MỘT SỐ LÀNG NGHỀ
TIÊU BIỂU Ở HÀ NỘI
*
Người Việt ta từ xưa đến nay luôn có truyền thống
lao động cần cù, sáng tạo và “khéo tay, hay nghề”. Ở bất cứ vùng nào trong cả
nước bên cạnh việc phát triển nông nghiệp cũng có những nghề thủ công nổi
tiếng. Và nhiều nghề thủ công truyền thống đã hội tụ ở Thăng Long - Hà Nội với
những cái tinh cái khéo, tạo ra những sản phẩm đáng khâm phục xứng đáng là niềm
tự hào của muôn thủa.
Làng
nghề gốm sứ Bát Tràng
Làng nghề vào loại lâu đời nhất, có tiếng nhất và
hiện nay đang rất phát đạt là làng gốm sứ Bát Tràng.
Làng Bát Tràng thuộc xã Bát Tràng huyện Gia Lâm
ngoại thành Hà Nội. Nằm ở phía Đông nam huyện, giáp ranh với huyện Châu Giang
tỉnh Hưng Yên vốn xưa là phường Bạch Thổ, sau đổi thành Bá Tràng sang đời Lê
gọi là Bát Tràng, được thành lập từ cuối thế kỷ XIV do những người thợ thủ công
làng Bồ Bát (Bồ Xuyên- Ninh Bình) gốc từ Vĩnh Linh (Thanh Hóa) chuyển đến lập
nên. Trải qua hơn 600 năm tồn tại nhân dân Bát Tràng đã cung cấp hàng triệu
triệu sản phẩm gồm bát cơm, bát đàn, đĩa, chén, tách, ấm tích, ấm trà, liễn,
phạng, bát hương, độc bình, cây đèn, đỉnh trầm, lọ hoa, chậu hoa, đôn, voi, ông
phỗng, tượng mỹ nghệ, gạch lát nền, gạch trang trí...hết sức phong phú đa dạng
đáp ứng những nhu cầu thiết yếu hoặc giải trí không chỉ cho nhân dân Thăng
Long- Đông kinh- Hà Nội mà còn cho nhiều vùng trong cả nước. Hơn thế, sản phẩm
Bát Tràng đã được giao lưu sang các nước, được giới thiệu trong các hội chợ,
triển lãm của Việt
Nghề gốm Bát Tràng bâu giờ không chỉ phát triển
riêng ở trong làng Bát Tràng mà lan rộng cả một vùng đất gồm cả làng Giang Cao,
xã Kim Lân, xã Đa Tốn (thuộc huyện Đông Anh) xã Văn Đức (thuộc huyện Châu
Giang) mở mang trong đủ loại hình doanh nghiệp gồm xí nghiệp quốc doanh, hợp
tác xã, công ty tư doanh, cá thể, gia đình với hàng ngàn lò nung, hàng năm cho
ra đời mấy chục triệu sản phẩm. Địa bàn tiêu thụ hàng gốm sứ Bát Tràng cũng
không ngừng mở rộng khắp trong nước mà sang cả Pháp, Đức, Thụy Điển, Nga, Nhật...
Nhiều tay nghề tài ba của Bát Tràng đã được lưu danh trong sử sách, hoặc được
nhân dân truyền tụng như: Nguyễn Phong Lai, Bùi Nghĩa, Hoàng Lưu, Bùi Huệ, Bùi
thị Đỗ tác giả của những cây đèn sứ niên hiệu Diên Thanh thứ 3 đời Mạc (1580);
Đỗ Xuân Vi tác giả của bộ cây đèn và lư hương niên hiệu Hưng Trí thứ 3 (1590);
Bùi Đào tác giả chân đèn niên hiệu Hoàng Định thứ 2 (1602); Vũ Xuân tác giả cây
đèn năm 1613; Bùi Hác tác giả cây đèn năm 1619...
Men rạn Bát Tràng được chế tác trước cả men rạn
Trung Quốc bắt đầu hồi đầu thế kỷ 18. Thời nay nhiều người thợ tài ba của Bát
Tràng như Đào văn Can, Nguyễn văn Khiếu, Lê văn Vấn, Nguyễn văn Cồn, Lê văn
Cam... không chỉ được nhân dân vùng Bát Tràng ca ngợi mà nhiều nơi cũng biết
tiếng.
Làng
nghề bắt rắn Lệ Mật
Lệ Mật là một làng cổ thuộc xã Việt Hưng, huyện
Gia Lâm ở đây có làng nghề bắt rắn, chế biến làm thuốc và làm thịt từ khi lập
làng. Ở nước ta rắn ở khắp nơi và nhiều chủng loại, người Lệ Mật phân biệt rắn
rất giỏi, họ tản đi khắp nơi tìm đến các lùm cây, hang hốc với cái gậy đầu có
móc ở trong tay và cái giỏ bên hông. Họ bắt rắn hết sức thiện nghệ, rắn chưa
kịp há miệng phun nọc đã nằm gọn trong giỏ.
Không chỉ săn bắt, người Lệ Mật còn biết nuôi
dưỡng và chế biến thành thuốc, thành đặc sản. Những bộ tam xà (gồm một con hổ
mang, một con cặp nong, một con ráo), nhũ hổ (năm con), hoặc thất tinh (bảy
con) ngâm rượi là những bài thuốc bồi bổ sức khỏe và chữa bệnh có giá trị. Dân
Lệ Mật còn dùng rắn nấu cao hoặc sấy khô tán thành bột để bán.
Lệ Mật ngày nay nổi tiếng với khu nhà hàng đặc
sản thịt rắn. Đến đây, khách được tham quan khu nuôi rắn, được xem cách mổ rắn
điệu nghệ, được uống rượu huyết và mật rắn lấy ngay từ những con rắn được mổ
trước mặt khách, được thưởng thức hàng chục món ăn ngon được chế biến từ thịt
rắn: xúp rắn, chả rắn, nem rắn, rắn tần, rắn xào, cháo rắn... Còn da rắn
thì được làm hàng da mỹ nghệ với những sản phẩm độc đáo, hấp dẫn.
Làng
nghề chạm gỗ Thiết Úng
Làng Thiết Úng vốn là một làng cổ từ lâu đời, nay
thuộc xã Vân Hà huyện Đông Anh. Làng Thiết Úng có nghề chạm gỗ hàng trăm năm
nhưng nghề có lúc thăng, lúc trầm, có lúc tưởng như gần tan, lúc thịnh cả làng
xô vào làm hàng vẫn không đủ bán. Lòng yêu nghề của người dân nơi đây đã thấm
vào da, vào thịt từ khi còn bé. trẻ con mới lên sáu, lên bảy đã cầm dùi, đục.
Người dân làng Thiết Úng đã đi nhiều nơi và lập nghiệp nên những làng nghề ở
nơi mình cư trú. Gần thì có phố Hàng Trống, phố Thợ Nhuộm (Hà Nội) xa hơn thì
vào Sài gòn lập ra khu riêng biệt chuyên sản xuất đồ gỗ.
Hàng chạm gỗ Thiết Úng chia làm hai hàng nội thất
gồm bàn ghế, sập, kỷ, tủ... và hàng mỹ nghệ gồm tượng gỗ, đồ chơi các loại.
Hàng được nhiều người trong nước ưa dùng đặc biệt đang được xuất khẩu sang
Làng
nghề thủ công Kiêu Kỵ
Kiêu Kỵ là làng cổ từng có hai nghề thủ công
truyền thống lâu đời: dát vàng bạc và làm mực nho bằng keo da trâu. Nghề làm
mực nho bị mai một theo chữ Hán, còn nghề dát vàng bạc có thời bị giảm sút nay
cả làng còn vài chục gia đình hành nghề. Nghề dát vàng bạc ở đây gọi là nghề
vàng quỳ hoặc nghề quỳ có lịch sử bốn, năm trăm năm. Người thợ dùng búa tay
nặng đến vài cân gõ dát mỏng lá vàng mười trên đe bằng đá tảng xanh, mỏng đến
mức khẽ thở cũng bay, khi bóc và xếp các là vàng quỳ người thợ phải ngồi trong
phòng đóng kín cửa hoặc ngồi trong màn kín gió. Vàng quỳ dùng trong công nghệ
sơn son thiếp vàng, dán lên tượng Phập và các đồ tế khí trong các đền, chùa,
miếu, mạo, cung điện các vua chúa, tạo nên màu sắc rực rỡ không bao giờ phai.
Kiêu Kỵ thời nay đang nổi tiếng với nghề mới:
nghề đồ da và giả da. Là nghề mới nhưng lịch sử cũng đã có gần cả trăm năm. sản
phẩm gồm cặp sách, dây lưng, ví da... bán trong cả nước và xuất khẩu phần lớn
mang nhãn hiệu Ladoda.
Nghề
trồng và chế biến thuốc
Đây là một làng cổ có nghề trồng và chế biến
thuốc
Trước đây Ninh Hiệp từng có tiếng về nghề dệt vải
có từ thời Tiền Lê và nghề dệt lụa tơ tằm có từ thời Hậu Lê nhưng do dệt thủ
công nên sau này bị mai một, nhân dân nhiều người chuyến sang buôn vải và đã
hình thành chợ vải Ninh Hiệp với nhiều mặt hàng rất phong phú đáp ứng nhu cầu
của người dân trong vùng và là đầu mối bán buôn vải ra cả nước.
Nghề
kim hoàn làng Định Công
Làng Định Công Thượng thuộc xã Định Công huyện
Thanh Trì quê hương của Bùi Bỉnh Uyên có nghề kim hoàn từ lâu đời. Tương truyền
nghề có từ thời kỳ Tiền Lý thế kỷ thứ VI do ba anh em họ Trần: Trần Hòa, Trần
Điện, Trần Điền khởi nghiệp. Mặt hàng kim hoàn của thợ Định Công hoặc bắt đầu
từ khâu phân kim, chế luyện nguyên liệu hoặc dùng vàng bạc có sẵn chế tác thành
sản phẩm như: nhẫn, vòng, xuyến. Hoa tai, dây chuyền, lắc... Người Định Công từ
xa xưa đã vào nội thành Thăng Long lập nghiệp, góp phần hình thành nên phố hàng
Bạc tồn tại đến ngày nay.
Nghề
dệt làng Triều Khúc
Làng này thuộc xã Tân Triều huyện Thanh trì có
truyền thống lâu đời về sản xuất các mặt hàng tơ tằm như quai thao, the, nái,
phù hiệu, nhãn mác, thổ cẩm...Trong làng có một số gia đình làm chổi phất trần,
lông gà, nhuộm, kim hoàn. Nón quai thao ở đây từng có thời được phụ nữ Hà Nội
rất ưa chuộng, trước đây quai buộc nón thường phải mua ở Trung Quốc. Thế kỷ 18
có ông Vũ Uy người làng đi sứ Tàu học được bí quyết nghề dệt thao đem về truyền
cho bà con dân làng nhờ đó mà hình thành nên nghề dệt quai thao. Từ dệt thao,
dần dần phát triển thêm dệt the, nái, bấc đèn, tua cờ...Đầu thế kỷ 20, Nguyễn
Văn Di người thợ cả có bàn tay vàng đã cải tiến khung dệt chuyển sang dệt phù
hiệu, mề đay, thổ cẩm... đưa thêm mặt hàng mới cho dân làng. Những năm gần đây
dân làng Triều Khúc còn có thêm nghề dệt nhãn mác và phát triển nghề dệt thổ
cẩm mà sản phẩm xuất khẩu đang có thị trường tiêu thụ.
Nghề
dệt làng Đại Mỗ
Làng Đại Mỗ thuộc huyện Từ Liêm là đất dệt lâu
đời. Nhân dân ở đây vừa làm ruộng vừa làm nghề dệt, nghề nọ bổ trợ cho nghề
kia. Sản phẩm chủ yếu trước đây là lĩnh gồm lĩnh trơn, lĩnh hoa và nhiễu. Nhiễu
Mỗ tiếng tăm sánh ngang với the La Khê, lụa Vạn Phúc (Hà Đông). Thời gian gần
đây do thiết bị công nghệ ở làng đổi mới không kịp nên sản phẩm không cạnh
tranh được. Một số gia đình thợ dệt đã chuyển sang dệt lụa xuất khẩu giông như
ở làng Vạn Phúc vừa đảm bảo cuộc sống, vừa giữ được nghề truyền thống của cha
ông.
Nghề
rèn làng Hòe Thị
Làng Hòe Thị thuộc xã Xuân Phương- Từ Liêm xưa
nổi tiếng về nghề canh cửa. Sang đời Lê, ông tổ họ Nguyễn Đắc từ Thanh Hóa ra
mở mang nghề rèn. Từ đó nghề rèn ngày càng phát triển. Hàng rèn Hòe Thị có
tiếng là đẹp và bền: dao, kéo, liềm, hái vừa sắc vừa chắc. Thợ rèn Hòe Thị đã
vào nội thành Hà Nội mở hiệu ở phố hàng Bừa (nay là phố Lò Rèn), phố Sinh Từ
(nay là phố Nguyễn Khuyến) và rải rác ở Ô Cầu Dền, phố Kim Mã, phố Đê La Thành.
Hiện nay sản xuất tuy gặp khó khăn, nhưng nhiều
gia đình ở Hòe Thị vẫn duy trì nghề nghiệp của cha ông không để mai một và mất
làng nghề.
Nghề
sơn làng Đông Phù
Là làng nổi tiếng về nghề sơn thuộc Thanh Trì.
Tương truyền ông tổ nghề sơn của làng Đông Phù là Tiến sĩ Trần Lư đời vua Lê
Hiển Tông. Nhựa cây sơn là nguyên liệu chính trong nghề sơn. Sơn ta gồm sơn
dầu, sơn giọi, sơn hom, sơn nước tháp. Sơn ta trộn với dầu trẩu làm thành sơn
quang dầu, trộn với nhựa thông làm thành sơn mài. Trước đây cha ông ta dùng sơn
ta để quét phủ bảo vệ và trang trí đồ đạc nội thất, các mâm, quả, hộp, đồ tế
khí ở đình, chùa, đền, miếu.
Ngày nay những người thợ sơn Đông Phù đã sáng tạo
đưa sơn ta vào phục vụ sản xuất hàng mỹ nghệ đồng thời góp phần đáng kể vào
việc cho ra đời ngành sơn mài, ngành hội họa mới đậm đà bản sắc dân tộc.
Bên cạnh những làng nghề nổi tiếng ở ngoại thành,
thì trong nội thành Hà Nội cũng có rất nhiều làng nghề với những sản phẩm có
chất lương cao rất được ưa chuộng khi xưa.
Nghề
làm giấy làng Bưởi
Xưa nổi tiếng về các nghề làm giấy và dệt lụa
lĩnh. Làng giấy Bưởi cung cấp cho kinh đô và khắp các vùng trong đất nước đủ
các loại giấy. Giấy đơn gồm giấy học trò, giấy vàng mã; Giấy kép gồm giấy in
tranh, in sách, viết sắc chỉ, bằng sắc...
Giấy Bưởi làm từ cây gió nên thường gọi là giấy
gió. Giấy gió lụa có độ bền hàng trăm năm không bị mục nát, mối mọt. Công nghệ
làm giấy gió rất công phu, qua nhiều công đoạn phức tạp: chọn cây, ngâm nước,
xé vỏ, ngâm nước vôi, ráo nước, muối trong vôi sống, xếp vào lò, nấu và om, rũ
sạch bằng nước trong, giã thành bột, ngâm hòa bột trong nhựa cây mô, xeo, bồi
khô. Để có những loại giấy tốt và dày còn phải qua công đoạn “nghè” bằng chày
gỗ nện trên mặt đất. trải qua từng đấy công đoạn thì mới cho ra đời được một
loại giấy bền đẹp, được người xưa ưa thích.
Cũng trên đất Bưởi còn có nghề dệt lĩnh cách đây
cả nghìn năm. Chuyện xưa còn lưu truyền năm 1011 khi Lý Thái Tổ ngự thuyền trên
sông Tô Lịch, nhân dân xóm bãi, xóm dâu căng một tấm lĩnh lớn do dân làng dệt
nên trên đó có vẽ một con rồng lớn chào đón vua ở bến Giang Tân. Lĩnh Bưởi cũng
đã từng đi vào ca dao, ngạn ngữ “The La, Lĩnh Bưởi, Lụa Bùng”. Lĩnh ở đây bóng,
mỏng, mịn, mềm nguyên màu óng lên như màu tàu lá chuối non, gồm hai loại lĩnh:
lĩnh trơn và lĩnh hoa. Từ lĩnh mộc đem chuội trắng, nhuộm chàm, trát bùn phơi
khô, giặt sạch, nhuộm nước lá bàng, nghè mềm sẽ biến thành lĩnh đen nhánh óng
mượt. Lĩnh được dệt rất thủ công, chất lượng hoàn toàn tùy thuộc vào kỹ năng
của người thợ.
Nhưng đến ngày nay, nghề giấy và nghề dệt ở vùng
Bưởi đã bị mất hẳn, do không đủ sức cạnh tranh với những nhà máy lớn, có công
xuất cao, giá thành hạ. Đây là số phận chung của rất nhiều làng nghề ở Thăng
Long- Hà Nội cũng như trên cả nước.
Nghề
đúc đồng làng Ngũ Xã
Đây là làng nghề đúc đồng nổi tiếng từ xa xưa,
những người thợ đúc đồng ở Ngũ Xã xưa đã đúc rất nhiều tác phẩm nghệ thuật nổi
tiếng như: chóp đồng Tháp Báo Thiên (thế kỷ 11) chuông Quy Điền ở chùa Một Cột
thế kỷ 12. Đây là những đại khí bằng đống quý giá đã được ghi trong lịch
sử. Các tượng Phật, chuông chàu hiện còn ở Hà Nội phần nhiều là do chính bàn
tay tài hoa của những người đúc đồng Ngũ Xã sáng tạo nên. Tiêu biểu là tượng
Thánh Trấn Võ đền Quan Thánh được đúc năm 1677 cao 2.28m, chu vi 3.80m, nặng
3.600kg và pho tượng Thánh Trấn Võ ở đền Cự Linh Thạch Bàn huyện Gia Lâm đúc
năm 1757 cao 3.80m, chu vi 8m, nặng 4 tấn. Đến năm 1952 người thợ cả tài ba là
cụ Nguyễn Văn Tùy đã chủ trì kỹ thuật đúc nên pho tượng Phật Di-đà ở chuà Thần
Quang (chuà làng Ngũ Xã). Tương cao 3.95m, chu vi 10.50m, nặng 9.500kg, kể cả
tòa sen được đúc đặt dưới tượng Phật cũng bằng đồng hun thì toàn bộ pho tượng
này nặng tới 12.300kg. Đây là đỉnh cao về tài nghệ của những người thợ bậc thầy
đất Ngũ Xã. Cũng trên đất này còn có cụ Nguyễn Văn Quen, người thợ tài ba đã có
công sáng chế nhiều tác phẩm nghệ thuật bằng đồng đặc biệt đã chủ trì kỹ thuật
đúc thành công nhiều bức tượng đồng chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày nay nghề đúc đồng ở Ngũ Xã không còn phát
đạt như xưa vì đã có nhiều xưởng đúc có công nghệ cao hơn ra đời. Tuy gặp nhiều
khó khăn nhưng những người thợ Ngũ Xã đã chung sức hợp lại với nhau trong hợp
tác xã đúc đồng Trúc Sơn và đang cố gắng tìm kiếm mặt hàng và cách làm mới để
đứng vững trong tình thế mới.
Ngày nay theo sự chuyển dịch của kinh tế trong
nội thành và sự phát triển của công nghệ sản xuất mới thay thế những ngành nghề
thủ công nhiều phố nghề xưa nay chỉ còn lại tên, còn nghề thủ công không còn có
mấy. Hàng Quạt trước đây sản xuất và bán các loại quạt đẹp nổi tiếng, nay quạt
điện được sản xuất ở các xí nghiệp hiện đại như: điện cơ Thống Nhất, chế tạo
điện cơ và quạt ngoại lên ngôi thay thế... Nhìn chung phần lớn phố nghề xưa đã
mất đi nhiều và đang trở thành những phố xá buôn bán dịch vụ du lịch sầm uất.
Nhưng cái tinh thần “khéo tay hay nghề” không bị mất đi, ngược lại đang được
nâng cao.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài phê
bình, cảm nhận thơ0
- Các bài viết về
Kiến thức cuộc sống0
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
Mời
thư giãn với nhạc phẩm EM ƠI HÀ NỘI PHỐ
của Phú Quang,
qua tiếng hát Bằng Kiều:
*.
Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 2016
VŨ THỊ HƯƠNG MAI
Địa chỉ: Khu tập thể Tổng công
ty 319
quận Long Biên,
thành phố Hà Nội.
Email: huongmai8081@yahoo.com.vn
..............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả
gửi qua email ngày 10.07.2016.
- Bài viết không thể hiện quan
điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết
được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét