VỊ TRÍ CỦA NHẬT - NGUYỆT
TRÊN LÁ SỐ
*
3. SAO THÁI ÂM:
1.3- CÁI NHÌN TỔNG THỂ
VỀ SAO THÁI ÂM:
Thái Âm là biểu tượng
cho Mặt Trăng, cho người mẹ, cho con mắt bên phải, tượng trưng cho văn chương,
tiền bạc, cho lòng nhân hậu, dịu dàng của giới nữ. Thái Âm với Thái Dương gắn
bó với nhau khăng khít để tạo nên một cái nhìn ban đầu sơ lược về cuộc đời
đương số.
Thái Âm hóa khí là Lộc
cho nên Thái Âm miếu vượng tốt nhất đóng ở cung Tài Bạch và Mệnh.
Thái Âm hóa ra đủ cả bốn
Lộc - Quyền - Khoa - Kỵ, cho nên Thái Âm tượng trưng cả cho sự biến hóa không
lường trước được.
Tử Vi cho rằng: Đàn ông
có Thái Âm ở Mệnh là người rất mềm dẻo, khôn ngoan, giỏi lo làm giàu,
thích văn chương nghệ thuật, còn đàn bà nếu có Thái Âm thủ Mệnh là người dịu
dàng, tháo vát. Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng: Những ý nghĩa đó sẽ
trở nên tiêu cực, giảm ý nghĩa tốt đẹp khi Thái Âm hãm địa.
Về diện mạo người có
Thái Âm thủ Mệnh thì Tử Vi (Thái Thứ Lang) cho rằng: Thái Âm sáng sủa thì thân
hình to lớn, hơi cao, da trắng, mặt vuông (có sách chép là mặt tròn), mắt sáng,
thần sắc tươi nhuận. Thái Âm hãm địa thì thân hình nhỏ, hơi cao, mặt dài, mắt
kém, thần sắc u tối. Thực ra, các ý niệm về tướng mạo trong khoa Tử Vi rất
nghèo nàn, thiếu rõ rệt, thường đưa ra những lời nhận xét rất chung chung, mơ
hồ, phảng phất nét đẹp của cả hai phái, rất hiếm có sự phân biệt tướng mạo của
riêng mỗi phái, vì thế khi xem số, lời luận giải về tướng mạo phụ thuộc khá
nhiều vào sự linh hoạt và kinh nghiệm của tùy người giải đoán.
Vốn là sao Âm nên Thái
Âm sẽ chính vị ở những cung Âm, hợp với người tuổi AAAm và phù trì mạnh cho
những người sinh vào ban đêm, đặc biệt là những người sinh vào những đêm trăng
thượng huyền (từ ngày 10 đến ngày 20). Nhưng có quan điểm lại cho rằng:
Khi Thái Âm cư ở cung Âm thì mọi sự tốt đẹp, hay dở sẽ gia tăng so với
cung Dương, chẳng hạn: Nếu tốt thì cái tốt ở cung Âm sẽ nhiều hơn khi Thái Âm
cư ở cung dDương và ngược lại, khi đã xấu thì cái xấu ở cung Âm
sẽ nhiều hơn khi Thái Âm cư ở cung Dương. Quan điểm này không
thể chấp nhận bởi lẽ theo dịch lý thì Thái Âm là sao Âm, bao giờ cũng
chính vị (và chính vị hơn) ở cung Âm (tất nhiên còn phải căn cứ vào Ngũ hành
của cung và bản chất, Ngũ hành các sao đồng cung, phối chiếu mà Thái Âm
cư trú), chỉ khi nào Thái Âm ở cung Dương hãm địa được Tam
Minh cứu giúp thì Thái Âm mới sáng trở lại nhưng sự sáng trở lại đó
cũng không được hoàn mỹ vì bản chất của Thái Âm nếu lạc hãm thì dù
có được Tam Minh cứu giải cũng chỉ như một ngôi nhà được thay
mái trong giông bão khi mà thực chất cái móng, cái nền ngôi nhà vẫn
như cũ. Trường hợp Thái Âm lạc hãm ở cung Dương, được cả Tam Minh, Tam
Hóa hội họp thì cực quý, được phản vi kỳ cách nhưng rất tiêc trường hợp
này lại rất hiếm.
Trong khi Thái Dương là
ánh sáng của lý trí, là biểu tượng của sức mạnh, không ngại đương đầu với khó
khăn, cản trở, còn Thái Âm thì nhu hòa uyển chuyển, dễ dàng lùi bước để tiến
lên về sau, vì thế mà Thái Âm sợ gặp Tuần - Triệt
hơn là Thái Dương.
Ngay cả khi miếu, vượng
nếu không có Xương, Khúc, Quang, Quý, Tả, Hữu đi cùng mà gặp Tuần, Triệt thì
Thái Âm sẽ trở thành tối hãm, phá cách, cuộc đời bế tắc, còn khi Nguyệt hãm,
gặp Tuần, Triệt thì sẽ giảm cái xấu của Thái Âm lạc hãm chứ không làm cho Thái
Âm đẹp lên như đắc địa.
Không giống như Thái
Dương cơ bản đều phù trợ cho tất cả các tuổi, dù ít hay nhiều nhưng Thái Âm chỉ
thật sự phù trì cho người Mệnh Kim, Mệnh Thủy và Mệnh Mộc, còn người Mệnh Hỏa,
Mệnh Thổ hầu như không nhận được sự phù trì, che chở của Thái Âm.
Dù ở vị trí miếu vượng,
Thái Âm cũng không thể điều khiển được Hỏa, Linh trái lại còn tiềm ẩn những mối
họa không nhỏ. Gặp Không, Kiếp, Kình, Đà sẽ trở thành phá cách.
Thái Âm sáng gặp Lộc Tồn
thì giàu có, gặp Tam Hóa thì giàu sang, khoa bảng, gặp Xương, Khúc thì thông
minh, gặp Tứ Linh thì hiển hách.
Thái Âm không sợ Hóa Kỵ
khi miếu vượng, trái lại còn điều khiển được Hóa Kỵ làm cho Thái Âm thêm huy
hoàng, tốt đẹp, nhất là khi Hóa Kỵ đồng cung tại Hợi sẽ thành kỳ
cách, rất quý. Lúc này Hóa Kỵ mới thật sự xứng đáng được gọi là Mây Ngũ
Sắc chầu Thái Âm. Tất nhiên, Thái Âm trong trường hợp này rất cần tránh xa
Kình, Đà, Không, Kiếp, Hỏa, Linh thì Hóa Kỵ mới chịu sự điều khiển
của Thái Âm để trở thành Mây Ngũ Sắc trang điểm cho Nguyệt thêm lộng
lẫy..
Nếu Thái Âm đồng cung
với Hóa Kỵ tại Sửu, Mùi cũng thật toàn mỹ vì lúc bấy giờ Hóa Kỵ phá thế tranh
tối tranh sáng của Nhật - Nguyệt làm cho Nhật - Nguyệt đều sáng lên. Nhưng khi
Nguyệt ở thế hãm địa, rất cần gặp các sao Tuần, Triệt, Thiên Không, Thiên Tài
hay Tam Minh để Nguyệt sáng lên mà tối kỵ gặp Hóa Kỵ, vì Kỵ sẽ làm cho Nguyệt
càng thêm tối hãm.
Thái Âm được cặp Tả Phù,
Văn Khúc phò tá thì thật chẳng khác gì TỬ - PHỦ có Tả Hữu, Thái Dương có Hữu
Bật, Văn Xương đi cùng.
Thái Âm đi với Văn Khúc
thì con gái là người xinh đẹp lại có học thức, ăn nói nhẹ nhàng, dịu dàng, còn
con trai là người trắng trẻo, tuấn tú, từ thiện, nhân ái.
Thái Âm dù đóng ở bất cứ
vị trí nào cũng không nên có thêm Lục Sát Tinh tụ hội (nhất là Đà La). Trường
hợp gặp Kình Dương cần có thêm Phượng, Giải, gặp Không, Kiếp cần có Quang, Quý
để hóa giải phần nào...
Thái Âm hãm ngộ Đà La
thì dù đóng bất cứ vị trí nào trên lá số thì cuộc đời vẫn buồn nhiều hơn vui,
càng tệ hại hơn khi đó là nữ số.
Thái Âm đi với Hóa Khoa
càng làm tôn lên vẻ tôn quý. Đi với Hóa Lộc thì giàu có, đi với Hóa Quyền là
người hơi nóng nảy, nhưng ngoài mặt bao giờ cũng thể hiện sự ôn hòa.
Thái Âm, Thái
Dương đều thích có Tam Minh, Tam Hóa, Tứ Linh đi cùng nhưng
gặp được Tứ Linh sẽ tốt đẹp nhất vì Tứ Linh không chỉ làm cho Nhật
Nguyệt sáng ra mà còn làm cho Nhật Nguyệt càng thêm cao quý. Khi đã có Tứ Linh
phù trợ thì dù Nhật - Nguyệt có gặp Sát tinh cũng bớt xấu đi nhiều, ngay cả khi
gặp Đà La là khắc tinh của Nhật - Nguyệt, Tứ Linh cũng làm cho bớt xấu nếu có
thêm Hóa Khoa nữa thì Đà La chỉ còn gây họa vừa vừa thôi, không còn là phá cách
nữa. Nếu đắc Tam Minh mà gặp Đà La vẫn là phá cách cho dù có
gặp được đệ nhất cứu giải là Hóa Khoa đi cùng.
Dù đóng ở bất kỳ cung
nào, khi Thái Âm đồng cung với Thiên Hình thì cũng là người bị thương tật ở
mắt. Thái Âm càng nên tránh xa lũ Sát tinh, Tam ám nếu gặp những sao này, cuộc
đời đương số sẽ nghèo hèn, đầy rẫy hung hoạ, phụ nữ có thể hiếm muộn con cái.
2.3- VỊ TRÍ ĐỨNG CỦA SAO
THÁI ÂM TRÊN ĐỊA BÀN 12 CUNG:
Thái Âm ở Tý:
Tại Tý là nơi vượng địa,
rất đẹp cho Thái Âm, lại đi cùng sao Thiên Đồng cũng vượng địa, nên Mệnh an tại
đây là người nhân hậu từ thiện. Con trai là bậc quân sư tài giỏi, ăn nói nhẹ
nhàng nhưng đanh thép. Còn con gái nếu hội thêm Tang, Hổ, Khốc, Hư, Riêu thì là
người rất đẹp về nhan sắc nhưng là người bạc mệnh, chuyện tình duyên đầy trắc
trở.
Nếu cung Phu Thê ở Tý có
Thái Âm ngộ Văn Khúc chắc chắn cung Mệnh ở Dần có Cự - Nhật ngộ Văn Xương, nên
con trai có cách này cũng có thể gọi là “Thiềm cung triết quế” lấy vợ là người
tài năng xinh đẹp, thật là một đôi trai tài gái sắc. Nhưng nếu là nữ số có cách
này sẽ không được gọi là “Thiềm cung triết quế”, tuy không được đẹp như trên
nhưng cũng lấy được chồng giàu có, tình nghĩa. Nếu có thêm Kình Dương, rất cần
thêm Phượng Các, Giải Thần để làm cho Kình Dương trở nên bớt hung hiểm. Vợ
chồng tuy khắc khẩu nhưng vẫn sống với nhau tới đầu bạc răng long.
Nếu gặp thêm Đà La thì
dẫu có Phượng Giải cũng không giải cứu được. Lúc này rất cần Quang Quý chiếu về
hoặc Hóa Khoa đồng cung để giải bớt hung họa của Đà La. Dù có được thêm sự hội
họp cứu giải của Quang Quý, Hóa Khoa thì tác hại của Đà La vẫn không mất hẳn.
Thái Âm ở Tý cùng với
Thiên Đồng nếu ngộ thêm Tuần Triệt rất cần Văn Khúc, Tả Phù Quang Quý hội hợp
chiếu về, thì sẽ chỉ trắc trở ban đầu, về sau vẫn tốt như thường. Đặc biệt sao
Tuần, Triệt trong trường hợp này nếu có đủ Quang Quý Khúc Tả hội hợp về sẽ như
cái phanh làm cho sao Thiên Đồng trở nên vững chãi hơn, không hay thay đổi.
Thái Âm ở Sửu:
(Xem Thái Dương ở Sửu)
Thái Âm ở Dần:
Khi cư tại Dần, Thái Âm
tối hãm, rất nguy hại cho nữ Mệnh. Trường hợp này rất cần được Tam Minh, Long
Phượng và Tam Hóa hội họp để phù trì, nếu không đời sẽ nhiều gian truân, hung
họa.
Khi đồng cung với Thiên
Cơ tại Dần, cả hai chính tinh đều hãm địa, nếu không được sự cứu giải của các
trung tinh thì chắc chắn đương số là người bôn ba, lận đận, gặp nhiều tai nạn
và đương nhiên tuổi thọ không cao. Nếu gặp thêm lũ sát tinh, Thiên Hình, Hóa Kỵ
thì đương số là người cô độc, tật nguyền, tai họa và bệnh tật rất nặng, chắc
chắn là người đoản mệnh.
Vốn dĩ là sao cơ mưu và
nhân nghĩa nên khi Thiên Cơ hãm địa tại Dần, nếu hội họp thêm vài sao xấu như
Thiên Hình, Hóa Kỵ thì cơ mưu và nhân nghĩa của Thiên Cơ dễ trở thành lưu manh,
thủ đoạn, khiến mọi người khinh ghét.
Nếu gặp Xương, Riêu thì
chắc chắn là người sa đọa, đĩ điếm, làm văn thơ dâm tình.
Dù trong bất kỳ trường
hợp nào khi Cơ - Nguyệt đồng cung tại Dần rất cần có Tam Minh, Tam Hóa hội họp
cùng các trung tinh khác để cứu giúp đương số giảm bớt cô đơn, nghèo nàn và tai
họa.
Riêng phụ nữ, nếu gặp
cách này còn thêm nghịch cảnh về chồng con, đau đớn vì tình, cuộc đời đong đầy
nước mắt.
Thái Âm ở Mão:
Khi Thái Âm đơn thủ ở
Mão tuy là hãm địa nhưng vì đóng tại cung Âm nên sự hung họa có phần được giảm
bớt, vì thế mà đương số không phải chịu cảnh đói nghèo, khổ sở, hung họa như
khi Thái Âm hãm địa tại các cung Dương. Dầu sao thì sự hiển đạt cũng chỉ ở mức
trung bình, tuổi thọ cũng bị chiết giảm. Rất cần sự hội họp của các sao tốt đẹp
như Tam Minh, Tam Hóa để được phù trì … và tránh xa lũ Sát tinh, Tam Ám để sự
may mắn được tăng thêm, giảm thiểu bất hạnh về gia đạo, tuổi thọ.
Theo thiển ý của người
viết, trong trường hợp này, dù Thái Âm cư Mão (hay Tỵ) là cung an Mệnh, Thân
hay Quan, Phúc... thì đương số cũng là người phúc mỏng, lận đận về đường công
danh, gia đình không được hòa thuận, bản thân cũng không được khỏe mạnh. Nếu có
điều kiện nên sớm ly hương, tạo nhiều nghiệp thiện để giảm thiểu tai kiếp và
được sống lâu hơn.
Thái Âm ở Thìn:
Khi Thái Âm đóng tại
Thìn là vị trí lạc hãm, lại gặp Thái Dương cũng lạc hãm tại Tuất trực chiếu, cả
hai nguồn ánh sáng này đều rất mờ nhạt, yếu ớt, trong khi Thìn lại là cung
Dương nên Thái Âm ở đây càng xấu hơn, chỉ mang lại sự nghèo khổ, thất bại trên
nhiều bình diện cho đương số.
Theo quan điểm của tác
giả Hoàng Thương và Hàm Chương (Tử vi khảo luận) thì người có Thái Âm đơn thủ
tại Thìn sẽ hưởng “phong lưu qua thăng trầm” và “mất mát nhà cửa” (trang 194,
sách đã dẫn). Quan điểm này chưa thấy sánh nào đề cập tới nhưng vì mới, lạ nên
người viết lưu ý để đọc giả cân nhắc khi tham khảo.
Dù sao thì khi Thái Âm
đơn thủ tại Thìn, ở vị trí lạc hãm như thế chắc chắn sẽ là người bạc phúc,
nghèo khổ, phải ly tổ mới mong tạo dựng được cơ nghiệp và đỡ phải lao tâm khổ
xác.
Cũng như các trường hợp
Thái Âm tối hãm khác, trường hợp này cũng rất cần xa lánh các Sát tinh, Tam Ám
để cuộc đời giảm bớt đắng cay, khổ cực. Nếu được Tam Minh, Tam Hóa và các sao
tốt đẹp khác hội họp cứu giải thì thật không gì bằng cho đương số.
(Xem thêm Thái Dương ở
Tuất)
Thái Âm ở Tỵ:
Mặc dù Thái Âm ở Tỵ là
chính vị (sao Âm cư cung Âm) nhưng Ngũ hành của Thái Âm và cung Tỵ là nước với
lửa nên khi Thái Âm đơn thủ tại đây là rất xấu. Người có Thái Âm đơn thủ tại
cung Tỵ thường là người nhu nhược, bạc phúc, chịu nhiều cay đắng, dù là đàn ông
hay đàn bà thì chất nữ tính cũng rất nhiều.
Khi Thái Âm cư Tỵ sẽ gặp
Cự - Nhật đều hãm địa ở Thân hợp chiếu (thế nhị hợp). Đây là cách rất xấu của
Nhật - Nguyệt, rất cần gặp Tuần, Triệt án ngữ hoặc Thiên Không, Thiên Tài đồng
cung để cứu giải. Tuy nhiên, người Âm nam, Âm nữ so với người Dương nam, Dương
nữ sẽ được chiết giảm về tai ương, họa hại.
Thái Âm ở Ngọ:
Ngọ đã là nơi tối
hãm nhất của Thái Âm, lại đồng cung với Thiên Đồng cũng hãm địa
nên Đồng - Nguyệt tại đây chính là ở vị trí “Cùng tắc biến”. Đồng -
Nguyệt trong trường hợp này phải HÓA được (thành Quyền, Lộc, Khoa, Kỵ) mới
thành “Phản vi kỳ cách”. Nếu không, cuộc đời của đương số sẽ không
còn gì phải bàn cãi: thất bại, họa hại triền miên và bế tắc.
Trường hợp này, nếu có
thêm Kình Dương (Kình Dương thuộc Kim, cư nơi Dương Hỏa cực vượng, cho nên
Kình bị hãm rất xấu, mới gọi là cách "Mã đầu đới kiếm") mà Thái Âm
hóa ra được cả Khoa, Quyền, Lộc, Kỵ thì Thiên Đồng sẽ là hình ảnh tướng có
thực tài, thực quyền cưỡi ngựa đi ra biên cương mà làm nên công trạng. Ngay
trong trường hợp này vẫn rất cần có thêm Phượng Các, Giải Thần hóa giải để
kìm hãm nguy hại còn rất lớn của Kình Dương hãm tại Ngọ. Tuy nhiên bắt buộc vẫn
phải có Tam Hóa mới thành được “Phản vi kỳ cách”, nếu không có Tam Hóa thì dù
Thái Âm có Hóa ra được cả bốn khí vẫn là tối hãm và nguy hại như thường.
Cũng nên lưu ý rằng: Đà
La là khắc tinh của Nhật - Nguyệt nên khi Đồng - Nguyệt ở Ngọ gặp Đà La thì dù
có được Tam Hóa và Phượng, Giải tụ hợp cũng là phá cách, cuộc đời vẫn vui nhiều
buồn ít. Ngay cả khi gặp Hỏa, Linh, Không, Kiếp dù không xấu như gặp thêm Đà La
nhưng cũng không thể gọi là “Phản vi kỳ cách” được.
Thái Âm ở Mùi:
(Xem Thái Dương ở Mùi)
Thái Âm ở Thân:
Khi Thái Âm ở Thân
sẽ đồng cung với sao Thiên Cơ, ở vị trí này cả hai sao Thiên Cơ, Thái
Âm đều được vượng địa nên con người có môi trường sống tốt,
hay gặp may mắn, bản chất nhân từ, lương thiện, giàu có và hạnh phúc
gia đình được xuôi chèo mát mái. Tuy nhiên, Cơ - Nguyệt ở Thân
dù tốt đẹp đến đâu cũng là người cả nghĩ, hay ghen, vì thế rất cần có Ân
Quang, Thiên Quý chiếu về mới có thể gọi là hoàn toàn tốt đẹp.
Nếu là nữ số, khi Thái
Âm ở Thân ngộ Văn Khúc là người thông minh, xinh đẹp. Nếu Mệnh cư tại
Thân thì cung Phu - Thê sẽ an tại Ngọ, có Thái Dương (miếu địa) ngộ Văn
Xương sẽ lấy người chồng tài giỏi, bao bọc. Nếu cung Phu - Thê có nhiều cát
tinh khác hội họp như Tam Hóa, Tam Minh, Long, Phượng … thì người chồng có
thể làm đến bậc nguyên thủ Quốc gia. Nhưng trong trường hợp này nếu có
thêm Linh, Hỏa hay Kình thì cái đẹp của Phu - Thê bị chiết giảm, vợ chồng
hay khắc khẩu, nếu gặp Kiếp, Không càng xấu, gặp Đà La thì sẽ là phá cách.
Thái Âm ở Dậu:
Tại Dậu là vị trí miếu
địa của Thái Âm, được Thái Dương miếu địa ở Tỵ, Thiên Lương đắc địa ở Sửu chiếu
về tạo thành cách “Nhật Nguyệt tịnh minh” nên người có Thái Âm cư Dậu sống hiền
lương, đức độ, giàu sang vinh hiển. Nếu được nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội họp
như Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc, Đào, Hồng, Hỷ tất sẽ
phú quý tột bực và nổi tiếng.
Trường hợp này, nếu cung
Phu - Thê an tại Dậu thì cung Mệnh an tại Hợi có Cự Môn vượng địa độc thủ, được
Thái Dương miếu địa tại Tỵ chính chiếu, tuy không còn là cách “Nhật Nguyệt tịnh
minh” nhưng vẫn được hưởng giàu sang, phú quý, vợ chồng sống hạnh phúc
với nhau đến lúc mãn chiều.
Thái Âm ở Tuất:
Khi Thái Âm đóng tại
Tuất sẽ được Thái Dương ở Thìn trực chiếu ánh sáng đẹp đẽ, tạo thành cách Nhật
Nguyệt tranh huy. Mệnh cư Thìn nếu cung Tuất không nằm trong tam hợp Thái Tuế
thì cũng được hưởng cả Âm Dương. Mệnh cư Tuất muốn hưởng được cả Thái Dương
phải đứng trong tam hợp Thái Tuế. Trường hợp được hưởng cả cặp Âm Dương ở Thìn
Tuất gặp Xương Khúc Tả Hữu Quang Quý là thượng cách, tối quý.
(Xem Thái Dương ở Thìn)
Thái Âm ở Hợi:
Thái Âm ở Hợi là Thái Âm
miếu địa, được NHẬT - LƯƠNG ở Mão hợp chiếu, tạo thành cách “Nguyệt lãng Thiên
Môn” rất đẹp, nếu cung Mệnh đóng ở đây thì thật đẹp. Càng đẹp hơn nếu có Hóa Kỵ
đồng cung (chỉ có người tuổi Ất mới được hưởng cách này) sẽ là kỳ cách, cuộc
đời sẽ giàu sang, phú quý, sự nghiệp rạng rỡ. Cung Mệnh cư ở đây dù là trai hay
gái đều tối quý, miễn là mệnh Thủy, mệnh Kim.
Khi Thái Âm ở Hợi mà
Mệnh cư Mùi sẽ là cách “Nhật Nguyệt tịnh minh”, người có cách này rất thông
minh, phò tá cho bậc nguyên thủ quốc gia. Mệnh cư Mão thì cung Quan Lộc sẽ được
Nhật Nguyệt Tịnh minh chiếu cũng rất đẹp.
*.
Hà Nội, xuân năm 2007
ĐặNG XUÂN XUYẾN
------------------------------
Mời nhấp chuột đọc thêm:
https://dangxuanxuyen.blogspot.com/2015/08/vi-tri-nhat-nguyet-tren-la-so-phan-1.html
(Trích từ: TỬ VI
KIẾN GIẢI của Đặng Xuân Xuyến
Nhà Xuất bản Thanh Hóa, xuất bản năm 2009)
Thưa thầy cho con hỏi,cung mệnh tại mão có sao Thái Âm gặp triệt,cung tài có thái dương gặp tuần. Tam hương tứ chính đều hội tam minh tam hóa và lộc tồn. Vậy cách như trên nhật nguyệt có sáng sủa và đỡ xấu không ạ! Người này có vất vả và yểu thọ không thưa thầy? Con cám ơn ạ!
Trả lờiXóa