(Nhà văn Thái Quốc Mưu và phu nhân) |
“ĐỆ NHẤT PHU NHÂN”
Nói đến bốn chữ “Đệ Nhất Phu Nhân”, người ta sẽ nghĩ ngay đó là người phụ
nữ vợ của lãnh tụ một quốc gia. Chẳng hạn, phu nhân của Tổng Thống, của Quốc
Trưởng, Quốc Vương,… Có nghĩa, họ là người “ăn theo” danh vị siêu quyền lực của
đức ông chồng.
Trường hợp, người phụ nữ là công dân thượng đẳng, công dân số một, tức
chính bản thân họ là lãnh tụ của quốc gia thì không ai gọi người phụ nữ đó bằng
“Đệ Nhất Phu Nhân”. Tại sao? Vì trước chữ “Nhân” là chữ “Phu”, để chỉ “phu
nhân” là người phụ nữ đã có chồng và danh vị phu nhân của họ phải là danh vị
“ăn theo” chồng. Còn nếu tách rời chữ “Nhân” ra khỏi chữ “Phu” thì chữ “Nhân”
ấy chỉ có nghĩa là “Người”
Về phương diện chữ nghĩa, “Đệ Nhất Phu Nhân” khác với cách phân định ngôi
thứ bình thường. Thí dụ, cao hơn hạng Nhất có Thượng hạng, dưới hạng Nhất có
hạng Nhì. Còn trong một quốc gia, “Đệ Nhất Phu Nhân” không có tên gọi nào cao
hơn hoặc thấp hơn. Cho nên ta không nghe thấy: “Thượng Phu Nhân” để chỉ vợ của
ông “siêu” đứng trên vị nguyên thủ lãnh đạo đất nước, hoặc “Đệ Nhị Phu Nhân” để
chỉ vợ ông Phó của vị nguyên thủ quốc gia.
Đó là nói về các thể chế chánh trị ở đa số các quốc gia trên thế giới. Còn
các nước Xã Hội Chủ Nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam ,… thì thật là “khó hiểu, khó
nói”.
Theo suy nghĩ bình thường thì vị Chủ Tịch Nước là ngôi vị cao nhất trong
thể chế chánh trị, vợ của vị nầy tất nhiên là “Đệ Nhất Phu Nhân”. Khổ, thực tế
vị Chủ Tịch Nước nằm dưới quyền của vị Tổng Bí Thư, nếu gọi phu nhân Chủ Tịch
Nước bằng “Đệ Nhất Phu Nhân” thì chúng ta gọi phu nhân của vị Tổng Bí Thư bằng
gì đây? Chẳng lẽ “Thượng Phu Nhân?”
Nhưng, nếu gọi người phụ nữ nào đó bằng “Đệ Nhất Phu Nhân” thì cái Nhất của
vị phu nhân ấy chỉ nằm gọn trong đất nước nào đó mà thôi. Vì, trên các quốc gia
khác, mỗi nước đều có một “Đệ Nhất Phu Nhân”. Và, trên thế giới có rất nhiều
phụ nữ có chồng là nguyên thủ quốc gia. Vì thế, trên bình diện quốc tế có RẤT
NHIỀU đệ nhất phu nhân. Mà, khi CÁI NHẤT có QUÁ NHIỀU thì chẳng còn ai là NHẤT.
Vì vậy, nếu tính cả thế giới thì không có ai là “Đệ Nhất Phu Nhân” cả.
Tóm lại, các bà, muốn có danh hiệu “Đệ Nhất Phu Nhân” trong một đất nước,
thì, phải làm sao có đức ông chồng hét một tiếng thì cọp trong rừng cũng chạy
té… cứt. Và, những ông chồng của vị “Đệ Nhất Phu Nhân” ấy nên nhớ khi các bà
“lúc la lúc lắc” phải nằm lòng câu châm ngôn, “dưới một bà để trên trăm họ.”
Đó là “lý luận ba xu, nói nghe chơi rồi bỏ”. Bởi ở đời luôn có cái biến
trong bất biến thì cũng có cái bất biến trong vạn biến. Có thứ tưởng chừng đã
“siêu” nhưng thực tế, “siêu” cũng có thứ “trên siêu” mới lạ!
Nhưng, có một người phụ nữ, có người chồng bất tài, vô tướng, là phó thường
dân chánh hiệu con nai vàng lại là “Đệ Nhất Phu Nhân” thứ thiệt. Thứ thiệt, vì,
cả thế giới nầy chỉ có mỗi mình bà ta, xứng đáng với danh hiệu gồ ghề đó.
Người phụ nữ đó là ai? - Vợ tôi!
* *
*
Năm hai ngàn không trăm lẻ mấy…
Tôi đang nằm trên giường bệnh, bỗng nhiên như có một sức mạnh siêu hình nào
đó thôi thúc, buộc tôi phải nghĩ đến cuộc đời phù du và quá khứ đời mình. Tôi
có cảm giác, có lẽ mình sắp chết nên ơn trên soi rọi, giục thúc nhắc nhở tôi
phải nhớ đến những người mình đã chịu ơn và phải trả ơn để khi nhắm mắt xuôi
tay theo ông theo bà về nơi cõi vĩnh hằng thì tâm hồn mới được thanh thản.
Tôi ngồi dậy, lại bàn, lấy giấy bút ra viết thành một danh sách, đầy đủ chi
tiết:
Sau 21-11-1975:
- Tôi bị bắt vào tù, bị giam dưới hầm trong Mật Khu Đá Bàn, ở đó có bà Sáu
Đèo - Người ta gọi bà Sáu bằng bà Sáu Đèo bởi vóc dáng bà nhỏ nhắn như đứa trẻ
trên mười - Bà bị bắt, bị đưa đi “cải tạo” về tội tú bà chứa gái mãi dâm. Trong
trại giam ở mật khu Đá Bàn bà Sáu Đèo được cho ra nấu bếp cơ quan, mỗi lần nấu
cơm cơ quan bà đều lén giấu trong túi áo trong (gọi là áo túi), một miếng cơm
cháy chừng bằng 4 ngón tay để khi tới bữa ăn bà đem khoai mì luộc ra hầm còng
mà cho tôi thêm miếng cơm cháy ấy.
- Khi tôi đau nặng, có một anh công an coi trại giam tên Trọng lén cho nửa
tán đường, còn dặn: “Anh ăn đừng cho ai thấy!”
- Sau thời gian bị còng dưới hầm (trước kia dùng để tránh bom), tôi được
đưa lên trại giam, một chiều công an ngoài thị trấn Xuân Lộc đem tử tội Lê Văn
Ỵ vào rừng tử hình, công an Nhân mở cửa trại giam, gọi lớn: “Cần 4 người, xuống
kho lấy dá, xẻng ra lao động!”
Để tránh cái không khí ngột ngạt trong trại giam, nhỏ hẹp, chật chội, tôi
là tên tù giơ tay đầu tiên trong số trên một trăm tù viên bị giam chung, và nói
to, “Tôi tình nguyện. Xin cán bộ cho tôi đi!”
Công an Nhân nhìn quanh, đếm, “một, hai, ba, bốn”. Rồi bỗng chỉ thẳng vào
mặt tôi, “Anh kia ở lại, còn thiếu một người nữa, vậy ai tình nguyện?” Chẳng
cần ai trả lời, anh ta liền chỉ, “Anh kia! Ra lao động!” Thế là ông chủ Nhà
Phát Hành Sách Nam Cường vội vàng đi ra.
Sau đó, liên tiếp mấy tuần, trong giấc ngủ, ông Giám Đốc Nhà Phát Hành Sách
Nam Cường đêm nào cũng thấy những cơn ác mộng. Giữa đêm ông la hét kinh hoàng.
Ở trong trại giam, “tình nguyện” ra lao động mà bị từ chối thì lo lắng vô
cùng. Vì đi lao động là cách duy nhất hưởng được không khí trong lành, cơ thể
có cơ hội hoạt động. Nếu xin lao động mà không cho, thì ai nấy cũng tự hỏi, “Vì
đâu? Tại sao?” Nhiều khi, nằm lo cả đêm không ngủ được!
Mấy bữa sau đêm đó, tôi cùng anh Nguyễn Phát Phú, tù về tội Cảnh Sát Quốc
Gia, đang cưa củi thì công an Nhân đến, bảo, “Anh Phú, lại chỗ Thổ Hồ (tên
người tù sắc tộc thượng), lấy cây dũa đem lại đây”. Khi anh Phú đi rồi, công an
Nhân đến bên tôi nói nhỏ, “Anh biết, vì sao tối hôm tử hình thằng Ỵ tôi không
cho anh ra lao động không?” Tôi đáp, “Dạ! thưa cán bộ, sau nầy tôi nghĩ ra thì
biết cán bộ thương nên không muốn tôi…”
Công an Nhân nói: “Thấy anh hiền lành, tôi không nở để anh nhìn…” Xong,
công an Nhân bỏ đi, thì ra Nhân sai anh Phú đi lấy cái dũa chỉ là cách... đuổi
đi.
Đó là ba người tôi chịu ơn trong khi bị giam ở mật khu Đá Bàn. Xin hiểu đó
chỉ là vài ba chuyện điển hình,… Thực tế, còn nhiều, rất nhiều nữa. Xin mời xem
tiếp.
Từ đó cho tôi học thêm bài học, ở đâu, nơi nào và nhất là trong bất cứ thể
chế chánh trị nào cũng có những con người rất xứng đáng với tên gọi CON NGƯỜI.
* *
*
Đầu năm 1976, sau khi kho đạn Long Khánh nổ, tôi cùng một số tù nhân khác,
đang bị giam giữ tại K4 (đọc là Ka-Tư, nguyên là Ty CSQG Long Khánh) bị chuyển
đến trại Bàu Lâm, thuộc mật khu Hắc Dịch.
Khi mới đến nơi, một đại diện tù đứng ra lập danh sách nghề nghiệp, để Ban
Lãnh Đạo trại căn cứ vào đó mà phân chia ra từng đội lao động, gọi là “C”
(không đọc “Cờ”, phải đọc là “Xê”). Tôi chờ đến khi đại diện “C” tên Nguyễn văn
Út, nguyên Xã Trưởng Xã Tân Lập, Long Khánh - giới tù chúng tôi, gọi hắn là
“Thằng Út nón cối”, bởi hắn muốn hóa trang thành chiến sĩ của quân đội nhân dân)
- lập xong danh sách rồi giục: - Thái Quốc Mưu, nghề nghiệp gì nói đi để người ta còn
đem nạp lên lãnh đạo.
Lúc ấy, tôi cố tình kéo dài thời gian, trước khi “thật thà khai báo”. Tôi
nói: - Tôi nhiều nghề lắm, chưa biết khai nghề nào đây? Ờ, trước kia tôi là
“đầu bếp” nhà hàng Đại La Thiên! Thôi viết đại tôi là “đầu bếp” đi!
Do tù mới chuyển đến đông, nhà bếp cần thêm người, mà trong các danh sách
nộp lên Ban Lãnh Đạo trại, chỉ mỗi mình tôi là “đầu bếp”, lại là “đầu bếp” nhà
hàng “vĩ đại” nữa nên tôi được phân công làm lao động tại nhà bếp tù.
Thế là, tự nhiên tôi phủi chân cái rụp, nhảy vào “nhà bếp” cái rầm, nơi mà
người tù nào cũng mơ ước, vì lao động ở nhà bếp được tránh mưa nắng, ít vất vả,
tự do hơn… Vả lại, cũng “được tiếng giàu kho, no bếp!” (Nói cho vui, chứ mỗi
buổi nấu ăn đều có ba, bốn người tù trật tự được cử xuống kiểm thực rất gay
gắt).
Quản lý nhà bếp tù là “tù viên” (gọi là trại viên) Nguyễn văn Mạnh, hắn với
tôi chẳng lạ gì! Trước kia, tôi cùng tên nầy học chung khóa Tông Đồ Giáo Dân,
cùng chung nhóm, ngồi chung bàn Thánh Phê-Rô. Khi thấy tôi mới đến mà được Ban
Lãnh Đạo trại chỉ thị xuống làm ở bộ phận bếp tù. Đây là một trường hợp ngoại
lệ, bởi trước nay, khi bộ phận bếp tù thiếu người, thì chính Nguyễn văn Mạnh
xin Ban Lãnh Đạo trại cho tăng cường người. Đương nhiên là hắn trực tiếp xin
những ai từng quen biết hoặc đã “đặt hàng trước” với hắn.
Bữa đó, tự nhiên thấy tôi mới chuyển đến mà được phân công làm ở bếp, cho
nên hắn và khoảng trên 45 “tù viên” khác run té… đái, vì họ tưởng tôi là “nhân
viên công lực” được “đặc phái” xuống bếp nằm vùng để dòm ngó “mọi hoạt động
tình báo”, nếu có. Cho nên, chẳng những Nguyễn văn Mạnh chất vấn mà hắn còn
“chỉ đạo” cho tất cả “tù viên” trong bếp tù “xa luân chiến” tra vấn tôi ngày
đêm.
Nguyễn văn Mạnh, “cai” bếp tù, phân công tôi vào tổ nấu ăn. Chiều hôm đó,
nấu ăn cho sáng hôm sau, thường khi thì chỉ nấu nước muối pha với nước mắm, là
xong. Thấy vậy, tôi đề nghị, nên làm nước mắm tỏi ớt để anh em tù dễ ăn. Không
dè Nguyễn văn Mạnh đồng ý. Thế là, trên 12 ngàn tù viên trong trại Bàu Lâm,
được bữa ăn sáng “ngon lành”. Do đó, tôi nổi tiếng như cồn, dư luận đồn ầm lên,
“Tên đầu bếp mới đến chế biến nước mắm ngon quá!” Hi! Chẳng ai biết, trước khi
“lượn lách” để khỏi đi quân dịch, nghề nghiệp chính của tôi là buôn bán vàng.
(Tiệm vàng Lệ Châu. Lê Châu là nói “ngắn, gọn” hai tên Lệ Hoa và Bửu Châu là
hai đứa em gái của tôi).
Ở nhà bếp, ba bốn ngày, chẳng thấy tên tù nào dám gần gũi tôi, họ sợ nên
không muốn gần. Một hôm, tên Nguyễn văn Mạnh kêu tôi lại bàn “làm việc”. Hắn cứ
hỏi:
- Anh nói thật cho tôi biết, anh bà con với
Ban Lãnh Đạo thế nào, để tôi sắp xếp công việc nhẹ nhàng cho anh. Chứ ở tổ nấu
ăn củi lửa nóng lắm…
Tôi dấu cái mánh của mình, nên đáp dối: - Tôi chẳng có bà con với ông bà nào hết. Có
lẽ do tôi là đầu bếp hoặc hên mà thôi.
Hắn không tin, nói: - Trước nay, ai muốn xuống bếp làm, đều phải xin qua tôi. Trường hợp anh,
tôi thấy lạ!
Tôi nói: - Có gì lạ đâu anh! Tôi nghĩ là tôi hên mà thôi.
Thấy tôi đáp như vậy, hắn càng nghi, càng sợ. Nên Mạnh bảo hết người nầy
hỏi, đến người kia hỏi. Họ theo hỏi như vậy cả mấy ngày. Cuối cùng tôi phải nói
thật cái “mánh” của mình. Không dè...! Tên tù quản lý Nguyễn văn Mạnh nghĩ tôi
qua mặt y.
Mỗi chiều tối các tù viên “Xê” (C) trưởng đi họp với Ban Lãnh Đạo trại để
nhận công tác được phân cho ngày hôm sau, Mạnh trình: - Anh Thái Quốc Mưu mới
xuống làm nhà bếp, nhờ chúng tôi xin Ban Lãnh Đạo cho ra lao động bên ngoài!
Anh ấy nói không thích hợp phục vụ ở nhà bếp. (tôi nghe được lời nầy là do
những bài bạn tôi, đi họp về kể lại).
Thế là tôi “được” đưa ra tổ đào lỗ cột nhà. Vừa đào vừa khóc vì nghĩ mình
“ma lanh” mà lại “NGU” nên nói thật với kẻ ác ôn, hẹp hòi.
Từ sự việc nầy, tôi nghiệm ra rằng, ở đời đừng nghĩ, đừng tưởng những kẻ
sinh hoạt trong các đoàn thể công giáo tiến hành đều có tinh thần bác ái, đạo
đức. Trong số những kẻ ấy không thiếu những tên giả hình, ác ôn, hẹp hòi, ích
kỷ,… dùng các tổ chức thánh thiện của tôn giáo làm bình phong để làm điều gian
manh, dối trá.
Trong khi đào lỗ cột nhà, tôi có quen Hà văn Cót (hiện ở Houston , Texas )
người có hai dòng máu Hoa Việt, anh là Thám Sát Tỉnh Bà Rịa. Trước khi đi lính,
anh làm thợ bánh ngọt. Hà văn Cót cho tôi biết, chừng tháng nữa, trong trại sẽ
mở lò bánh kẹo, anh ta được chọn làm tổ trưởng. Cót hỏi tôi: - Anh có muốn làm
chung với tôi không?
Tôi đáp: - Tôi có biết làm gì đâu anh!
Cót nói: - Anh chụm lửa, dọn dẹp là được rồi, tất cả tôi làm hết! Để khi nào Ban
Lãnh Đạo kêu lên, tôi sẽ đề nghị xin anh với Phan Tấn Đức (Chỉ huy Phó Cảnh Sát
Quốc Gia Quận Phước Lễ, Bà Rịa. Hiện ở Paris ,
Pháp) là đủ rồi!
Thế là tôi mới bị ác quỷ sa tăng Nguyễn văn Mạnh hãm hại, liền gặp ngay
Phật cứu tinh Hà văn Cót (Cót đạo Phật).
Trong bất cứ trại tù nào cũng có chó săn và bọn trật tự hung thần. Bọn hung
thần trại tù Bàu Lâm không đến đổi mất tính người như tên Bùi Đình Thi, nhưng
chúng hãm hại người bị cùm không ít. Do đó, tôi luôn nghĩ cách đối phó.
Khi lò bánh kẹo bắt đầu “khai trương”, ba anh em chúng tôi (Hà văn Cót,
Phan Tấn Đức và tôi) lên làm và được ăn, ở, ngủ luôn tại đó, được tự do đi lại
hơn ở trong khu trại lớn. Không phải lãnh cơm từng bữa mà lãnh lương thực hàng
tháng, tự nấu ăn. Ngày bắt đầu làm, công an trại tù thấy lạ, họ kéo nhau xuống
coi. Trong đó có cô công an Quản Lý Lương Thực Trại và Quản Lý Căn-tin tên Võ
Thị Tím. Họ chỉ chúng tôi từng người hỏi tên. Đến khi hỏi tôi, tôi đáp: - Thưa các anh chị cán bộ, tên tôi kỳ lắm!
Họ cùng nói: - Gì mà kỳ? Anh cứ nói đi!
- Dạ tôi sẽ nói, nhưng xin để chị cán bộ nầy đi rồi tôi nói.
Chị cán bộ Tím (lúc đó 17 tuổi) cười nói: - Thì anh cứ nói đi, có tôi thì có, chẳng sao
đâu!
- Dạ tôi tên...
Rồi tôi cố ý ngần ngại đợi họ giục, thay vì MƯU, tôi nói lớn và nhanh: - Dạ! Tôi tên MU.
Tôi có ý nói chữ MU lớn, họ thi nhau cười cái rần, cán bộ Tím đỏ mặt, che
miệng cười, rồi nói: - Tên anh kỳ thiệt! Vậy anh thứ mấy?
- Thưa chị, tôi thứ Bảy!
Tím nói: - À, thôi mình gọi ảnh bằng anh Bảy đi! Chứ gọi tên nghe kỳ quá!
Thế là chỉ cần “mánh” một chút, cả trại, từ anh em bạn tù đến công an, gia
đình công an đều gọi tôi bằng “anh Bảy” ngon lành. Bọn hung thần trật tự cũng
không ngoại lệ. Chúng cứ nghĩ tôi là thân nhân của Ban Lãnh Đạo trại. Ngoại trừ
bạn bè tri kỷ trong tù biết “mánh”, họ gọi tôi bằng “Cậu Bảy!” để vừa đùa, vừa
“phục”, vừa “nâng cao uy thế” cái mánh của tôi.
Nhờ cái “mánh” đó tôi yên ổn suốt thời gian trong tù. Sau đó, tù quản lý
bếp Nguyễn văn Mạnh gặp tôi y cũng “chịu phép!” Có lẽ hắn nghĩ, khi làm ở nhà
bếp tù tôi nói dối!
Làm ở lò bánh kẹo một thời gian, ông Bùi Tấn Công (thường gọi là Ban Tám),
Thủ Trưởng Lãnh Đạo Trại, thấy công an, viên chức cứ xuống lò bánh kẹo hoài,
ông sợ họ lợi dụng lấy bánh kẹo ăn, nên cho viết tấm bản to chà bá treo trong
lò bánh kẹo, “Cấm Nhân Viên, Cán Bộ Xuống Lò Bánh Kẹo”. Thế là chẳng ai còn bén
mảng tới. Thật ra, trước đó họ xuống cũng có lén ăn chút chút. Ở trong rừng ai
cũng thèm khát, đâu phải chỉ riêng tù nhân.
Thú thật, sau lệnh cấm, thấy họ thèm mà tôi động lòng, bèn nghĩ cách cho
họ.
Mỗi khi làm kẹo đậu phộng tôi gom hết rìa vụn sau khi cắt, cho vào nhiều
túi nilon nhỏ, chôn giấu trong thùng bột mì lớn. Mỗi chiều, thấy công an nào đi
tắm về ngang (giếng sau nhà Thủ Trưởng, và phải đi ngang qua lò bánh kẹo), tôi
đứng nép vào mé cửa, vẫy vào, đưa cho họ bịch rìa kẹo vụn và nói: - Tôi lén giấu cái nầy để cho anh!
Họ cám ơn lia lịa. Và ngày nào cũng vậy, hết anh công an nầy đến anh công
an khác. Vì vậy, hơn trăm công an coi tù ai cũng thương tôi.
Có lần, công an Nguyễn văn Phú hỏi tôi: - Anh Bảy uống rượu không, sẵn ra ngoài làng
tôi mua cho anh một bi-đông!
Tôi đáp: - Dạ, cám ơn cán bộ, tôi không biết uống rượu! (Công an Phú có người em tên
Vinh, cũng là công an, làm chung trong trại, một đêm đói quá, anh công an nầy
lén vô kho dự trữ lương thực ăn cắp gạo, bị phát hiện, đưa ra sinh hoạt nặng
nề. Do xấu hổ, anh tự tử chết tại trại. Tôi kể rõ như vậy để quý độc giả biết
rằng thời đó, ai cũng đói chứ chẳng riêng gì giới tù cải tạo chúng tôi bị đói
không đâu!)
Nghe tôi từ chối việc công an Phú muốn mua giùm rượu, Hà văn Cót, Phan Tấn
Đức chửi tôi quá chừng: - Ông ngu quá, không uống thì tụi tôi uống!
Tôi đáp: - Ai biết, thấy cấm uống rượu làm sao tôi dám nói với mất cha?
- Ông thật thà quá, hóa ngu! Tối làm một ngụm, vô mùng ngủ Ai biết?
Ở lò bánh kẹo lâu, gần gũi công an nhiều nên tôi cũng có cảm tình với họ.
Khi họ đi săn về, đều kêu tôi lên bếp cơ quan làm thịt thú và nấu nướng (họ vẫn
tin tôi là đầu bếp!) Việc làm thịt thú vật, tôi không rành, nên xin thêm một
người giúp và tôi đề nghị Trần văn Độ (hiện ở bang Arizona), vì tôi biết, trước
khi đi Cảnh Sát Quốc Gia, Độ chuyên hạ thịt heo bán. Lúc đó anh làm tổ trưởng
tổ nấu thức ăn bếp tù.
Sau mỗi lần thịt được làm sạch sẽ, đem lên bàn, ông Sáu Minh, là một trong
những vị trong Ban Lãnh Đạo trại, ra lệnh cho Độ với tôi: - Tôi giao hai anh
chia thịt, nếu mất một miếng là tôi còng hai anh!
Tôi biết chẳng phải ông tin tưởng gì chúng tôi, nhưng tự nghĩ ông khôn đáo
để, vì nếu giao cho các chị nuôi (những người phụ trách bếp) công an, cán bộ
còn xuống xin xỏ ăn riêng được, giao cho tôi với Độ thì “chắc ăn như bắp”. Anh
công an nào muốn lấy chút thịt ăn thêm, tôi hay Độ liền năn nỉ: - Nếu cán bộ lấy, chúng tôi sẽ bị Ban (tức là
gọi tắt Ban Lãnh Đạo) Sáu Minh còng tụi tôi liền!
Lời của chúng tôi được bảo kê bằng lời của các chị nuôi: - Ông Sáu Minh mới
nói đó, ai lấy là còng mấy ảnh đó!
Trong khi tôi lo chia thịt cho từng gia đình, tùy theo mỗi lần có thịt
nhiều hay ít (do nhiều toán săn nên thú rất nhiều) và tùy theo đầu người ở mỗi
gia binh - thì Trần văn Độ lo làm tiết canh, xào nấu món nhậu... (Trần văn Độ
nấu ăn ngon lắm!). Nhờ làm thịt thú rừng nhiều tôi mới biết những con vật từ
trước đến thờì điểm đó tôi chưa hề biết tên, như Cheo, Cúi, Mễn, Trúc,…
Tôi có “biệt tài”, khi cắt thịt cân chia, là cắt ra thì cân “đúng y” số
lượng, không thêm không bớt! Cân xong, lấy lá chuối gói lại và khi giao cho vợ
các ông có gia đình, tôi nhấn mạnh gói thịt vào tay họ. Họ hiểu ý, ra về ngay!
(họ biết tôi luôn cân dư, chớ làm sao tôi cắt đúng ngay được!) Việc đó chẳng
thiệt thòi gì cho những người chưa có gia đình, ăn tập thể, vì họ cũng được khẩu
phần theo số thịt còn lại. Nhờ vậy, từ đó tôi lại “nổi tiếng”, “anh Bảy lò kẹo
cắt thịt thật hay!” Còn các chị nuôi làm ở bếp đều bảo tôi chia những loại thịt
thú ngon như nhím, heo rừng, nai,... Trần văn Độ thật thà, anh chỉ “ăn theo
mánh” của tôi.
Mỗi khi hạ thịt heo, các chị nuôi đều lén cho chúng tôi chút ít thịt. Có
lần, con heo làm xong, chị Thu bếp trưởng, nói: - Hai anh coi cắt trước chỗ nào mà lát nữa
ông Sáu Minh xuống không biết dấu, đưa tôi đem vô phòng (ngủ) cất, chừng hai
anh làm xong lấy về.
Trần văn Độ cầm dao, suy nghĩ hoài chẳng biết cắt chỗ nào mà không để lại
dấu cắt. Tôi nói: - Mi “ngu” quá! Để “cậu Bảy” cắt cho! (chúng tôi thân thiết
nên luôn nói chơi với nhau như vậy),
Tôi cầm dao, cắt một khoanh dày chừng 5 ly, ngay chỗ cổ heo mà cái đầu mới
cắt ra! Chỉ có Trời mới biết!
Trên đường vô trại, Độ xách thùng nước vo gạo, trên đậy lá chuối, đem vô
cho trại heo ở phía sau nhà bếp tù, trong đó có khoanh thịt cổ heo. Những phần
“quà” như thế tôi đều dành hết cho Độ. Còn tôi thì có phần khác. Xin kể sau!
Có lần tổ trác, khi Trần văn Độ đem “quà tặng” vào trại, bị trật tự gác
cổng chận lại không cho đem vô trại. Từ lò kẹo, nhìn sang, tôi thấy đám trật tự
bu quanh cổng vào, coi lăng xăng, ghê gớm lắm! Tôi biết Độ đang “có chuyện”,
nên vội chạy sang Căn-tin (trước cửa lò kẹo), cầu cứu cán bộ Võ thị Tím (quản
lý lương thực trại và Căn-tin). Chị vội ra chỗ cổng, nói: - Dượng Năm (tức Thủ
Trưởng, vợ ông là Dì ruột của Tím) dặn mỗi khi làm xong thịt cho hai ảnh một
ít. Từ nay mấy người không được xét nữa!
Từ đó, Độ ngang nhiên mang “hàng” vào!
Lần khác, làm thịt một con bò, ông Sáu Minh bảo: - Hai anh nấu nước sôi, cạo lấy luôn da!
Tôi cầu cứu chị Thu, trưởng bếp, chị vội chạy xuống nhà Thủ Trưởng trình
bày (Chị Thu cũng là cháu gọi vợ Thủ Trưởng Bùi Tấn Công bằng Dì, chị là con
người thứ Hai, còn Tím là con của người thứ Ba, vợ Thủ Trưởng thứ Năm, về vai
vế trong gia đình nàng Tím gọi Thu bằng chị)
Ông Bùi Tấn Công nói: - Ông Sáu Minh bày đặt, thuở nay, ai làm bò mà cạo lông.
Mầy bảo tụi nó cứ lột da, bộ da cho hết tụi nó với cho thêm một ký thịt!
Chị Thu mừng quýnh về nhà bếp “sao chép nguyên văn!” cho tụi tôi nghe!
Xong việc, tôi giúp Độ khiêng nguyên bộ da bò vô trại, đến cổng trật tự
không cho tôi vào, vì nói tôi bị cách ly như ba vị Linh mục ở đối diện lò kẹo
(5, 6 linh mục khác ở trong vòng rào). Thực tế thì không! Tôi chỉ được phân
công làm lao động ở lò bánh kẹo.
Vào trại, Độ cắt chia bộ da bò cho mỗi người - nhất là những người không có
thăm nuôi - một miếng bằng bàn tay. Ai nấy cũng mừng. Chia hết cả, Độ còn nửa
ký thịt bò.
Ở lò bánh kẹo Hà văn Cót, Phan Tấn Đức ăn chung với tôi, thấy tôi đem nửa
ký thịt bò về, mắt hai “thằng” sáng rực!
Khi “làm thịt cơ quan” tôi thợ vịn, Độ vai chính, làm thịt xong tôi chịu
trách nhiệm chia thịt, Độ lo nấu nướng. Mỗi lần như vậy, nếu nhu cầu tiết canh,
thịt nướng hay luộc mỗi thứ 10 dĩa, ông Bùi Tấn Công bảo làm mỗi thứ 12 dĩa.
Ông cho các chị nuôi và chúng tôi mỗi “phe” mỗi thứ một dĩa. Chúng tôi ăn tại
chỗ một phần, phần còn dư các chị cho chúng tôi đem về. Thường thì “hàng sống”
tôi luôn nhường hết cho Độ. Ngoại trừ những khi đặc biệt.
Trần văn Độ nấu ăn rất ngon! nhưng không có tiếng, còn tôi không biết nấu
ăn, nhưng rất nổi tiếng, vì tôi là “đầu bếp nhà hàng Đại La Thiên” mà!
Tôi làm ở lò bánh kẹo bốn, năm năm, rất thoải mái và đầy đủ. Phần do “làm
thịt cơ quan”, phần do Võ thị Tím mỗi lần đi Bà Rịa mua thức ăn về, đều “nhém”
cho tôi đủ thứ, nào cá tươi, cá khô, trái cây... tuần nầy Cót, Đức và tôi ăn
chưa hết thì tới “quà” tuần sau. Ngoài ra, khi “làm thịt cơ quan” tôi cũng có
“hàng”!
Hà văn Cót, mỗi tháng đều có vợ đến thăm nuôi đầy đủ. Còn Phan Tấn Đức nhà
có tiệm vải lớn, có xe đò lớn như xe Bus, chở khách thăm nuôi mỗi tuần, nên
tuần nào anh cũng có quà gia đình, mỗi lần như vậy Đức gánh một gánh nặng. Tôi
thì vợ có chồng khác, bị mồ côi trong tù. May được những tấm lòng nhân vĩ đại
thương yêu!
Có lần Phan Tấn Đức nói chơi với tôi, một cách rất nghiệt ngã: - Ông ăn ở thế nào nên vợ mới bỏ, còn tôi sao
vợ không bỏ?
Tôi lặng thinh, ngậm ngùi! Còn Hà văn Cót nghe Đức nói vậy, anh liền chửi
Phan Tấn Đức: - Đ. Mẹ! hết chuyện nói chơi sao mà nói vậy? Nhè nỗi đau đớn của
anh em mà bươi móc ra! “Cha” có điên không?
Phan Tấn Đức biết lỗi, không dám trả lời. Nếu Đức trả lời lộn xộn Hà văn
Cót dám đánh lắm. Vì, anh ta là dân Biệt Kích mà!
Vài năm sau, trại cho phép những tù nhân “lao động tốt” được về thăm nhà,
mỗi người có một công an trại đi theo. Phan Tấn Đức, Hà văn Cót đều đi, cho tôi
đi nhưng tôi ở lại, vì tôi sợ nếu về, chứng kiến hoàn cảnh khó nghèo, con cái ở
với nội nheo nhóc, không kềm lòng được trốn luôn thì nguy hiểm khôn lường.
Trưa hôm ấy, Phan Tấn Đức về trại, mặt anh buồn so, hỏi gì cũng không đáp.
Chiều hôm đó Hà Văn Cót mới về! Mùi rượu bừng mặt (chính cái ân huệ về phép
nầy, mà sau nầy một vài anh em đi diện HO bị rắc rối vì sao ở trong tù mà vợ có
thai?)
Mãi về sau, công an Long, người dẫn Phan Tấn Đức về nhà, tiết lộ với Cót và
tôi: - “Khi Phan Tấn Đức vô nhà thì nghe trong buồng có tiếng con nít khóc, anh
vào phòng thấy vợ đang ru con đỏ. Đức quay lưng ra luôn, yêu cầu cán bộ “dẫn
độ” trở về trại.”
Tôi nghe bạn bè nói lại, sau khi được trả tự do, Phan Tấn Đức được gia đình
bên vợ tổ chức cho anh vượt biên. Hiện anh đang định cư ở Paris, Pháp.
Cho tới bây giờ, gọi phone nhau, nhắc lại chuyện cũ, Trần văn Độ vẫn nói:
“Cậu Bảy” khôn quá chừng, nên ở đâu cũng sướng!” Tôi nghĩ, tên Độ nầy khen tôi
như vậy là thừa. Tôi vốn khôn sẵn từ bụng mẹ mà! Hi!
Tôi cười nói, “Sướng sao bằng khi nằm với các bà?”
Ở lò bánh kẹo, tôi có một kỷ niệm quý vô vàn, hôm đó, Đặng Thị Thúy, Giáo
sư Đệ Nhị Cấp, dạy Việt Văn ở Trung Học Ngô Quyền, Vũng Tàu (hay Biên Hòa, tôi
quên), tù vượt biên, từ trại nữ sang xin bình nước uống - Lò bánh kẹo dùng nước
bơm từ giếng lên còn hầu hết dùng nước ở suối. Gs. Đặng Thị Thúy mặc chiếc áo
rộng cổ, nhấn nước đầy bình rồi để bình xuống đất, hướng về tôi, đứng khom khom
cứ loay hoay vặn ra, vặn vào cái nắp bình bốn lít, cổ áo trệ xuống, tôi thấy rõ
hai gò ngực không nịt, tròn đầy, trắng muốt, căng cứng như hai tô úp, lòng tôi rạo
rực, khát thèm...! Lát sau, Thúy nhìn lên nói nhỏ:
- Thúy biết anh thèm lắm, cho anh nhìn đỡ thèm!
Nghe Thúy nói, tôi “muốn chết được!” Bạn như thế trên đời mấy ai? Trong tù
chúng tôi hay làm thơ Đường xướng họa với nhau! Trong tù, Giáo sư Thúy làm ở tổ
đan các vật dụng nông nghiệp. Cảm hứng với “nghệ nghiệp” mới của nàng. Tôi ra
câu đối: “Ngày hai bữa tung hoành ngang dọc, mặc sự đời cứ xỏ cứ xiên, miệng
nhân thế tha hồ tròn méo.”
Giáo sư Thúy đối lại: “Nhớ một thuở tác tung vùng vẫy, thân tự do khi dọc
khi ngang, cửa quan cách mặc tình xuôi ngược.”
Nhiều khi nhớ lại những kỷ niệm trong tù, tôi nhớ “hai trái bưởi Thanh Trà”
của Giáo sư Thúy nhiều nhất. Tự nghĩ, trái đất tròn tròn như hột gà, hai con
kiến bò lên trước sau gì cũng gặp. Biết đâu, tình cờ hai đứa gặp lại nhau. Lúc
ấy, có lẽ, câu đầu tiên tôi sẽ nói: “Thúy ơi, ngày trong tù chưa thấy chưa
thèm. Nhưng Thúy đã cho mình thấy rồi nên thèm mấy chục năm nay! Giờ Thúy có
thể, có thể… cho đỡ thèm lần nữa không?” Rồi tôi lại nghĩ vui, “Bốn mấy năm trước,
Thúy tự nguyện cho mình được nhìn hai cái tô úp. Giờ chắc cụ Thúy không dám cho
mình đỡ thèm bằng hai trái mướp khô đâu! Hi!
Làm ở lò bánh kẹo có 3 thằng (Cót, Đức, Mưu), chỉ có mình tôi nhờ làm “đầu
bếp” được quý vị trong Ban Lãnh Đạo trại và công an gần gũi thường, nên ai nấy
cũng thương tôi một cách chân thành.
Một lần, tôi với Trần văn Độ lại nhà ông Thủ Trưởng Bùi Tấn Công (Tám
Công), làm một con heo nái trên hai tạ, bỗng ông gọi tôi lên nhà trên, biểu,
“Lâu lâu mày vô trong trại, nghe ngóng coi trong đó anh em có gì không rồi cho
tao biết. Để họ dại dột trốn trại thì hại thân!
Từ năm 1962, khi bước vào đời “ăn lương của chánh quyền” tôi giữ ngay chức
vụ Phụ Tá Phòng Cảnh sát An Ninh, Thị Xã Mỹ Tho, được tôi luyện vững vàng
nghiệp vụ. Nên khi nghe ông Thủ Trưởng Bùi Tấn Công nói, tôi hiểu ngay, ông
biểu tôi làm “ăng-ten” (anten = một loại chó săn). Nên, khi ông vừa dứt lời,
tôi vội vàng quỳ xuống, lạy lia lịa và thưa: “Thưa Ban Tám, em vào cải tạo 3
năm thì vợ em bỏ 6 đứa con đi lấy chồng, Má em khuyên không được tự vận chết,
hiện nay em cũng chưa biết con em ra sao. Nếu Ban Tám không thương em bắt em kỹ
luật thì em xin chịu, chứ em không thể làm như vậy.”
Nghe tôi nói xong, ông liền biểu tôi đứng dậy, rồi nói: “Mầy không làm thì
thôi. Tao chẳng ép! Gì mà phải lạy lục lôi thôi cho mất công.”
Không ngờ, do lòng hiền lành của tôi. Từ đó, tôi lại được ông Bùi Tấn Công
thương tôi nhiều hơn nữa. Tôi nghĩ, nếu tôi chịu làm “chó” có thể ông Tám Công
dù có sử dụng tôi, nhưng chắc chắn ông ta sẽ khinh bỉ tôi. Còn, bây giờ ở Mỹ
chắc chắc tôi không dám nhìn bạn cùng trại với tôi, Đồng thời họ sẽ coi tôi như
là một thằng khốn nạn nhất trần gian.
Sau bốn, năm năm gì đó, lò bành kẹo giải thể. Ông Thủ Trưởng Bùi Tấn Công,
gọi chúng tôi đến gặp rồi nói:- Tụi bây (Phan Tấn Đức (Pháp), Hà văn Cót (Texas ), Thái Quốc Mưu (Atlanta , Georgia .
Xin hiểu đây là cách nói thân thiện của người miền Nam ) muốn về đâu, nói tao biết!
Hà văn Cót, Phan Tấn Đức xin về đội đi rừng hạ cây. Tôi xin về lại nhà bếp
vừa nhẹ nhàng vừa tránh mưa nắng.
Trở lại nhà bếp tù, tôi bị Nguyễn văn Mạnh sắp ở tổ ra rừng vác củi. Nhưng
mỗi khi công an đi săn về thì loa trật tự gọi: - Anh Bảy Lò Kẹo “đem dao lên làm thịt cơ
quan!” Hi!
Do đó, Mạnh quản lý bếp tù, đem tôi vào đốt lửa nấu cơm, việc nầy nóng lắm.
Trần văn Độ xin tôi về tổ nấu ăn, Mạnh không chấp thuận. Nó ghét tôi!
Một hôm ông Thủ Trưởng Tám Công xuống bếp, đi vòng vòng, thấy tôi đang cào
lửa nấu cơm ra, ông đứng lại hỏi: - Sao, dạo nầy gia đình mầy có ai tới thăm không?
Tôi đáp: - Dạ thưa Ban Tám, không!
Ông hỏi cho có hỏi, rồi bỏ đi!
Chụp thời cơ, tôi liền gọi Trần văn Độ lại, nói nhỏ: - Nếu thằng Mạnh, hỏi
Ban Tám nói chuyện gì với ta, thì mi đáp, ổng bảo ta phải coi nấu thức ăn cho
anh em đàng hoàng nha!
Trần văn Độ hiểu ý tôi!
Quả nhiên, Nguyễn văn Mạnh không hỏi tôi mà hỏi Trần văn Độ, Độ theo đúng
lời tôi, thuật lại cho hắn nghe. Nguyễn văn Mạnh hoảng quá, vội đưa tôi sang tổ
nấu ăn. Nguyễn văn Mạnh đúng là thằng ngu chánh hiệu! Nó – thằng Nguyễn Văn
Mạnh, dư thừa run sợ truớc quyền lực nhưng thiếu thốn tình người.
Trần văn Độ “ăn rơ” với tôi, đề nghị với Mạnh: - “Cậu Bảy” ngoài đời là
“đầu bếp” nên để làm tổ trưởng, tớ làm tổ viên.
Nguyễn văn Mạnh đồng ý liền.
Ở nhà bếp thời gian, một trưa buồn quá, tôi nói với Trần Văn Độ: - Mi dám
cởi quần (chúng tôi luôn ở trần), chạy một vòng quanh nhà bếp (Nhà bếp tù rộng
bằng nửa chợ Sàigòn) ta thua mi năm đồng (năm đồng những năm đó còn khá lớn).
Trần văn Độ biết tôi không có tiền, nhưng được dịp giỡn cho vui. Thế là anh
cởi quần cầm tay chạy liền, tôi, Út (Lê văn Út, hiện ở Wesminster, Cali ), và vài anh em nữa
vỗ tay cười ầm lên vì thấy con “chu” của Độ tha hồ quật lên quật xuống. Chạy
giáp một vòng, Độ giơ một tay cao lên, nói lớn, “Tặng các bạn thêm một vòng”,
rồi anh chạy tiếp, lúc nầy con “chu” của Độ thụt đâu mất tiêu.
Ngay khi ấy công an quản giáo Vạn bước tới, thấy Trần văn Độ đang trần
truồng, tay còn cầm quần. Cán bộ Vạn hất mặt, hỏi Độ: - Anh làm gì vậy?
Độ thản nhiên, cười đáp: - Ở lâu quá, hóa điên anh cán bộ ơi!
Tôi thấy mặt cán bộ Vạn có nét cười nhưng y cố nín, làm bộ nghiêm: - Anh
bận quần vô, từ rày không được làm như vậy nữa.”
Nói xong anh ta bỏ đi.
Tôi, Trần văn Độ, Nguyễn Tiến Long (chưa liên lạc được), Lê văn Út cùng làm
tổ nấu ăn, đang vui vẻ. Bỗng một hôm công an Châu, xuống nhà bếp tù gọi tôi,
Trần văn Độ, Lê văn Út đem đồ cá nhân vô biệt giam. Vì khi làm thịt con heo
xong, Út, Độ, lặt mót mở dính ở ruột già heo, dự định thắng ra để cho các người
tù bị ghẻ lở, bọn trật tự kiểm thực tố cáo Độ, Út ăn cắp thịt làm cho tù ăn
Tết. Tôi là tổ trưởng không kiểm soát cũng bị vạ lây. Đôi khi thương người cũng
hại mình!
Trong khi công an Châu đang chú tâm mở khóa nhà biệt giam, Lê Văn Út nói
nhanh, vừa đủ để tôi nghe:
- Anh nói với anh Độ, nếu họ cố ý buộc tội, các anh đừng nhận gì hết, cứ đổ
cho em (Út nhỏ hơn tôi nhiều tuổi), các anh có vợ con lại là Ngụy, (rồi Út gằn
giọng) “NHỚ LÀ NGỤY NGHE HÔN!” có gì phải ở lâu lắm. Em còn độc thân, tù vượt
biên chẳng sao hết, cứ đổ tội cho em.
Thì ra trong cơn khốn cùng mới biết ai là vàng đá. Lòng của Lê văn Út không
chỉ là vàng mà còn là một thứ trân châu vô giá! (Út hiện làm chủ tiệm Nails Tóc
ở Westminster , Cali ).
Vào trong, ba đứa tôi bị xiềng chân bằng còng chữ “U”, mỗi đứa một góc. Chờ
cán bộ Châu ra ngoài, nghe tiếng dây xích kéo khóa cửa xong, tôi nói với Độ:
- Độ ơi, mi nhớ thằng Út làm, cứ để mình nó chịu nha!
Trần văn Độ hiểu ý, liền đáp: - Nó làm nó chịu, chẳng ai dại gì nhận đâu!
Dân Cảnh Sát Quốc Gia thông minh đáo để.
Ban Lãnh Đạo xem tang vật, đúng là mở ruột heo thúi ình, thấy lời tố cáo
của trật tự không đúng. Hôm sau chúng tôi ra còng.
Nhân kể chuyện nầy, tôi nhớ hồi làm lò bánh kẹo, có lần một công an xuống
lân la, tổ trưởng lò kẹo Hà Văn Cót đưa tay chỉ tấm bảng “Cấm Nhân Viên, Cán
Bộ, ...” Người công an giận tím mặt, trở ra, lát sau, dẫn xuống gần hai chục
công an khác. Vừa vào, họ hỏi to: - Thằng Cót đâu?
Cót đáp: - Dạ, tôi đây!
Họ ùa vào, chửi: - Đ. Mẹ, mầy là thằng tù chớ là cái thớ gì mà dám bỉ mặt
anh em tao?
Rồi hùng hổ xấn tới làm như định đánh Hà văn Cót. Tôi biết chắc chắn là họ
chỉ hù thôi (vì trước đó công an Tư Hùng đánh tù nhân bị ông Tám Công đưa vào
trại giam, ở Biên Hòa, còng). Tuy nghĩ như vậy, nhưng tôi cũng sợ họ giận quá,
hóa liều, nên vội vàng đứng trước mặt Hà văn Cót, năn nỉ: - Xin quý anh cán bộ bớt nóng, anh Cót là
người Hoa, không nói rành tiếng Việt (tôi nói như thế để làm lắng dịu tình
hình. Thực tế, Cót chỉ dính dáng với Tàu qua cái họ Hà mà thôi) nên chỉ tay như
vậy chớ ảnh không có ý xúc phạm, xin quý anh rộng lòng bỏ qua!
Một, trong đám ấy, nghe tôi nói vậy liền chụp cơ hội: - Đ. Mẹ, không có anh
Bảy, tụi tao đánh chết mẹ mầy. Mầy liệu giữ hồn đó! Thôi về các đồng chí!
Họ vin vào tôi để “rút lui trong vinh dự”, chớ tôi là thằng tù chớ là cái
chó gì mà họ vị nể tôi. Có điều, trong đám đông ấy, chẳng có người nào mà không
ăn rìa kẹo đậu phộng do tôi lén cho. Sau đó, tôi nói với Hà văn Cót và Phan Tấn
Đức: “Tên Cót nầy muốn làm “anh hùng” nhưng quá ngu!” Đức tiếp, “Đại ngu mới
đúng!” Cót làm thinh, thở dài!
Năm tù thứ Năm, một sáng Hà văn Cót, Phan Tấn Đức và tôi cùng khoảng hai
trăm tù nhân khác nghe loa kêu tên ở lại trại chuẩn bị đồ đạt cá nhân, không
được ra lao động. Chúng tôi âm thầm biết sẽ bị chuyển trại, nhưng chẳng biết đi
đâu? Ai nấy đều hồi hộp, lo lắng! Khi công an kêu tên từng người tù lên xe
chuyển trại thì không có gọi tên tôi. Thế là, tôi “bị” ở lại.
Đến quý hai (mỗi quý ba tháng) năm đó, Ban Lương Thực kiểm tra nhân số tù
thấy nhà bếp tù báo cơm dư một tên. Họ cho đánh kẻng tổng điểm danh, tất cả tù
ra sân điểm sắp hàng theo “C”. Cán bộ văn phòng cầm giấy gọi tên từng người,
thay vì ngồi tại chỗ và chỉ giơ tay cao lên, đáp to, “Có!”. Nhưng hôm ấy họ bắt
rời hàng, đi qua sắp hàng bên ngoài. Kêu xong hết, chỉ có mình tôi ngồi lại.
Công an văn phòng gọi tôi lên, hỏi: - Anh được đưa ra Bắc rồi, sao còn ở đây?
Tôi đáp: - Thưa cán bộ, tôi không biết!
Lục lạo một hồi, anh ta đưa ra một danh sách, nói:
- Nè! nè, anh thấy tên anh bôi trong danh sách nầy không?
- Dạ thưa tôi thấy, nhưng tôi không biết gì hết!
Thế là gần ba tháng “ăn nhờ, ở lậu” trại Bàu Lâm mà cán bộ và tôi đều chẳng
biết. Giả sử, trong thời gian đó tôi trốn thoát khỏi trại, họ cũng đinh ninh
tôi đang ở một trại nào đó ngoài miền Bắc. “Ở hiền, gặp lành”. Người xưa nói
chẳng sai!
Trong bếp tù có anh Nguyễn văn Bông làm tổ củi, bị bắt về tội chôn giấu 6
cây súng Garand M1. Cứ vài tháng vợ anh từ miền Tây đến thăm một lần, mỗi lần
cho anh một nải chuối xiêm. Chị Bông thăm chồng chỉ để nhìn mặt và để biết anh
còn sống hay chết, chớ nghèo lắm, chạy đủ tiền đi xe thăm chồng là may lắm rồi!
Ở nhà bếp, tôi với Trần văn Độ ăn chung, mỗi lần vợ Độ đến thăm nuôi, cho
anh một ký gạo. Với ký gạo vợ cho, mỗi lần lãnh khoai mì, Trần văn Độ bào thành
sợi và nắm chặt nắm gạo lại rồi giũ mạnh cho hột nào còn dính kẽ tay rơi xuống
để ... dành lại lần ăn sau.
Chúng tôi sống chung trại gần tám năm. Tết năm ấy, Trần văn Độ và tôi được
gọi tên trả tự do. Nhưng khi kêu tên chuẩn bị đồ đạc cá nhân ra về thì không có
gọi tên hai đứa tôi. Chúng tôi ngơ ngác, lo buồn nhìn nhau lo lắng mất ăn, mất
ngủ.
Đến ngày 30 tháng 4 năm ấy, chúng tôi được gọi lên “làm thịt cơ quan”. Chị
Thu bếp trưởng cơ quan nói, hai anh đừng buồn, vài ngày nữa hai anh được về.
Ban Lãnh Đạo giữ hai anh lại là để hôm nay nấu chiêu đãi Ban Lãnh Đạo Tỉnh.
Trời! Thì ra “gậy ông đập lưng ông”, cái “danh đầu bếp nhà hàng Đại La
Thiên” (Trần văn Độ gọi châm biếm tôi “Đầu bếp nhà hàng Đại La HIÊN”) của tôi
và tài nấu ăn ngon của Trần văn Độ đã giúp chúng tôi được no bụng trong tù
nhưng, đã hại chúng tôi ngày ra tù.
Bữa đó, khi làm thịt heo, Trần văn Độ thọc tiết, tôi có trách nhiệm quậy
tiết cho không đặc để Độ làm tiết canh. Con heo bữa đó chết, lưỡi nó thè ra,
hai hàm răng cắn chặt cái lưỡi. Trần văn Độ bủn rủn buông dao xuống đất, giọng
muốn khóc:
- Thôi cậu Bảy về, tớ chẳng được về đâu!
Tôi hỏi mãi, Trần văn Độ tiết lộ, khi hạ thịt mà con heo cắn lưỡi chết như
vầy xui lắm! Kinh nghiệm nghề nghiệp báo cho Độ biết trước một điềm không may
rất chính xác! Mãi đến sau ngày 2 tháng 9 năm ấy Trần văn Độ mới được ra về.
(Xin mở ngoặc nói thêm. “Trước đó một thời gian, Độ kể với tôi, “Hồi đêm qua,
đang ngủ ta mơ thấy một con heo về gọi ta dậy rồi nói, “Tôi với ông không có
thù oán gì sao ông lại giết tôi? Dù là người Công Giáo dòng, nhưng từ đó, mỗi
lần giết heo Độ đều khấn vái, “Chúng tôi là kẻ tội tù, chỉ làm theo lệnh người
ta, xin đừng thù hận chúng tôi.” Bây giờ, khi phone nhau, Độ nói, “nhớ lại giấc
mơ hôm ấy, tớ còn lạnh xương sống.”)
Xế chiều mấy hôm sau, loa kêu Thái Quốc Mưu, Nguyễn văn Mão, (bán Căn-tin,
tù về tội huấn luyện viên Người Nhái. Hiện ở Arkansas), chuẩn bị đồ cá nhân ra
trại. Tôi, Trần văn Độ nhìn nhau rơi nước mắt. Tôi rất thương anh!
Khi Nguyễn văn Mão với tôi ra khỏi cổng rào, tiến đến văn phòng trại lấy
giấy trả tự do, các công an có mặt ở đó đều nói với chúng tôi, “Hai anh về mạnh
giỏi, nhớ đừng có nhận thư từ của ai đem về nha!” Họ nói lấy lệ, nhưng không ai
xét đồ cá nhân chúng tôi. Vì tôi, anh Nguyễn văn Mão có thời gian dài lao động
gần gũi với họ hằng ngày nên ít nhiều cũng có cảm tình.
Chúng tôi thả bộ trên đường đất đỏ dài hơn chục cây số, giữa đường gặp
người đánh xe bò, họ bảo lên xe quá giang, khi tới Ngả Ba Bà Tô trời tối, anh
Mão đón xe đi về nhà thân nhân ở Bà Rịa. Một bác tài xe lam, thấy tôi đứng xớ
rớ liền hỏi: - Anh về đâu?
Tôi thành thật trả lời. Bác tài nói: - Giờ nầy không còn xe đi Ngã Ba Vũng Tàu
nữa, anh có quen ai ở Long Điền không?
Tôi đáp: - Tôi có anh bạn mới ra trại hôm Tết, ảnh nói đến An Nhứt hỏi Tư Khỏe Re
(Bùi văn Tư – hiện ở Westminster, Cali) ai cũng biết.
Bác tài mừng ra mặt: - Tôi biết Tư Khỏe Re, chờ chút tôi kiếm vài người
(khách) rồi tôi chở anh tới đó!
Tôi ngần ngại: - Thú thật anh, tôi không có tiền!
Bác tài khoác tay lia lịa: - Biết mà, biết mà! Đừng lo, đừng lo gì hết! Anh
mới ra tù làm gì có tiền.
Khi xe đến An Nhứt, ông tài xế cho xe đậu trước quán bánh hỏi thịt quay rồi
nói:
- Anh vô đi, quán nầy của vợ “Tư Khỏe Re”.
Tôi vào, chị Tư Khỏe Re thấy tôi biết là tù mới ra, không cần hỏi, chị nói
liền:
- Anh chờ một chút để tôi biểu mấy đứa nhỏ dẫn anh vô nhà!
Người dân thời đó, rất thương tù cải tạo.
Tối đó, tôi được đãi bánh hỏi thịt quay và ngủ tại nhà anh Bùi văn Tư. Khi
ăn, tôi bạo miệng, nói: - Tôi ghé anh xin chút đỉnh tiền về xe.
Bùi Văn Tư hăm hở: - Khỏe re, anh đừng lo gì hết!
Mọi người gọi Bùi văn Tư là Tư Khỏe Re, chỉ vì anh có “tật”, trước mỗi câu
anh nói đều dùng hai tiếng “Khỏe re” rồi sau mới tiếp tục. Thời quân ngũ, anh
chơi bài thua sặc máu, vậy mà có ai hỏi thắng bại, anh vẫn, “Khỏe re, đứt hết
tháng lương!”
Sáng hôm sau, Bùi văn Tư dẫn tôi ra quán uống café, trên đường, anh nhét
vào túi tôi năm chục đồng (thời đó, số tiền nầy khá lớn). Xong cử café, anh dẫn
về quán của anh đãi tôi thêm lần bánh hỏi heo quay. Tôi chưa kịp nói lời chia
tay, thì Tư Khỏe Re giúp tôi đón xe đi Ngã Ba Vũng Tàu, chờ xe chạy anh mới trở
vô nhà. Đến Ngã Ba Vũng Tàu, tôi đón xe ngược về Long Khánh.
Thuở ấy, xe chạy bằng than củi, bụi mù trời, ngồi gần bình chứa than nóng
rát da. Trên xe về Long Khánh, tôi hỏi giá tiền, cháu lơ xe nói:
- Chú mới ra tù, chủ dặn không được lấy tiền xe.
Thấy đầu băng giữa còn trống, tôi ghé mông ngồi tạm. Lát sau, xe đậu rước
thêm khách, tôi vội vàng ngồi xuống sàn xe, lơ xe không cho, nói:
- Chú cứ ngồi đi, họ lên sau thì họ đeo!
Thì ra, ở bất cứ nơi nào cũng có những tấm lòng cao quý!
Tôi về đến nhà, thấy 6 đứa con nheo nhóc, sống trong cái chòi không nóc,
không vách bếp núc lạnh tanh, tôi vừa khóc, vừa quỵ xuống dựa cột nhà.
* *
*
Sang Mỹ, năm ấy đang đau nặng, nằm trên giường bệnh, tôi kiểm điểm lại đời
mình xem còn thọ ơn ai mà chưa trả. Kiểm đi, kiểm lại nhiều lần, chợt nhớ ra
còn công an Võ thị Tím từng lén lút nuôi tôi trong tù, gọi về Việt Nam, tôi bảo
con tôi đến trại tù Bàu Lâm tìm Võ thị Tím. Mấy ngày sau, nó trả lời, “Trại Bàu
Lâm giải thể lâu rồi Ba!”
Tôi lại bảo, các con cố gắng đi dò hỏi xem có ai từng làm công an hồi hưu
mà gia đình còn ở đó, hỏi thì biết ngay. May! nó vào ngay nhà con của Thủ
Trưởng Bùi Tấn Công, thế là ra đầu mối, liền xin số phone Võ thị Tím.
Tôi gọi về Võ thị Tím, nàng mừng rơn, nói liền một loạt: - Anh là anh Bảy Lò Kẹo phải không? Anh ở
đâu, em chờ anh hăm mấy năm nay rồi anh biết không? Sao anh không tìm em?
Tôi quen ngôn ngữ trong tù, nói: - Dạ thưa, chị Năm khỏe không? Hiện giờ
chị làm gì, ở đâu, cho tôi xin địa chỉ.
- Khoan nói chuyện đó hả, anh cho em biết anh ở đâu, khỏe không? Anh làm
gì? Anh biết Dượng Năm (Thủ Trưởng Bùi Tấn Công) với chị Thu chết rồi hôn? Giờ
nầy mà còn gọi em bằng chị Năm nữa...
Nàng tía lia một loạt câu hỏi. Không thèm nghe tôi trả lời.
Cuối cùng, tôi cho nàng biết tôi gọi xin địa chỉ nàng để gởi tặng nàng chút
quà. Tôi dự định sẽ tặng nàng ít tiền để tạ ơn, người mà khi còn trong tù tôi
vẫn thường bảo với Hà văn Cót và Phan
Tấn Đức, “Chẳng biết con Tím là con nhà ai mà đạo đức quá, thấy mình “mồ côi
vợ” cho đồ ăn hoài!”
Nghe tôi gởi quà tặng, Tím giãy nảy: - Không! Em không cần gì hết, em chỉ cần anh,
anh không biết em yêu anh sao? Em chờ anh mấy chục năm nay rồi! Nếu không yêu
anh làm sao em lo nuôi anh, anh phải biết cán bộ, công an quan hệ với tù cũng
bị còng rồi bị sa thải chớ...
Tôi nói: - Chị Năm ơi, xin chị đừng nói đùa, tôi đã già, ngoài sáu chục rồi chị ơi!
Nàng quả quyết: - Em chẳng cần biết già trẻ gì hết, em chỉ nói yêu anh, anh phải về với em,
dù gặp một lần, rồi chết em cũng chịu!
Đúng là “Đồ điên!”
Năm 2005, tôi về nước gặp Võ thị Tím, lúc đó nàng 44 tuổi. Hỏi ra mới biết,
nàng đã âm thầm yêu tôi khi tôi đang trong tù, lúc ấy nàng mới mười bảy cái xuân
xanh (thật quỷ quái), còn tôi ngoài bốn chục. Gặp nhau chúng tôi mừng mừng tủi
tủi, song chẳng chút ngại ngần. Đêm ấy, nằm bên nhau, chúng nhắc lại những ngày
trong tù, nàng hết lòng lo lắng giúp đỡ tôi và rồi tôi cũng… không quên “phở
nóng làm liền bảy, tám tô”. Thời gian đó, nàng là Bác sĩ Trưởng Phòng Y Tế
Trung Tâm Điện Lực Bình Phú, TP/HCM. Hiện nay ở Bỉ Quốc.
* *
*
Tôi kể những điều sau đây, có thể một số vị nguyên là tù cải tạo không bằng
lòng, nhưng là sự thật 100%. Trại tù Bàu Lâm, may mắn đặt dưới sự điều hành bởi
một Ban Lãnh Đạo trại giàu tính nhân bản và lòng đạo đức,... Vốn dân Nam Kỳ Lục
Tỉnh, nên bản chất họ thật thà chất phác…
Các ông, Tám Công, Tám Đức, Mười Cao, Sáu Minh, Ba Minh, Ba Cương..., thật
sự hiền lành. Họ là những người cộng sản hiếm hoi giàu lòng đạo đức. còn sót
lại… Họ không đánh mất nhân tính, và hoàn toàn khác xa rất nhiều tên khác.
Chẳng hạn như Nguyễn Ninh (Tư Ninh), Sơn Thượng... là những kẻ ác ôn từ trại
Long Thành chuyển đến. Những anh em từng ở trại tù Bàu Lâm đều biết rõ, và,
nhiều người cũng cùng nhận định như tôi.
Nhắc tới Ba Minh tôi chợt nhớ, có lần tôi cùng Độ làm thịt thú ở nhà ông,
khi chúng tôi ra về, ông ta đang ngồi nhậu, kêu tôi lại rồi đưa ly rượu ép tôi
uống, tôi từ chối. Ông nói, “Mấy người kia cầu có rượu để uống, còn “cha” biểu
uống khó khăn quá! Uống đi!”
Tôi nể sợ nhấp môi, ông nói, “cha” uống rồi ai uống? Uống hết đi!” Uống
xong, ra tới cửa tôi ói liền. Vợ ông la, “người ta không biết uống ông bắt uống
làm chi!” Chị đến bên tôi hỏi, “Anh Bảy có sao không?” Tôi lắc đầu, nước mắt
dầm dề, đứng lên đi xiểng niểng.
Một lần, tôi bệnh rất nặng, bệnh xá tù chỉ cho uống Xuyên Tâm Liên và ba
thứ lá cây rừng. Một hôm, chị Ba Cương gặp tôi thấy vậy, chị trở về lấy và lén
cho tôi mấy viên thuốc rồi nói: “Anh Bảy uống hai lần, nhớ đừng cho ai biết”.
Nhờ vậy tôi hết bệnh. Chị làm y tá trại, là vợ ông Ba Cương, người chỉ huy trực
tiếp tất cả công an trong tù.
Với Tư Ninh, chính mắt tôi thấy, một chiều sắp tối, y bảo mấy em tù xã hội
muốn tổ chức trốn trại, trèo lên rào cho y xem, trong khi tay hắn lăm le khẩu
Carbine. May, các em không trèo, nếu các em trèo, nó sẽ bắn với chứng cớ rành
rành các em đang vượt trại!
Bất cứ trong chế độ nào cũng có người tốt kẻ xấu, người hiền, kẻ ác. Tôi
không thể xếp họ “cá mè một lứa”. Khi biết tin ông Bùi Tấn Công chết - dù ông
là người cộng sản, nhưng tôi không thể chẳng ngậm ngùi thương cảm, nuối tiếc.
Khi con tôi gọi qua Mỹ cho biết, nó đi Bàu Lâm tìm Võ thị Tím vô tình vào
ngay nhà con ông Thủ trưởng Bùi Tấn Công, tôi bảo con tôi, “Con đặt một con heo
quay đem đến nhà ông Tám rồi xin bà Tám ra cúng tại phần mộ ông Tám và thay mặt
ba lạy tạ để nhớ ơn lòng nhân đức của ông đã dành cho ba và anh em cùng tù với
ba trong trại tù Bàu Lâm.”
Tôi nghĩ, phải chi tất cả những người cộng sản Việt Nam để có lòng nhân hậu
như ông Bùi Tấn Công, như quý vị trong Ban Lãnh Đại trại tù Bàu Lâm có lẽ giờ
đây, nhưng kẻ từng bị cải tạo, đang sống ở Mỹ có thể chẳng ai thù oán chế độ
hiện hữu làm gì?
Sau nầy tôi được biết, nhiều anh em bạn tù định cư ở California khi về nước, rất nhiều người đến
viếng mộ phần của ông. Thì ra, đạo đức không có giới ranh! Nếu Tư Ninh làm thủ
trưởng trại, có lẽ chúng tôi ít người còn sống trở về với gia đình.
Trong kỳ Đại Hội Thi Ca Quốc Tế ở California .
Tôi mua một bàn, dành hội ngộ với anh em bạn tù. Dịp đó, Trần Đình Nhung, sĩ
quan huấn luyện viên trường Đại Học Chiến Tranh Chánh Trị, Đà Lạt (hiện ở Santa
Ana, Cali) vừa cười, vừa nhắc: - Ở trong tù, ta chẳng thấy ai khôn như cậu Bảy.
Tôi đáp: - Mi phải nói ta quá “ma
lanh” mới đúng!
(Các bạn ơi! Tôi viết lại những kỷ
niệm nầy để nhớ lại thời gian chúng ta cùng chung đau khổ, và để nhớ nhau luôn!
Thời ấy, chúng ta còn trẻ. Nhung, Út, Hà (ở Westminster ,
Cali ) đẹp như
các cậu sinh viên.
Đời người như cơn song xô, lớp sau đùa lớp trước... Thoắt cái bây giờ chúng
ta đã thành Cụ hết rồi các bạn ơi!)
Nếu ai hỏi, chuyện như vậy có gì liên quan gì đến “Đệ Nhất Phu Nhân” hả ta?
Xin thưa như vầy.
Mấy tháng sau tôi về nước, đóng đô ở nhà nàng Tím. Một buổi trưa, người làm
của nàng chạy lên lầu báo cho tôi biết, có người đến tìm.
Tôi cùng Tím vội xuống lầu. Vừa bước ra sân, tôi thấy bà chị của vợ tôi
(bây giờ), dẫn theo một đám “lâu la”, đứa nào đứa nấy mặt mũi như “các tay anh
chị Bình Xuyên” thuở trước. Tôi không ngạc nhiên và nghĩ ngay “có tình báo nhân
dân tố giác”. Bỗng, có người từ phía sau lưng nắm chặt tay tôi, mừng rỡ nói
lớn:
- Tôi tìm được chồng tôi rồi bà con ơi! - Rồi
quay sang đám “lâu la” nàng ra lệnh:
- Về! Về hết ngay! Tao cấm không đứa nào được đụng đậy gì người ta hết nha!
Về! Về hết đi!
Trong khi nàng Tím lẫn vào trong, còn đám lâu la thì tiu nguỷu. Chị vợ tôi
“trổ tài ghen phụ”. Bà nổ lực phân bua với “quan khách” đang vây quanh: - Bà con coi ai chịu nổi hông? Ở Mỹ, nó gọi
về, biểu tôi cho mấy đứa nhỏ đi rình rập cả mấy tuần nay, giờ về bắt gặp tại
trận vậy mà nó không cho đụng đến con ngựa nầy! Bà con coi có tức hộc máu hông?
Rồi chị ngoe nguẩy, ra lệnh đám lâu la: - Thôi về tụi bây! Để đó mặc nó lo…
* *
*
Sau khi trở qua Mỹ, chẳng biết vì sao, câu chuyện tình ái lăng nhăng giữa
tôi cùng Bác sĩ Tím đến tai vài người. Một hôm, có bà bạn của vợ tôi đến nhà
chơi, với mục đích “khai thác thêm để cho xăng đốt nhà”.
Bà ta mở màn bằng cách hết sức ca tụng ông chồng của bà rằng thì là “… từ
khi lấy nhau đến giờ tụi tôi có bảy, tám mặt con mà ông nhà tôi chưa hề lén
phén với con nào. Nhờ vậy tôi chẳng biết ghen tương ra làm sao! Còn ông của bà
như vậy sao mà bà chịu nổi. Thiệt! tôi phục bà sát đất!”
Nghe bà ta nói, tôi nóng mặt, muốn tống cho bà ta một đá dính vô tường
luôn. May, ngay khi đó, vợ tôi cười, nói: - Cám ơn chị chia sẻ, thôi cứ cho là mỗi
người có một số phần. Nhưng tôi nói thật với chị, thà là tôi ghen, chứ hạng đàn
ông chỉ biết cơm nhà gạo vợ, quăng ra đường chó chẳng thèm tha, không bà nào
thèm ngó tới như ông chồng của chị, thì thứ củi mục đó cho tôi… chùi đít, tôi
cũng không thèm!
Bà bạn vợ tôi nghe vậy, trợn hai con mắt tóe lửa, trừng trừng nhìn vợ tôi
lom lom, rồi vụt đứng phắt dậy cái vụt, nguýt một cái dài, phủi đít cái rột, đi
te te ra cửa.
Tôi quá bất ngờ, vội đứng thẳng người lên, nhập hai chân cái rụp, giơ tay
lên chào đúng theo quân cách: - Đây chính là Đệ Nhất Phu Nhân! Xin chào!
Vợ tôi cười, nói: - Bộ em nói hổng phải sao? Thứ đàn ông ra đường mà chẳng con mẹ nào thèm
ngó tới, thì thứ đàn ông đó hãy vứt đi! Vì vậy, nên em thà chấp nhận mình ghen…
Tôi cười khoái trá, chọc nàng: - Đúng rồi! Thà chấp nhận ghen để em có được ông chồng
vừa “đẹp trai”, vừa “tài ba lỗi lạc” ra đường được quý bà, quý cô săn đón như
anh. Phải hôn nè?
Vợ tôi khẽ liếc nhìn tôi, nàng cười bằng đôi mắt tình tứ, tiếp: - Cứ tạm thời như anh nói đi! Mà nói là nói
vậy! Chớ cái gì cũng vừa phải thôi! Thỉnh thoảng thèm “phở” anh cứ tự nhiên…
Nhưng đừng quá trớn, có đi đâu thì nhớ “ăn cơm nhà cho no bụng” rồi hãy đi. Nếu
anh cứ quên không “ăn cơm nhà” thì có thể nó sẽ
trở thành “phở” của người khác lắm! Biết hô..ô…ôn?
Nghe vợ tôi kết luận. Tôi dang hai cánh tay thẳng ra, kêu lớn: - Trời!
Cuối cùng xin hỏi: - Trên trên đời nầy, có người đàn bà nào bay nửa vòng trái đất về nước bắt
ghen, đến khi gặp tình địch rồi, mà hành xử như vợ tôi không? Và, có người phụ
nữ nào dám nói “thà ghen chứ chã thèm loại đàn ông chỉ là thứ củi mục…” như vợ
tôi không?
Chắc chắn là không? - Vậy, tôi tặng danh hiệu Đệ Nhất Phu Nhân cho vợ tôi
có quá đáng không? Và, cái danh hiệu Đệ Nhất Phu Nhân kiểu nầy, ngoài vợ tôi,
cả thế gian không thể có người phụ nữ thứ hai nào khác! Đúng không?
*
THÁI QUỐC MƯU
(Nguyên chủ nhiệm, chủ bút tạp chí Kiến Thức
Phổ Thông Dân Việt Atlanta, GA, USA.)
Địa chỉ: 6395 GlenBrook Dr.
Tucker , GA 30084, USA - Hoa Kỳ.
Email: danviet1995@aol.com
.
…………………………………………………………………………
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 02.02.2017
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại..
0 comments:
Đăng nhận xét