặt vấn
đề đuổi kịp hay vượt một quốc gia nào, ở một lĩnh vực nào. Hãy nghiêm khắc nhìn
lại tất cả các sai lầm của chúng ta. Đặc biệt những sai lầm về đào tạo và sử
dụng con người.
Cần nhận ra rằng, một
trong những nguyên nhân sinh ra nhiều bất ổn hôm nay, là số đông trong chúng ta
đã mang những khuyết tật rất cơ bản về “đạo làm người”, khuyết tật của “văn hóa
lúa nước”, những di chứng của “thời chiến” của chế độ bao cấp…, và cuối
cùng là những bài học về sự tương phản giữa “thân phận nhỏ nhoi” trong mỗi cá
nhân trước mỗi đám đông. Sẽ ra sao? nếu có một lớp người cho rằng “ta chẳng là
gì”, ta phá hay ta xây cũng chẳng tác động được đến ai (!?)
Những “chiếc chổi cùn”
thật khó quét được các sân chơi hiện đại! Vì vậy để đưa đất nước đi lên, dân
tộc này đòi hỏi phải sản sinh ra một lớp người mới tương xứng. Mà hành động
tích cực của chúng ta bây giờ là hãy dũng cảm nhận ra những sai lầm và yếu kém,
kiềm chế những khuyết tật và sự tham lam, tham quyền cố vị, hãy rộng mở để đón
nhận những nhân tố mới, sẵn sàng và chủ động làm cái bổn phận “dọn ổ”, để
trong một tương lai gần có một lớp người mới văn minh và minh triết ra đời. Một
lớp người giác ngộ đầy đủ về bổn phận cá nhân đối với dân tộc, xứng đáng làm
chủ nhân thực sự của đất nước này. Vì chỉ có lớp người như vậy mới mong có sự
phát triển rộng khắp ở tất cả các lĩnh vực. Cản trở của mong muốn này
chính là những khuyết tật của chúng ta, như đã đề cập ở trên.
Còn làm thế nào để có
một lớp người mới văn minh và minh triết? Đây là cả một vấn đề chiến lược về
con người, một bài toán hóc búa nhất trong thời đại của chúng ta! Riêng ở nước
ta thì khó khăn này còn tăng lên gấp bội. Giải quyết vấn đề này đòi hỏi phải có
những cải biến sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, văn hóa,
cùng với giáo dục… Cần phải có sự nỗ lực ở nhiều cấp, nhiều ngành,
nhưng trước hết hẳn cần phải có một nền hành chính lành mạnh. Tinh giản tối đa
bộ máy hành chính, quản lý nhà nước ở tất cả các cấp. Cũng quan trọng không
kém là một nền văn hóa đậm đà bản sắc, nhưng phải văn minh, mở và đa chiều,
tình nhân ái của mỗi cá nhân với cộng đồng, với môi trường, thói quen chấp hành
pháp luật, và đặc biệt là tránh chủ nghĩa bình quân, dung nạp được những
bản sắc cá nhân, hạn chế cảnh:
“Cây cao hơn rừng gió quật ngã
Bơi ra xa bờ sóng nhấn chìm”.
Phải chua xót mà nói
rằng, mục tiêu mà chúng ta hướng tới, được bắt đầu như thế này đây. Đại đa số
công dân của chúng ta đã và đang phải gồng mình gánh chịu sự hành hạ của nền
hành chính, cảnh nhức nhối trên đường phố, bệnh viện, trường học… Kẻ có quyền
thì tìm cách gây sức ép để trục lợi, kẻ ít quyền hơn thì bỏ bê công việc, người
nông dân thì mang những thực phẩm nhiễm độc đi bán… Một cảnh hỗn mang diễn
ra ít có trong lịch sử. Mỗi người trốn tránh trách nhiệm với tất
cả, và tất cả vô trách nhiệm với mỗi người. Hỏi còn đâu niềm tin,
tình nhân ái, và sức lực làm việc?! Đáng sợ hơn, hình như người ta đã quen, đã
chai sạn, đã vô cảm, tựa hồ như không gì xảy ra, đối với những tiêu cực diễn ra
quanh họ. Nền văn hóa của chúng ta đang bị nhiễm độc trầm trọng! Nếu chúng ta
không sớm cải tổ, thì thế hệ sau cũng sẽ bị nhuộm đen!
Để có một lớp người
mới văn minh và minh triết, đi liền với cải tổ nền hành chính và văn
hóa, cần quyết liệt cải cách và trấn hưng giáo dục. Phải cải
tổ sâu sắc nền khoa học xã hội và nhân văn. Hãy kiên nhẫn, tránh
những mục tiêu giả dối, kiểu “đại nhảy vọt” trong giáo dục và đào tạo,
trong khoa học và công nghệ. Phải đặc biệt chú ý giáo dục chất lượng toàn diện,
và giáo dục chất lượng cao. Bên cạnh đó là phải tinh giản chương trình và loại
bỏ những môn học không còn phù hợp với xu thế phát triển của thế giới đương
đại. Đầu tư thích đáng vào những cơ sở đào tạo trọng điểm, và nhanh chóng xóa
bỏ những cơ sở đào tạo chất lượng kém. Thị trường hóa giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ ở mức cao nhất có thể, kèm với hệ thống thanh tra hiệu
quả! Nhớ rằng, chúng ta xây dựng một “xã hội hoc tập”, quyết không phải là
một “xã hội trường lớp”, bằng cấp như hiện nay. Dùng người theo khả năng, không
theo bằng cấp. Cần trân trọng và sử dụng tốt những năng lực hiện có,
không nhất thiết quá thiên về hướng ngoại. Làm sao để thế hệ trẻ hôm nay có
một hình ảnh tốt về các công chức đàn anh, những người thầy dạy, những nhà khoa
học trung thực và giàu đức hy sinh. Làm sao để mỗi vị trí quan trọng trong mọi
ngành nghề luôn có người đủ tâm đủ tài tương xứng, mà không bị chiếm chỗ bởi
những kẻ non yếu - ngồi nhầm chỗ, vân vân và vân vân. Chắc chắn đó là những điều
chúng ta tự gây ra, và chúng ta phải tự thay đổi.
Tóm lại thế hệ trẻ hôm
nay, và lớp người mới văn minh và minh triết mà chúng ta cần có trong tương
lai, cần phải được hưởng một sự đầu tư thích đáng ở những phương diện cần
thiết tối thiếu, đủ để làm nên diện mạo một con người hẳn hoi. Điều đó
không phải chỉ có tiền, điều đó không phải chỉ có việc cho đi đào tạo, mà là
cần hạn chế tất cả các mặt xấu, phát huy các mặt tốt, và là tất cả những gì
quanh ta tác động đến họ, những thứ hình thành và nuôi dưỡng được những cá
nhân trong mỗi con người chân chính của họ. Điều đó đòi hỏi ở sự kìm nén những
thói quen xấu, sự lạc quan, niềm tin vào tương lai, và trách nhiệm của mỗi công
dân, mỗi tổ chức xã hội đối với đất nước. Và còn gì hơn như Kinh Thi đã dạy:
Núi cao ta trông, đường rộng ta đi.
Tuy đích chưa đến, nhưng lòng hướng về.
Mời thư giãn với nhạc phẩm THƯƠNG CA TIẾNG VIỆT
nhạc: Đức Trí, lời: Hà Quang Minh, qua tiếng hát Mỹ Tâm:
Mời xem clip: CẢNH GIÁC VỚI ĐIỆN THOẠI TRUNG QUỐC
*
Hà Nội, tháng 06.2009
DƯƠNG QUỐC VIỆT
Địa chỉ: Ngách 31/2 phố Phan Đình Giót,
quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
Email: duongquocviet@fmail.vnn.vn
.
....................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả
gửi qua email ngày 09.09.2018.
- Bài viết không thể hiện quan điểm
của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét