KHÔNG BIẾT LÀM THƠ TIẾNG VIỆT
(Nhà thơ Dư Thị Hoàn) |
Thỉnh thoảng có mấy nhà phê bình mậu dịch nhắc
chị như là hiện tượng thơ nữ thập kỷ 90 nên tôi cũng viết vài lời phản biện!
Những năm ấy chị ra tập thơ Lối nhỏ và tốn không ít giấy mực
ngợi ca chị. Nói cho đúng đó là tập VÔ LỐI NHỎ. Thơ chị rành là Vô lối, nói
năng lung tung, tư duy lung tung lang tang, không đầu, không đũa. Xét về mặt
thi pháp nghệ thuật thơ thì hầu như chị không biết gì về thơ Việt, tâm lý
thưởng thức văn chương, tâm lý tình cảm của người Việt.
Điển hình là những bài khóc của chị. Tôi đã viết
về chị với chuyên luân “Những phác
thảo thơ Dư Thị Hoàn” in trong “Tâm cảm gửi cho đời” – Nhà xuất
bản Thanh Niên năm 2011
(Tác giả Đỗ Hoàng) |
Rồi bài “Mười
năm tiếng khóc”- bài này nói về nỗi đau của những người Trung Quốc sống
lâu đời trên đất Việt phải hồi hương do thế lực chính trị lúc bấy giờ bất hòa
với nhau. Nỗi đau của người mẹ ra đi, người con ở lại, nỗi đâu không được thắp
hương lên bàn thờ tổ tiên, nỗi đau chia ly, xa cách là có thật. Chỉ có nhà thơ
diễn nó ra là không thật, không phải thơ ca người Việt. Nói thẳng ra là rất kém
thi pháp!
“khóc cho hết hơi
khóc cho trời sập
khóc cho cột điện
đổ
khóc cho tà vẹc vỡ
trôi
khóc cho còi tàu im
bặt
khóc cho bàn tay
lái rời bỏ vô lăng
khóc cho đoàn tàu
không dám lăn bánh…”
….
(Mười năm tiếng
khóc – Lối nhỏ)
Hơn bảy câu có chữ khóc như dù là khóc thật nhưng
chẳng có ai rơi một giọt nước mắt.
Trong khi ca dao Việt không dùng một chữ khóc nào
mà muôn đời nghe vẫn rưng rưng:
“Chiều chiều ra
đứng ngõ chiều
Nhìn lên mả mẹ chin
chiều ruột đau!
(Ca dao Việt)
Rồi bài “Đi
lễ chùa” rất được nhiều nhà phê bình mậu dịch thổi kèn ngược khen nức
nở: “Trong bài thơ trên, bốn nỗi đau lớn
được bốn người đàn bà đặt ra như bốn câu hỏi đang chờ lời giải đáp của mỗi độc
giả. Bốn nỗi đau mang bốn gương mặt khác nhau, bốn số phận khác nhau. Bài thơ
đặt ra những ý tưởng ở ngoài lời thơ những vấn đáp ở ngoài câu thơ
khiến người đọc phải nội suy cái hàm nghĩa mà nhà thơ đã đặt ra…” ((Thi
Hoàng & Dư Thị Hoàn – cấu trúc hiện đại với dấu ấn phương Đông – Nguyễn
Việt Chiến.)
Đây là bài Vô lối dở hơn cả nói bộ văn xuôi
“Năm người đàn bà cùng ngồi trên xe ngựa/ Tay khư khư ôm đầy vật tế lễ -
Câu này là một câu kể văn xuối tuy đúng nhưng rất dở vì chẳng có thông tin gì
mới.
Cùng câu kể đi lễ chùa, nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp
đã nâng lên thành thi tứ bất tử:
“Sáng nay đi chùa
Hương
Hoa cỏ mờ hơi sương
Cùng thầy me em dậy
Em vấn đầu soi
gương”
Nó đầy chất nhạc, tính họa, tính thơ, và rất dạt
dào. Còn hai câu kể của Dư Thị
Hoàn thì khô như ngói, vô tinh vô cảm!
Câu tiếp: Người thứ nhất thở dài:
“Tội nghiệp nhất là
người đàn bà không chồng”.
Có thật thế không? Chưa hẳn đúng!
Thời hiện đại phụ nữ không lấy chồng chỉ thích
độc thân thì sao? Ngay cả thời xưa người ta coi gái có chồng cũng là cái nợ
nần:
“Chồng gì anh, vợ
gì tôi
Chẳng qua là cái nợ
đời gì đây
Mỗi người mỗi nợ
cầm tay
Đời xưa nợ ít, đời
nay nợ nhiều”
(Ca dao Việt)
Câu thứ tiếp:
Người thứ hai chép miệng:
Vô phúc nhất là
người đàn bà không con
Câu này cũng không đúng với người phụ nữ Việt chứ
chưa nói người đàn bà Châu Âu họ không muốn đẻ con.
Người Việt coi chồng là cái nợ rồi, nhưng cói con
cũng là cái nợ tiếp theo, nếu như con bị trọng tôi, phản quốc thì càng nợ hơn
nữa.
Chồng con là cái nợ
nần
Thà rằng ở vậy nuôi
thân béo mầm!
(Cao dao Việt)
Và tiếp các câu sau đều là nhưng câu nói cố làm
ra vẻ triết lý vặt nhưng cái thì không chính xác, cái thì sai hoàn toàn
Việc Dư Thị Hoàn chẻ từng số phận người phụ nữ để
nói về từng nỗi đau một là việc làm không nên. Vì nói và kể như thế vừa không
đúng, không chính xác, vừa không thể nào kể hết.
Nói về nỗi đau của phụ nữ Thanh Tâm Tài Tử đã nói
từ ngàn xưa:
(Nhân sinh nử tử
thị tối khổ
Nử tử tối khổ thị
kỷ thân”
(Kim Vân Kiều
truyện)
Nghĩa là:
Trong cõi thế này
người nữ là khổ nhất
Trong giới nữ khổ
nhất là kẻ làm đĩ”
Nguyễn Du đã dịch rất hay:
Đau dớn thay phận
đàn bà
Lời rằng bạc mệnh
cũng là lời chung”
(Đoạn trường tân
thanh)
Nhiều người khen đứt lưỡi thơ Dư Thị Hoàn bài “Êm đềm trên ghế đá”, nào là hậu hiện
đại, là đại cách tân làm mới thơ Việt, nhưng thật ra đó là một bài bẩn thỉu
nhất, dung tục nhất của những kẻ du thủ, du thực:
anh du côn tám
thẹo, gặp chị điếm giang hồ bày da, những anh chị lấy ghế đá làm giường hành
lạc, lấy công viên, mặt phố làm phòng ngủ giao hoan!
Sau phút giây
Êm đềm trên ghế đá
Anh không cài khuy
áo ngực của em
(Êm đềm trên ghế
đá)
Dù cho là ghế đá của nhà mình đi nữa, chưa nói
ghế đá công viên và hè phố thì việc lẹo (giao hợp) nhau như các chú cầy
đen cầy trắng nhảy tơ lấy đâu tử tế, lịch sự cài khuy áo cho giống cái sau “một phú huy hoàng rồi chập tối”!
Có người biện bác thời ấy các thành phố nhà cửa chật
chội, các đôi vợ chồng phải đưa nhau ra công viên làm tình. Việc ấy trong có
thể có thật, nhưng trong thi ca thì không nên khái quát nó như vậy đem ra làm
bài học đạo đức phê phán giống đực!.
Cha ông ta nói bằng thơ mà nói hay hơn nhiều:
Trách người quân tử
bạc tình
Chơi hoa rồi lại bẻ
cành bán rao”
(Ca dao)
Mà theo bài viết trên là đôi trai gái mới yêu
nhau. Thời hiện đại yêu nhau học có thể sống thử như vợ chồng. Nhưng giao hoan
trên ghế đá công viên thì chỉ có loài lục súc. Không thể khen và lăng xê những
cách viết bẩn thỉu như thế này được!
Sống buông thả, lục súc như trên thì người Việt
cũng đã nói và viết lâu rồi. Người ta nói bằng thơ và hay hơn nhiều, kín đáo
hơn nhiều:
Chơi cho thủng
trống, long chiêng
Rồi ta sẽ lấy lập
nghiêm làm chồng
Chơi cho thủng
trống ta bồng
Rồi ra ta sẽ lấy
chồng lập nghiêm”
(Ca dao Việt)
Dư Thị Hoàn không biết làm thơ tiếng Việt. Tuy
không vô lối dài dòng nhạt nhẽo gượng gạo như Nguyễn Quang Thiều, cụt lủn
vô cảm như Thanh Tâm Tuyền, sơ sài lòng thong gượng gạo báo công xu thời như Lê
Văn Ngăn, kệch cởm khệnh khạng khô không khốc như Nguyễn Khoa Điềm, tắc tỵ như
Văn Cầm Hải, hủ nút như Hoàng Vũ Thuật và dục cảm bệnh hoạn như Vi Thùy
Linh…nhưng cũng thuộc loại Vô lối nhỏ!
Thơ Vô lối thua vạn lần các bản dịch nghĩa thơ
nước ngoài.
Nhà thơ hiện đại Pháp Saint John Perse,
giải Nobel năm 1960 người chuyên viết về vũ trụ không gian nhưng vẫn gắn với
đời thường. Thơ ông là những mảng phiêu diêu nhưng thường dùng những điệp vần
và những khúc văn xuôi có nhịp điệu, có chất nhạc nội tâm.
Ngay cả Rene Char nhà thơ Pháp hậu hiện đại
nhưng rất chuẩn nhạc điệu:
Chasseur rival tu
n’a rien appris
Toi qui sans hâte
me dépasses
Dans le mort que je
con tredis’
(Oh la toujouis
plus rose solitude)
Đỗ Hoàng tạm dịch:
Hỡi ông đối thủ đi
săn, ông chẳng được gì?
Ông đừng tất bật
vượt qua mặt tôi
Sự chết chóc tôi
thường phủ nhận
Ôi nỗi buồn luôn
mãi hồng tươi!
Dư Thị Hoàn đã đi vào cõi quên lãng hai mươi, ba
mươi năm nay, không ai còn nhắc nữa.
Đang ra thì không nên viết nhưng tôi có vài lời
để thưa với độc giả là bây giờ nhiều tổ chức cả tư nhân cả công quyên lăng xê
nhiều sản phẩm phi văn chương và vừa lăng xê lại Dư Thị Hoàn nên phải đành lên
tiếng!
Thiết nghĩ các nhà thơ dân tộc thiểu số tiếng
Việt còn nói ngọng như Phú Trạm Innasara, Dư Thị Hoàn, Y Phương... thì
làm sao là người cách tân thơ Việt được. Quả là khóc hổ ngươi, cười ra nước
mắt!
*.
Hà Nội,
ngày 23.10.2014
ĐỖ HOÀNG
Quê quán: Cao Vân, Lệ Thủy, Quảng
Bình.
Hiện sống và làm việc tại Hà Nội.
Email: donguyenhn@yahoo.com
Điện thoại: 091.336.96.52
..............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 10.07.2017
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét