(Nguồn ảnh: internet) |
DIỄN TIẾN TƯ TƯỞNG
PHAN CHÂU TRINH
(Tác giả Trần Gia Phụng) |
Chữ “tư tưởng” có
hai nghĩa; 1) Nghĩa rộng là hệ thống suy tư về những vấn đề trọng đại có
tính thuần lý, nhằm hướng dẫn con người theo một đường lối nào đó, ví dụ tư
tưởng Phật giáo, tư tưởng Thiên Chúa giáo… 2) Nghĩa hẹp là sự
suy nghĩ hay ý kiến của một người về các vấn đề thông thường trong cuộc
sống. Sự suy nghĩ nầy sẽ hướng dẫn người đó hành động nhằm thực hiện
các ý định của mình. Phan Châu Trinh là một nhà hoạt động hơn là một nhà
lý thuyết, nên ở đây, xin trình bày diễn tiến tư tưởng Phan Châu Trinh theo
nghĩa thứ hai.
Đầu tiên, Phan Châu
Trinh hấp thụ tư tưởng Cần vương ngay khi còn niên thiếu. Nguyên vào năm
1885, vua Hàm Nghi rời Huế, mở cuộc Cần vương chống Pháp. Phụ thân của Phan
Châu Trinh là Phan Văn Bình, người huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, gia nhập nghĩa
quân Cần vương do Nguyễn Duy Hiệu tức Hường Hiệu chỉ huy ở Quảng
Nam. Ông Bình phụ trách vận lương ở đồn điền A Bá, đem theo Phan
Châu Trinh mới 13 tuổi, lên chiến khu, luyện tập võ nghệ để gia nhập Cần
vương. Năm 1887, Nguyễn Thân đem quân đánh Tam Kỳ. Ông
Hường Hiệu nghi ngờ những người gốc Tam Kỳ làm phản, ra lệnh giết ông
Bình. Lúc đó, Phan Châu Trinh 15 tuổi, về sống với người anh Cả,
theo Nho học trở lại.
2.- NỀN TẢNG
NHO GIÁO:
Dùi mài kinh sử hơn
10 năm, Phan Châu Trinh (28 tuổi) đỗ cử nhân tại trường thi Thừa Thiên năm 1900
và đỗ phó bảng năm 1901. Vì người anh Cả từ trần, Phan Châu Trinh ở
nhà chịu tang 2 năm, rồi ra Huế năm 1903, giữ chức thừa biện bộ Lễ. Thừa
biện là một chức sự nhỏ khởi đầu sự nghiệp quan lại ở triều đình, chuẩn bị để
được phân phối phụ trách những chức vụ quan trọng hơn. Khi học hành
theo Tứ thư, Ngũ kinh, rồi đỗ đạt và ra làm quan, chắc chắn Phan Châu
Trinh là một người thấm nhuần tư tưởng Nho giáo.
3.- TƯ
TƯỞNG DUY TÂN:
Khi ra Huế làm
quan, Phan Châu Trinh tiếp xúc với học giới cấp tiến. Nhờ vậy, Phan Châu Trinh
đọc được bài “Thiên hạ đại thế luận” của Nguyễn Lộ Trach (1843-1898), người
làng Kế Môn, tỉnh Thừa Thiên. Ông Trạch học giỏi nhưng
không thích thi cử, nhiều lần viết điều trần lên vua Tự Đức, đề nghị
canh tân đất nước, nhưng không được vua chấp nhận. Nhân đề tài kỳ
thi đình tại Huế năm 1892, Nguyễn Lộ Trạch viết bài “Thiên hạ đại thế luận”.
(Luận bàn chuyện đại thế trong thiên hạ)
Trong bài nầy,
Nguyễn Lộ Trạch trình bày tình hình suy thoái của Trung Hoa, sự tiến bộ và phát
triển của Nhật Bản, sự chậm tiến và yếu kém của Việt Nam , và ông đưa ra những đề nghị
chỉnh đốn giáo dục, chấn hưng nông nghiệp, công nghệ, thương mại, truyền bá
khoa học kỹ thuật Âu tây. Một lần nữa, kế sách nầy không được triều đình xét
đến. Mãi cho đến khi Nguyễn Lộ Trạch qua đời năm 1898, thì tác phẩm
của ông mới được giới sĩ phu đầu thế kỷ 20 chú ý và nghiên cứu.
Ngoài Nguyễn Lộ
Thạch, Phan Châu Trinh còn đọc nhiều sách mà đương thời gọi là “tân thư” (sách
mới) của các tác giả Trung Hoa là Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, và của các tác
giả Tây phương được dịch qua chữ Hán và du nhập vào Việt Nam như Montesquieu,
Rousseau, Voltaire, Diderot ...
Nhận thấy duy tân
là sinh lộ có thể cứu nước, Phan Châu Trinh từ quan năm 1904, bắt đầu dấn thân
vào con đường duy tân. Lúc đó, làm quan là cánh cửa công danh phú
quý cho các nhà khoa bảng, nhiều người ước mơ. Thế mà Phan Châu
Trinh dứt khoát từ quan, dấn thân tranh đấu vô vị lợi, chứng tỏ tấm lòng yêu
nước thiết tha tiềm ẩn trong tâm tư Phan Châu Trinh từ những ngày đầu lập
thân. Phải nói đây là một quyết định quan trọng ảnh hưởng đến cả một
đời người. Như thế, từ tư tưởng Nho giáo, Phan Châu Trinh chuyển qua
tư tưởng duy tân.
Phan Châu Trinh trở
về Quảng Nam, và cùng một số thân hữu như Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Lê Bá
Trinh, Phan Thúc Duyện... mở cuộc vận động duy tân. Các ông không
đặt tên cho phong trào của mình. Về sau sử sách gọi đây là Phong trào
duy tân. Các ông không trình lên triều đình Huế chương trình duy
tân, mà các ông tự đứng ra vận động duy tân trực tiếp với dân chúng về nhiều
mặt.
Chủ trương duy tân
của các ông bao trùm ba lãnh vực: “Khai
dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Xin chú ý “khai dân trí”
không phải chỉ mở mang hiểu biết của dân chúng giáo dục, kỹ thuật, khoa học, y
tế, kinh tế…, mà còn mở mang hiểu biết về chính trị, về dân quyền, về dân chủ. Chấn
dân khí là nâng cao tinh thần dân chúng, và hậu dân sinh là phát triển đời sống
dân chúng (dân sinh) được trọng hậu, sung túc.
Để nâng cao dân
trí, Phong trào duy tân kêu gọi bỏ chữ Nho (chữ Hán), bỏ lối thi cử từ chương
cổ điển, chuyển qua dùng Quốc ngữ, vì Quốc ngữ dễ học, dễ viết, dễ nhớ, dễ phổ
biến và có thể dùng làm phương tiện để phát triển đất nước. Phong trào duy
tân Quảng Nam
lập được khoảng 40 lớp, dạy Quốc ngữ tại các huyện trong tỉnh nhà. (Theo lời kể
của bà Phan Thị Liên, con gái đầu của Phan Châu Trinh cho người viết tại Đà
Nẵng vào cuối thập niên 60. Bà Liên khi nhỏ là học sinh của một
trong những trường nầy.)
Chẳng những ở Quảng
Nam, năm 1905 các ông còn đi vận động duy tân ở các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định,
Bình Thuận. Tại Bình Định, các ông dùng tên chung là Đào Mộng Giác,
viết các bài thơ “Chí thành thông
thánh thi” (Phan Châu Trinh) và bài phú “Danh sơn lương ngọc phú” (Huỳnh Thúc Kháng và Trần Quý
Cáp), đả kích lối học từ chương, thức tỉnh đồng bào, kêu gọi lòng yêu nước của
sĩ phu. Bài thơ “Chí thành…” của Phan Châu Trinh có những câu hô hào
rất hùng hồn: “…Vạn dân nô lệ cường quyền
hạ / Bát cổ thi văn túy mộng trung / Trường thử bách niên cam thóa mạ / Bất tri
hà nhựt xuất lao lung…”. (Vạn dân làm tôi tớ dưới ách cường quyền / Mà vẫn
say sưa trong giấc văn chương tám câu / Suốt cả trăm năm bị người mắng nhiếc /
Không biết ngày nào ra khỏi tù ngục…) Tại Bình Thuận, Phan Châu
Trinh khuyến khích các nhân sĩ địa phương lập công ty thương mại Liên Thành và
mở trường Dục Thanh dạy quốc ngữ.
Sau phương Nam thì đến
phương Bắc. Năm 1906 Phan Châu Trinh đến Hà Nội, giúp các nhân sĩ Hà
Nội lập Đông Kinh Nghĩa Thục. Phan Châu Trinh còn đi diễn thuyết ở
một số tỉnh gần Hà Nội để kêu gọi duy tân.
4.- TƯ
TƯỞNG DÂN QUYỀN:
Nhân chuyến ra Hà
Nội năm 1906, Phan Châu Trinh tiếp tục qua Nhật Bản quan sát vì lúc đó, Nhật
Bản rất nổi tiếng sau cuộc canh tân của Minh Trị Thiên Hoàng. Trên
đường đi, tại Quảng Châu (Trung Hoa), Phan Châu Trinh gặp Phan Bội Châu, và cả
hai cùng qua Nhật Bản. Từ Nhật Bản trở về, Phan Châu Trinh khẳng định với Phan
Bội Châu: "Chỉ nên đề xướng dân
quyền, dân đã biết có quyền thì việc khác có thể tính lần được." (Phan
Bội Châu, Tự phán hay Phan Bội Châu niên biểu, đăng trong
sách Phan Bội Châu toàn tập, tập 6, Chương Thâu sưu tầm, Huế: Nxb. Thuận
Hóa, 1990, tr. 116.)
Kết quả cuộc “đề
xướng dân quyền” nổi bật nhứt là các cuộc biểu tình rầm rộ, xin hạ thuế, giảm
xâu của dân chúng các tỉnh miền Trung, từ tháng 3 đến tháng 6 năm
1908. Phan Châu Trinh không tổ chức các cuộc biểu tình nầy, nhưng
những bài viết và hô hào của Phan Châu Trinh ảnh hưởng mạnh mẽ đến quần chúng,
nhứt là quần chúng Quảng Nam, đã đưa đến các cuộc biểu tình nầy.
Biểu tình bùng nổ
đầu tiên ở Quảng Nam
ngày 11-3-1908. Pháp bắt liền Phan Châu Trinh đang ở Hà Nội ngày
31-3. Lúc đó, Louis Bonhoure (quyền toàn quyền Đông Dương từ
28-2-1908 đến 23-9-1908) cho rằng thơ văn Phan Châu Trinh, tuy không tỏ ra bạo
động như Phan Bội Châu, nhưng nguy hiểm hơn Phan Bội Châu cho sự thống trị của
người Pháp. (Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối cùng nhà Nguyễn tập 2, Houston : Nxb. Văn Hóa,
2000, tt. 618-619.) Ngoài ra, Pháp còn bắt các nhà vận động duy tân
khác trên toàn quốc như Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Thúc Duyện, Lương
Văn Can, Nguyễn Quyền …
Nhờ Hội Nhân Quyền
Pháp can thiệp, Phan Châu Trinh không bị tử hình như Trần Quý Cáp, mà bị đầy đi
Côn Lôn (Côn Đảo), và bị đưa về an trí ở Mỹ Tho giữa năm 1910. Theo yêu
cầu của Phan Châu Trinh, Pháp cho ông cùng với con trai là Phan Châu Dật rời
Sài Gòn qua Pháp ngày 1-4-1911. (Lê Thị Kinh, Phan Châu Trinh qua
những tài liẹu mới, Nxb. Đà Nẵng, tt. 205-2012.)
5.- TƯ
TƯỞNG DÂN CHỦ:
Nước Nhật tuy tiến
bộ, nhưng là nước quân chủ, nên Phan Châu Trinh chỉ học được “dân
quyền”. Qua Pháp, tiếp xúc với văn hóa Pháp, cái nôi của cách mạng
1789, Phan Châu Trinh tiến thêm một bước nữa, tiếp thu tư tưởng dân
chủ. Do quan niệm dân chủ, Phan Châu Trinh mạnh dạn gởi thư “Thất điều” ngày 15-7-1922, kể bảy
tội của vua Khải Định (trị vì 1917-1925) nhân dịp nhà vua sang Pháp tham dự
cuộc đấu xảo (triển lãm) quốc tế tại Marseille. Bảy điều đó
là: “Tôn bậy quân quyền, lạm
hành thưởng phạt, thích chuộng sự quỳ lỵ, xa xĩ quá độ, ăn bận không phải lối,
tội chơi bời, chuyến đi tây có sự ám muội.” Thư nầy được báo chí
Pháp dịch đăng ở Paris ,
gây một tiếng vang lớn trong dư luận thời đó.
Khi Phan Châu Trinh
từ Pháp về Sài Gòn tháng 6-1925, thì ông được tin vua Khải Định từ trần ngày
6-11-1925 ở Huế. Phan Châu Trinh liền gởi điện tín cho khâm sứ Pháp
tại Trung Kỳ, đề nghị đình chỉ việc tôn lập vua mới và lập Hội đồng nhân sĩ bàn
việc cải cách quốc gia. (Nguyễn Văn Dương, Tuyển tập Phan Châu Trinh,
Nxb. Đà Nẵng, 1995, tr. 53.)
Trong tháng
11-1925, Phan Châu Trinh diễn thuyết hai lần tại Nhà Hội Thanh Niên ở Sài Gòn:
Ngày 19-11 về đề tài “Đạo Đức và luân lý đông tây”; lần thứ hai ngày 27-11-1925
về đề tài “Quân trị chủ nghĩa và dân
trị chủ nghĩa”. Trong bài thứ hai, Phan Châu Trinh cho rằng
quân chủ là một chế độ có tính cách “nhân trị”, nghĩa là việc cai trị dựa trên
ý kiến chủ quan cá nhân của nhà vua, chứ không dựa trên luật pháp, dễ đưa đến
độc tài, chuyên chế. Trong bài nầy, Phan Châu Trinh nhấn mạnh: “…Vì cái độc quân chủ mà nó giết hẳn cái lòng
ái quốc của dân Việt Nam ta…” (Nguyễn Văn Dương, sđd. tr.
813) Ông hô hào thiết lập chế độ “dân trị tức pháp trị”, tổ chức xã
hội trên căn bản pháp luật công bình. Mọi thành phần xã hội, từ
người đứng đầu quốc gia đến người cùng đinh, đều phải chịu sự chế tài của luật
pháp, đều được xét xử như nhau trước pháp luật.
Sau hai bài diễn
văn nầy, sức khỏe Phan Châu Trinh yếu dần. Qua đầu năm 1926, bịnh
phổi của Phan Châu Trinh càng ngày càng nặng. Ông từ trần tại Sài
Gòn lúc 9g30 tối 24-3-1926, lúc 54 tuổi.
6.- CHỐNG
CỘNG SẢN VÀ CHỐNG CẦU VIỆN:
Điểm đặc biệt trong
diễn tiến tư tưởng Phan Châu Trinh là ông dừng lại ở tư tưởng dân chủ và chống
chủ nghĩa cộng sản. Xin chú ý ở Âu Châu từ sau bản “Tuyên ngôn cộng sản” (The communist
manifesto) năm 1848, và sau sự thành công của cách mạng cộng sản ở Nga năm
1917, phong trào cộng sản lên rất cao vào đầu thế kỷ 20. Tại Pháp,
đảng cộng sản được thành lập cuối năm 1920. Trong đảng nầy, có một
người Việt là Nguyễn Ái Quốc, về sau có tên là Hồ Chí Minh.
Vua Khải Định chỉ
đến Pháp trong một thời gian ngắn vào năm 1922 mà cũng biết đến đảng nầy.
(Eugène Teston và Maurice Bercheron, L’Indochine moderne,
Paris: Librairie de France, 1931, tr. 55.) Vua Khải Định mà
biết, thì chắc chắn Phan Châu Trinh ở Paris lúc đó cũng biết, nhưng ông không
tin vào chủ nghĩa CS. Khi được tin Nguyễn Ái Quốc hoạt động cho cộng sản, Phan
Châu Trinh viết thư gởi Nguyễn Ái Quốc vào năm 1922, cho rằng việc Nguyễn Ái
Quốc theo quốc tế cộng sản để giành độc lập cho Việt Nam, “thì quốc dân đồng bào vẫn nguyên là cái lưng con ngựa, chỉ thay người
cỡi mà thôi”. (Ngô Văn, Việt Nam 1920-1945, Amarillo TX: Nxb. Chuông
Rè, 2000, tr. 39.).
Về việc nhờ nước
ngoài để chống Pháp, thì tại Hà Nội năm 1907, Phan Châu Trinh viết bài “Hiện trạng vấn đề” bằng chữ Nho (chữ
Hán), đăng trên Đại Việt Tân Báo (tức Đăng Cổ Tùng Báo đổi
tên), theo đó, trong phần kết luận, Phan Châu Trinh viết như sau: “Vậy xin nói lời chính cáo cùng người nước ta
rằng: “Không bạo động, bạo động tất chết! Không trông người nước ngoài, trông
người nước ngoài tất ngu! Đồng bào ta, người nước ta, ai mà ham mến tự do, tôi
xin có một vật rất quý báu tặng cho đồng bào, là “Chi bằng học”.
(Huỳnh Thúc Kháng dịch, và đăng trên báo Tiếng Dân ở Huế số
613, ngày 9-8-1933.)
Vì Phan Châu Trinh
hô hào dân quyền, chống cầu ngoại viện, kêu gọi phát triển dân chủ, can gián Nguyễn
Ái Quốc đừng theo cộng sản, mà đảng cộng sản đả kích Phan Châu Trinh. Trong
một bài thơ, Tố Hữu mỉa mai Phan Châu Trinh như sau: “Muôn dặm đường xa, biết đến đâu?/ Phan Châu Trinh lạc lối trời Âu...”
(Bài “Theo chân Bác”, Tố Hữu viết năm 1970.)
Trên thực tế, Phan
Châu Trinh không lạc lối ở trời Âu, mà ông đã học được kinh nghiệm dân chủ ở
trời Âu. Ngược lại, chính Hồ Chí Minh mới lạc lối ở hội nghị Tours (Pháp)
năm 1920 và sau đó lạc lối qua tận Moscow (Nga) năm 1923, rồi nhập cảng chủ
nghĩa cộng sản về đất nước chúng ta cho đến ngày nay.
KẾT LUẬN
Dù sống dưới chế độ
quân chủ, tư tưởng Phan Châu Trinh chuyển biến theo hướng ngược lại, từng bước
theo tiến trình hoạt động của ông: từ Cần vương, qua Nho giáo, rồi duy
tân, tiến lên dân quyền và dừng lại ở dân chủ, mà ngày nay, một thế kỷ sau Phan
Châu Trinh, cả thế giới đang cố gắng thực hiện.
Trong suốt cuộc đời
hoạt động của ông, Phan Châu Trinh luôn luôn tranh đấu bất bạo
động. Ông đã góp phần vận động cải cách văn hóa, thay thế chữ Hán
bằng Quốc ngữ, và nhất là ông đã góp phần chuyển hóa rộng rãi tâm lý và não
trạng (mentality) của cả một dân tộc, từ quan niệm quân chủ, tiến đến dân quyền
và dân chủ, chuẩn bị tâm lý và tinh thần quần chúng cho hoạt động của Việt Nam
Quốc Dân Đảng. Ông chủ trương bất bạo động từ năm 1904, đi trước cả
phong trào bất bạo động của Gandhi ở Ấn Độ.
Đặc biệt, Phan Châu
Trinh diễn thuyết rất hay đến nỗi vua Khải Định, tuy đã từng bị Phan Châu Trinh
chỉ trích khi qua Pháp năm 1922, vẫn khen Phan Châu Trinh là người có tài hùng
biện. (Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên đệ
thất kỷ, Cao Tự Thanh dịch, TpHCM: Nxb Văn Hóa-Văn Nghệ, 2012, tr. 339.)
Cuối cùng, như đã
viết ở trên, điểm đặc biệt là Phan Châu Trinh dừng lại ở tư tưởng dân chủ,
chống lại chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản thất bại trên thế
giới và tại Việt Nam ,
chứng nghiệm sự sáng suốt của Phan Châu Trinh. Dân chủ là giấc mơ
của Phan Châu Trinh cách đây 100 năm. Dân chủ hiện vẫn còn là giấc mơ
của toàn dân Việt Nam ngày
nay và dân chủ là điểm hẹn của dân tộc Việt Nam trong tương lai.
Thực dân Pháp và
cộng sản Việt Nam lên án Phan Châu Trinh, nhưng giới học giả Hoa Kỳ nhận rõ
chân giá trị tư tưởng Phan Châu Trinh, nên tổng thống Barack Obama, trong bài
diễn văn ngày 24-05-2016 tại “Trung tâm hội nghị quốc gia Mỹ Đình” ở Hà Nội, đã
tiết lộ rằng khi đại học Fulbright mở ra vào mùa thu 2016 tại Sài Gòn, thì sinh
viên, học giả, giới nghiên cứu có thể tập trung tìm hiểu nhiều vấn đề, trong đó
có cả “triết lý Phan Chu Trinh” (“philosophy of Phan Chu Trinh”).
Phải nhấn mạnh tất
cả các điều trên đây để thấy rõ sự sáng suốt của Phan Châu Trinh, thấy rõ viễn
kiến của Phan Châu Trinh, cũng như thấy rõ công trình tiên phong vận động văn
hóa và dân chủ bất bạo động của Phan Châu Trinh, một người yêu nước thiết tha,
sáng suốt, vô vị lợi, trọn đời tận tụy hy sinh phục vụ dân tộc.
*
Mời thư giãn với nhạc phẩm ĐẤT NƯỚC
của Phạm Minh Tuấn qua tiếng hát Tùng Dương:
*
TRẦN GIA PHỤNG
Nguyên quán: tỉnh Quảng Nam.
Định cư tại: Toronto, Canada.
Email: trangiaphung@gmail.com
.
............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 27.07.2017.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét