(Nguồn ảnh: internet) |
CÚC THU BÁCH VỊNH
PHAN HUY ÍCH
(1751-1822)
- Tập thơ nhật ký
đối thoại giữa Hải Lượng thiền sư (Ngô Thì Nhậm) và Bảo Chân đạo sĩ
(Phan Huy Ích) -
Cuối triều Tây Sơn, sau khi vua Quang Trung mất
năm 1792, vua Cảnh Thịnh lên ngôi năm 10 tuổi, quyền hành trong tay cậu là Thái
Sư Bùi Đắc Tuyên, họ Bùi chuyên quyền đày quân sư Trần Văn Kỷ làm lính thú, đến
Hoàng Giang thì gặp Vũ Văn Dũng từ Bắc
trở về Phú Xuân bèn bàn mưu. Tướng Vũ Văn Dũng đem quân về giết cha
con Bùi Đắc Tuyên và tướng Ngô Văn Sở, nhưng tướng Trần Quang Diệu và tướng Vũ
Văn Dũng kình địch nhau. Phan Huy Ích theo lệnh vua Cảnh Thịnh viết chiếu giảng
hòa hai phe, nhưng sau đó chúng ta chỉ còn biết từ 1796, Phan Huy Ích lui về
Bích Câu, thành Thăng Long mở Bảo Chân Quán, lập nhà Học, xưng là Bảo Chân
đạo sĩ tu đạo Lão. Bảo Chân có ý
nói là tu dưỡng giữ nguyên cái chân tính của mình. Ngô Thì Nhậm
(1746-1803) lập Trúc Lâm thiền viện, có đình Thưởng Liên cũng gần đó lấy
Phật hiệu Hải Lượng thiền sư, viết Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh, được xưng
tụng là Trúc Lâm Đệ Tứ Tổ.
Phan Huy Ích trong thời gian từ 1796, viết Cúc
Thu Bách Vịnh gồm
50 bài thơ Đường luật không đề tựa. Điều đáng quý là Phan Huy
Ích viết những lời nguyên dẫn từng bài thơ, cho ta biết cuộc trao đổi của hai
người anh và em rể, Phan Huy Ích là
học trò và con rể cụ Ngô Thì Sĩ nên gọi Ngô Thì Nhậm là ‘thai
huynh’, hai nhà tư tưởng lớn Việt Nam, một thiền sư, một đạo sĩ thật thú vị,
điều này hiếm hoi trong lịch sử Việt Nam.
(Giáo sư Phạm Trọng Chánh) |
Tâm sự Phan Huy Ích trong thời gian này luyến
tiếc vua Quang Trung mất sớm: Kinh Sơn
nếu chẳng Rồng khuất núi; Quét bút tám phương cần đến ta. Hai ông tuy quy
ẩn, nhưng ẩn cư thành Thăng Long, khi triều đình cần việc ngoại giao
với Trung Quốc hai ông đều giúp.
Bài Đại Học: Như thích sắc đẹp, cho ta cái
nhìn đúng đắn về sắc đẹp phụ nữ và tình yêu người quân tử, điều
này hiếm thấy trong thi ca, triết học các cụ ngày xưa. Người quân tử
không phải là kẻ có đôi mắt lạnh lùng với sắc đẹp. Người phụ nữ
khi có chồng cũng không bỏ lún sắc đẹp mình như hoa tàn trên ao; trái
lại phải trang phục lộng lẫy, vui tươi xinh đẹp với chồng..
Trong bài
này tôi xin dịch thơ Đường Luật và giới thiệu toàn bộ thơ chữ Hán tập Cúc Thu
Bách Vịnh của Phan Huy Ích để ngày nay chúng ta có thể thưởng thức những kiệt
tác của Phan Huy Ích một nhà thơ lớn Việt Nam và tìm hiểu về cuộc đời, cuộc
trao đổi hai danh nhân triều đại Tây Sơn.
Cúc Thu Bách Vịnh là một thi tập trong Dụ Am
Ngâm Lục thơ văn Phan Huy Ích tập III. Nhà Xuất bản Khoa Học Xã Hội; Hà Nội.
1978. Phần lớn các bài thơ chỉ dịch nghĩa, bản dịch và chú thích
có nhiều sơ sót lầm lẫn tôi xin bổ túc. Tựa tôi xin theo số thứ tự của
thi tập, phần chữ Hán có thể tìm trong ấn bản trên. Có 6 bài thơ không được
in lại nên tác phẩm chỉ còn 44 bài.
BÀI 1
Nguyên dẫn: Tiết
Trùng Cửu (9-9) đến, sực nhớ câu thơ cổ “Trần thế kỳ phùng khai khẩu tiếu” của
người đời Đường liền nén bệnh gượng dậy làm thịt dê hâm rượu, định đến bồi tiếp
ở đình Thưởng Liên, nhưng lại nghe nói thai huynh vì mệt phải kiêng rượu. Tôi
không dám đường đột, đành chỉ cùng bọn My Anh rót rượu với nhau. Trong lúc ngà
ngà say, ngẫu nhiên ngâm một bài thơ luật, xin viết trình đây, mong được thai
huynh sửa cho.
“Trần thế kỷ phùng khai khẩu tiếu” là thơ
Đỗ Mục đời Đường làm trong dịp tết Trùng Dương để chế giễu một
người bạn có tính sợ vợ. Nghĩa câu thơ: Ở trên cõi trần mấy khi đã
gặp được dịp mở miệng mà cười to.
Bọn My Anh chỉ những đoá hoa cúc, ‘my anh
đăng’, my hoa cúc đồng âm với my là lông mày, anh là hoa. Theo Cao Tăng
Truyện. Đời Đông Tấn nhà sư Tuệ Viễn tu ở núi Lư Sơn, có lập hội
gọi là Bạch Liên xã sai người đến mời Đào Uyên Minh. Đào nói: ‘Nếu
cho uống rượu thì tới chứ kết xã xin miễn.’ Tuệ Viễn cũng vui lòng.
Đào tới chỉ ngồi trước hoa cúc, vừa chau mày vừa uống rượu say li
bì rồi về.
Bài thơ viết: Loáng thoáng mùa thu lọt vào
nhà vẽ. Sen tàn liễu yếu ánh sáng chiếu khắp ao hồ. Mời anh hãy
rót chén rượu Uyên Minh. Tên tự của Đào Tiềm ẩn sĩ đời Tấn từ chức
quan huyện Bành Trạch, trồng cúc lấy rượu thơ làm vui. Hứng lên lại
ngâm thơ Đỗ Mục. Tuyết điểm đầy đầu nhìn mà sợ hãi cảnh già. Hoa
vàng khắp chỗ ngồi ngắm càng tiếc buổi Trùng Dương, mùi thiền rừng
trúc ưa cảnh thanh vắng. Dám hỏi sư ông cách tu thế nào?
Lãng đãng thu dung
đến họa đường,
Sen tàn liễu yếu ánh
hồ vương.
Uyên Minh rượu uống
cùng nâng chén,
Tiểu Đỗ thơ ngâm
nga mấy chương.
Tóc tuyểt điểm đầu
già sợ cảnh,
Hoa vàng khắp chốn
tiết Trùng Dương.
Mùi Thiền rừng trúc
ưa thanh vắng,
Xin hỏi Sư ông cách
dưỡng thân.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Đạm đãng thu dung
nhập họa đường,
Tàn hà, nhược
liễu ánh trì đường.
Chiêu bằng thả
chước Uyên Minh tửu,
Xúc hứng hoàn
nga Tiểu Đỗ chương.
Tuyết điểm doanh
đầu kinh lão cảnh,
Kim hoa mãn tọa
tích trùng dương.
Trúc Lâm thiền
vị nghi sầm tịch,
Cảm phóng sư công
nhiếp dưỡng phương.
BÀI 2
Nguyên dẫn: Tiếp
thơ thai huynh có những câu: “Đê Doanh Quốc”, “Bạc Thú Dương”, tôi bấc giác vỗ
bàn tán tụng. Lời nói ấy làm tôi rất hả dạ, nhưng cũng chỉ là lời chúc tụng lẫn
nhau thôi, không nên để người ngoài biết. Vậy xin theo những vần trước làm thêm
bài nữa đệ trình. Trong lúc say, nhiều lời nhàm, xin thai huynh tha mắng cho.
Bóng thiềm thấp thoáng ló vào nhà cao.
Bông lau xờ xạc đầy cả góc ao. Tính thời gian trôi qua càng thêm mến
cảnh. Nghiền ngẫm Dịch lý trọng chữ Hàm Chương. Quẻ khôn, Kinh Dịch
có câu: ‘Hàm chương khả trinh’, Hàm chương ý nói bao hàm đức tính tốt
trong bụng, khả trinh là nên kiên trinh mà giữ đức tính tốt. Say sưa ca
hát đâu để khoe cuộc đời sung sướng mãi. Ý nói của Phùng Đạo đời Tấn viết bài
Trường Lạc tự. Răng tóc đổi khác lẽ nào không cảm khái trước bóng
chiều. Thân chưa tới cõi thiền, khó lòng lánh tục. Muốn chữa bệnh cuồng
si không biết cách nào?
Bóng trăng thấp
thoáng chiếu lầu trang,
Phơ phất cờ lau ao
góc vườn.
Đếm tháng ngày qua
càng ngắm cảnh,
Ngẫm lời Kinh Dịch
đức Hàm Chương.
Say ca đâu mãi khoe
đời sướng,
Râu tóc cảm buồn
bóng tịch dương.
Thân chữa tới Thiền
nào lánh tục.
Muốn chữa cuồng si
chẳng biết phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Đê hồi thiềm ảnh
hám cao đường,
Thác lạc lô hoa
mãn khúc đường.
Kiểm điểm thời
quang tần ái cảnh,
Nghiên ma Dịch lý
trọng Hàm chương.
Hàm ca phỉ thị
căng trường lạc,
Xỉ phát ninh vô
cảm vãn dương.
Thân vị đáo
thiền nan khước tục,
Dục y cuồng tích
mạc tri phương.
BÀI 3
Nguyên dẫn: Ném
ra hòn gạch, đưa về viên ngọc thu lợi được nhiều. Kính đọc bài thơ
gửi tới câu: ‘Châu lý kim thoa hy thanh đạm tửu’, Dép ngọc, thoa vàng
thật là bậc đại ẩn. Tiếng ít rượu nhạt đủ ngụ khí dương sinh rồi.
Càng hiểu được rõ lời thơ ôn hậu hứng thú sâu xa, khiến người đọc
phải gõ nhịp tôi xin mô phỏng họa lại mong thai huynh mỉm cười mà
nhận cho.
Thư lời châu ngọc gửi từ nhà gấm. Đèn
lồng tiểu đồng truyền thư đưa qua ao sen. Bồi hồi đêm trăng giọt đồng
điểm canh ba. Trằn trọc trên chiếu thu thơ viết hai chương. Trúc tốt
thông cao đều vừa ý. Hoàng chung đại lã, hai loại chuông lớn tiếng
vang xa cũng hòa khí dương. Nghe tin đêm tới sẽ có hội chùa. Lại toan
chống gậy lên gõ cửa Phật.
Thư châu ngọc gửi
từ nhà gấm,
Thư đến đèn lồng
qua lối sen.
Giọt điểm canh ba
thương bóng nguyệt,
Thơ ngâm hai khúc
bóng thu vương.
Thông cao, trúc tốt
lòng như ý,
Đại lã, hoàng chung
hòa khí dương.
Đêm tới nghe tìn
chùa mở hội,
Gõ cửa Phật toan
chống gậy lên.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Thôi xán bưu tiên
xuất cẩm đường,
Câu đăng truyền
tống quá liên đường
Bồi hồi nguyệt
dạ lậu tam điểm,
Phản phúc thu
diên thi nhị chương.
Thúy trúc cô
tùng câu khả ý,
Hoàng chung đại
lã diệc điều dương.
Lai tiêu vãn thị
thiền lâm hội,
Thả dục huề
cùng khấu thượng phương.
BÀI 4
Nguyên dẫn: Nhân
ngày sinh nhật thai huynh. Tôi vì mệt, không tới tiệc hoa để chúc cảnh
mũ áo huy hoàng, vui tiếng đàn ca dìu đặt được, xin làm sẵn mấy vần
quê kệch kính cẩn chúc mừng.
Vẻ trâm anh áo mũ vua ban lộng lẫy họp trong
ngôi nhà lớn. Tiếng đàn sáo du dương vang khắp dốc, khắp đường. Hoa
thơm mai cúc rợp bóng trước sân. Lời chúc quỳnh dao la liệt trên án
thư. Sao Thai chiếu dọi vị thần tiên ra đời. Thiên Văn Chí nói: “Ở trên trời là sao Tam Thai đối với
người là ngôi Tam Công”, câu thơ này có ý ca tụng Ngô. Cung mệnh tốt
lành quan lộc gặp Thái Dương. Số
tử vi có cung bản mệnh là chủ yếu, cung quan lộc gặp sao Thái Dương
là điều tốt lành thăng quan tiến chức. Ông xanh còn để cho nền tư văn,
lễ nhạc giáo hóa bền vững lâu dài. Thấy thai huynh khỏe mạnh biết
huynh có phương thuốc không già.
Lộng lẫy trâm anh
họp thái đường,
Khắp nơi đàn sáo
tiếng du dương.
Trước sân mai cúc
thơm lan bóng,
Lời chúc quỳnh dao
đầy án chương.
Sao Thai chiếu dội
tiên trần thế,
Cung mệnh tốt lành
lộc thái dương.
Văn vận trời cho
trường thọ mãi.
Đích thực ông dùng
thuốc lão phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Xán xán triều
trâm tập thái đường,
Sinh huyền tân
hưởng triệt pha đường.
Đình tiền mai
cúc, phương hoa ấm.
Án thượng quỳnh
dao, tụng đáo chương.
Thai diệu giáng
huy tiên xuất thế,
Mệnh viên phủ
cát, lộc phùng dương.
Hiệu thương
trường sử tư văn thọ,
Tích thực, tri
công bất lão phương.
BÀI 5
Nguyên dẫn: Được
say trong tiết Trùng dương mà không được say trong tiệc thọ sau buổi
Trùng dương. Ăn uống cũng có phận chăng? Quây màn ôm bệnh, thẹn mình
lỗi hẹn. Tưởng tiệc gấm đêm thanh coi như đem tinh thần tới dự. Tôi xin
nối thơ xưa gọi là để thay lời cảm tạ.
Nghe nói tiệc hoa ở tại nhà ngắm sen. Trăng
đầy sân thềm, nước đầy ao. Tạo vật cân nhắc ban cho phúc thọ. Chủ
nhân sắp đặt văn chương hay đẹp. Chén cúc tỏa hương nồng, nổi giọt
móc trong. Sáo ngọc đưa tiếng chậm dẫn ánh nắng sớm. Gió lạnh trớ
trêu riêng ghen ghét khách. Đưa hờ giấc mộng si mê thăm chốn thần tiên.
Thưởng hoa nghe nói
tại liên đường,
Trăng sáng đầy thềm
ao nước tràn.
Tạo vật ban cho đời
Phúc Thọ,
Chữ nhân sắp đặt
tiếng văn chương.
Sương nồng chén cúc
sương trong nổi.
Sáo ngọc khoan đưa
ánh nắng lên.
Gió lạnh trớ trên
ghen ghét khách,
Đưa hờ giấc mộng
chốn thần tiên.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Hoa diên văn tại
thưởng liên đường,
Nguyệt mãn đình
giai, thủy mãn đường.
Tạo vật quyền
hành di phúc thọ,
Chủ nhân bài bố
hảo văn chương.
Cúc bồi hương
noãn phù thanh lộ,
Châu quản thanh
trì dẫn hiểu dương.
Vô lại hàn phong
thiên đố khách,
Hư tương si mộng
phỏng tiên phương.
BÀI 6
Nguyên dẫn: Đọc
bài thơ của thai huynh thấy có ý bênh vực cho dì gió, đổ lỗi cho
chuyên già chơi trống bỏi, ham luyện thuốc tiên. Lời kết tội thật quá
nghiêm khắc. Người tu dưỡng ở quán Bảo Chân này chưa chịu phục tỉnh.
Vậy xin khiếu nại lần nữa mong được thẩm cứu biện bạch thêm.
Trong bài thơ trước Phan gọi Ngô giải thích
việc không đến dự tiệc có câu : Gió lạnh trớ trêu ghen ghét khách.
Trong bài Ngô đáp lại cũng muốn đùa Phan, Ngô gọi gió là ‘dì’ và có ý nói không phải
là dì gió ghen khách mà có thể vì khách bận ’dì ‘ khác. Ham luyện
thuốc tiên nguyên văn là ‘khô dương tân hồng’ chơi chữ chỉ việc người
tuổi tác có hầu thiếp trẻ và cũng có nghĩa là luyện thuốc trường
sinh. Các chữ: phục tình, khiếu nại, thẩm cứu.. những danh từ tư
pháp, Phan tỏ ý mình là một bị cáo trước lời đùa của Ngô. Qua lời
đối thoại này chúng ta biết thiền sư Ngô Thì Nhậm tu không kém gì
Tuệ Trung Thượng Sĩ đời Trần: vẫn uống rượu, ăn thịt dê nơi nhà
thưởng sen và vui vẻ đùa chuyện phòng the bằng thi ca.
Đàn sách quạnh hiu nằm khểnh trong mái nhà
tranh. Tìm hoa thơm không thiết gì kiếm ở đường xuân. Ý câu thơ này
Phan muốn nói : Người hầu thiếp trẻ đẹp cũng là hoa thơm. Đâu cần
đến nấu thuốc trường sinh trong vạc luyện. Phan muốn nói : việc chăn
gối với phụ nữ điều độ cũng là một cách luyện thuốc trường sinh.
Đã nhớ kỹ bài dưỡng tính trong Kinh Hoàng Đinh. Kinh Hoàng Đinh của
Đạo Lão dạy cánh tu dưỡng có mục ‘Dưỡng thân’ tác giả đổi thành
‘dưỡng tính’ cho hợp luật thơ. Kề liễu theo hoa cốt cho qua ngày
tháng. Trong thơ Trình Hạo ý nói vui với cảnh vật thiên nhiên, nhưng
trong bài này còn có nghĩa bên hầu thiếp đẹp. Sai rồng khiến hổ để
phù trợ dương. Theo lưỡng nghi: âm dương luôn luôn phù trợ nhau, tượng
trưng bằng chấm đen trên nền trắng, và chấm trắng trên nền đen trong
một vòng tròn phân đôi như chữ S, âm
dương luôn luôn chuyển động từ âm lớn dần đến dương và dương nhỏ dần
đến âm; do đó sai rồng, khiến hổ
còn có nghĩa khác. Dì gió chẳng cho nhà thơ được tùy tiện. Trong xã
hội Á Đông ngày xưa, trong giới quyền quý, vợ cả cưới các thứ thiếp cho chồng, và quyết định
mỗi đêm cô nào thay mình phục vụ chồng. Sau cứ đeo đẳng mãi ở làng
ôn nhu. Triệu Phi Yến, Hoàng hậu vua Hán Thành Đế có dâng cho vua một
người con gái đẹp, vua rất thích gọi là ‘ôn nhu hương‘ làng vừa ấm
vừa mềm mại. Bài thơ này có hai nghĩa chẳng kém thơ truyền khấu Hồ
Xuân Hương, trong thơ chữ Hán các cụ ngày xưa cũng đùa bằng điển tích
chọc phá nhau vui vẻ lắm.
Quạnh quẽ sách đàn
ngồi thảo đường,
Tìm hoa không thiết
kiếm đường xuân.
Trường sinh đâu
luyện trong lò vạc,
Dưỡng tính Hoàng
đình kinh thuộc lòng.
Theo hoa, kề liễu
theo ngày tháng,
Khiến hổ, sai rồng
phù hộ dương.
Dì gió chẳng cho
tùy tiện hứng,
Làng ôn nhu mãi vấn
vương hương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Tịch mịch cầm
thư ngọa thảo đường,
Tầm phương, vô ý
mịch xuân đường.
Khởi nhu đan đỉnh
diên linh nhị,
Tằng nhận hoàng
đinh dưỡng tính chương.
Bạng liễu tùy hoa
kham độ nhật;
Phục long, giáng
hổ tỗng phù dương.
Phong di bất dữ
ngâm ông tiện,
Mạn đạo ôn nhu
lão thử phương.
BÀI 7
Nguyên dẫn: Được
thai huynh bảo cho một lời án thẩm biện, rành mạch đủ bằng chứng,
xem trong thơ thấy lời xét hỏi rõ ràng xác đáng, phán đoán tinh tế
kháo léo, đáng phải cám tạ. Vậy xin có bài thơ đáp lại để thay lời
cung khai, dám mong mỉm cười nhận cho.
Khói, nước, gió, hoa tụ họp lại một nhà.
Hoa cúc mới nở lô nhô trên đường. Người mặc áo trắng đưa rượu đến
giữa đêm thu trong sáng. Tích ngày mùng 9 tháng 9, Đào Tiềm không có
rượu uống ra bên dậu nhìn ngơ ngác hồi lâu thấy có người mặc áo
trắng tới, đó là người nhà Vương Hoàng sai đưa rượu cho. Nàng tay áo
hồng, hát xong bài ca dịu dàng đáng yêu. Tích Ngụy Trọng Tiến và
Khâu Lai Công cùng tới chùa Thiểm Giao du ngoạn, cả hai đều đề thơ. Ít
lâu sau hai người lại tới thì thấy bức sa xanh che ngoài thơ của Khâu
còn thơ của Ngụy bụi bám đầy cả. Một cô ca kỹ lấy tay áo hồng phẩy
bụi. Ngụy nói : Nếu gặp thời cứ cho tay áo hồng phẩy bụi còn hơn
che bức sa xanh. Gặp cảnh đẹp há bỏ qua năm tháng. Rõ huyền cơ không
lo gì việc điều hòa âm dương. Sông Ngân chưa gỡ được cái án phong
tình. Bắc cầu Ô Thước suông rồi lại cứ để mỗi người một phương.
Khói, nước, gió,
hoa tụ một nhà,
Cúc vàng mới nở
nhấp nhô hoa.
Rượu mang áo trắng
đêm thu sáng,
Lời hát áo hồng
đẹp tiếng ca.
Cảnh đẹp chớ quên
năm tháng chóng,
Cơ huyền chẳng quản
việc điều hòa.
Sông Ngân chưa gỡ
phong tình án,
Quạ bắt Cầu Ô lại
cách xa.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Yên thủy phong hoa
tụ nhất đường,
Cúc anh tân phát
đoản trường đường.
Bạch y ẩm đáo
thanh thương dạ,
Hồng tụ ca thành
uyển luyến chương.
Giai cảnh cự nghi
phao tuế nguyệt,
Chân cơ bất phạ
lý âm dương.
Ngân giang vị
giải phong tình án,
Hư độ Ô kiều hựu
các phương.
BÀI 8
Nguyên dẫn: Thú
chơi bút mực, đệ đã vụng lại lười đâu dám khoe hay khoe đẹp. Trước
đây nhân bài ngẫu tác ở tiệc cúc do huynh khởi xướng, thành thử
thích cùng huynh xướng họa, tinh thần phấn chấn góp nhặt chương thành
câu, quên cả khô khan quê mùa, cứ nhì nhằng mong được huynh chỉ bảo.
Vốn những bài xuất phát từ tình cảm thế hiện ra thơ, ngờ đâu vui
đến thế. Tiếp được bút hoa của huynh gứi tới, nói rõ việc xướng
họa của tiên công hai nhà, để dạy bảo chuẩn đích về thơ, lại còn chỉ
vẽ cái lẽ tạo vật tác động đến then máy cùa thơ, khiến cho đầu mối
của thơ được thần diệu. Đó thật là một đoạn nghị luận to lớn chính
xác, há chẳng phải những hiểu biết sâu sắc về thơ đó sao? Cảm phục
lời dạy đó, đệ xin nối nguyên văn, mong thai huynh phủ chính. Xin đừng
cười.
Tiên công hai nhà là Ngô Thì Sĩ và Phan Huy
Cẩn.
Chưa thấu chốn sâu xa của thơ, chỉ mới tới
nhà bên ngoài. Luận Ngữ chép lời Khổng Tử bảo Tử Lộ: “Do dã thăng
đường hỉ, vị nhập ư thất dã”. Trọng Do mới tới nhà ngoài, chưa vào
được nhà trong. Trong thơ Phan có ý khiêm tốn. Tứ hay chưa tìm được câu
đẹp cỏ xuân bên bờ ao. Nhắc đến câu thơ Tạ Huệ Liên, em Tạ Linh Vận
(385 433): “Trì đường sinh xuân thảo”. Bờ ao mọc cỏ xuân. Cả hình
thức lẫn tinh thần chúng ta nương tựa lẫn nhau. Cặp mắt, đôi mày của
văn chương lấy ai là kẻ phẩm bình. Thung thăng cùng mừng trong hội gió
mây. Ngắm ngâm nào biết trời mây tươi đẹp. Thơ ca xướng họa để tạm
khuây khỏa nỗi buồn. Dám đâu sánh với tình bạn kim lan hai vị tiên
công ngày trước.
Thơ chưa uyên áo
mới ngoài rào,
Chưa thấy tứ hay
“cỏ bờ ao.”
Hình thức tinh thần
nương tựa lẫn,
Đôi mi cặp mắt thấp
cùng cao.
Thung thăng mừng
hội mây và gió,
Ngâm ngắm trời
trăng vẻ đẹp nào.
Thơ ca xướng họa
buồn khuây khỏa,
Đâu sánh kim lan
người trước nào.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Vị cùng thi áo
cận thăng đường,
Cảnh tứ phi tằng
cảnh thảo đường.
Ngô bối hình thần
canh ỷ tác,
Tư văn my mục
thục bình chương.
Ưu du đồng khánh
phong vân hội,
Diếu vịnh na tri
nhật nguyệt dương.
Thiên thập vãn
hoàn cô bãi muộn,
Kim lan tiền phả
cảm tương phương.
BÀI 9
Nguyên dẫn: Bậc
trượng phu cùng hẹn nhau ở chí khí và lòng can đảm, chứ nhao nhao
đàm luận phỏng có ích gì. Chúng ta thích cuộc xướng họa này, chẳng
qua đem tấm lòng gửi vào lời nói, cũng như đạo lý thể hiện ở sự
vật. Lời dạy của thai huynh chỉ vào chổ tương đắc, tới được chổ ẩn
áo tinh vi, đạo chính là ở đó, thơ cũng là như vậy chăng? Tôi chợt
nhớ cảnh thiền Trúc Lâm, vui vì huynh phát hiện được “Tân Thanh”, huynh sai đề tựa. Tôi tự
thẹn quá chậm trễ, song đã ủy thác cho nhau tấm lòng, mà không
chuộng ở ngôn từ, vậy huynh có tha thứ cho hay không ? Dám xin nối họa
mong được xem cho.
Vài gian nhà học gọi là nhà thiền. Bóng
trúc lưa thưa phủ trên ao trăng. Vài “Thanh” chữ nhà Phật tất cả đều
là đạo lý. Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh Ngô Thì Nhậm chia thành 24
Thanh như: Ngụ thanh, Ẩn thanh, Thoát thanh.. Cuộc chơi tươi đẹp đâu cũng
có vần thơ. Đôn hậu ôn hòa tự tin Kinh Thi có lời chỉ giáo. Bền vững
tốt lành, nên tìm hiểu Kinh Dịch vì sao quí quẻ Dương. Kinh Dịch bàn
về lẽ Âm Dương chuyển biến, nhưng tinh thần chung của Dịch, Dương là
sáng sủa ấm áp, trong xã hội thì Dương là quân tử, thịnh trị, điềm
hay.. cho nên coi trọng Dương. Còn Âm là ngược lại: tối tăm, rét mướt..
cho nên bàn về Dịch thì quí Dương khinh Âm, nhưng Dương không thể không
có Âm. Cuốn sách quí tôi chưa biết tán dương thế nào. Vì nó huyền
diệu không hình thể, lại không phương hướng.
Vài gian nhà học
gọi nhà thiền,
Bóng trúc lâm râm
phủ nước trăng.
Chữ Phật vài thanh
đều đạo lý,
Cuộc chơi tươi đẹp
có thơ văn.
Ôn hòa tự tín Thi
khuyên bảo,
Bền tốt tìm sao
Dịch quý dương.
Sách quý tán dương
sao thế nhỉ ?
Diệu huyền không
thể lại không phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Số duyên học xá
hoán thiền đường,
Trúc ảnh tâm si
phủ nguyệt đường.
Phạm ngữ kỷ
thanh giai đạo lý,
Anh du đáo xứ
hữu thiên chương.
Đôn nhu tự tín
thí vi giáo,
Trinh cát tu cầu
dịch quý dương.
Bảo dật vị tri
hà tán tự,
Huyền huyền vô
thể, hựu vô phương.
BÀI 10
Nguyên dẫn: Đêm
thu bị bệnh, chợt ngâm thành câu, đều chép lại để trình huynh phủ
chính. Huynh có vào chầu tâu bày các việc, nhớ xin cho đệ được nghỉ.
Kính mong.
Gần đây, vì dưỡng bệnh phải khép cửa nhà
thơ. Ai người dưới trăng thưởng thức bờ liễu buông. Ra làm việc đã hổ
thẹn mình yếu gân sức. Xin nghỉ hưu còn chờ người chuyển biểu lên
cho. Tiếng thu hiu hắt lay tỉnh giấc mộng. Chứng ngoại cảm bốc lên do
tà khí thuộc dương. Giọt đồng lặng lẽ tựa bình phong nghĩ được câu
thơ. Không còn rảnh rỗi để hỏi phương thuốc sâm linh.
Gần đây dưỡng
bệnh khép thi đường,
Ai dưới trăng đây
ngắm liễu buông.
Làm việc thẹn mình
thân sức yếu,
Lui chân nhờ
chuyển đạt văn chương.
Tiếng thu hiu hắt
đêm mơ tỉnh,
Cảm bệnh do tà
khí thuộc dương.
Lặng lẽ giọt
đồng thơ ngẫu hứng,
Chẳng còn rãnh
rỗi hỏi sâm lương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Cận nhân nhiếp
dưỡng yểm thi đường,
Nguyệt hạ hà
nhân thưởng liễu đường.
Xu sự dĩ tàm
khiên lữ lực,
Vãn lưu do sĩ
đạt phong chương.
Thu thanh tiêu táp
mộng hoàn giác,
Biểu chứng thăng
đằng tà thuộc dương.
Lậu tỉnh ỷ bình
tần đắc cú,
Sâm linh vô hạ
chất y phương.
Bài 11
Nguyên dẫn: Khắp
trong trời đất chỉ có một đạo lý thôi. Nó thể hiện tản mát trong
mọi sự vật; nhưng qui tụ lại đến chỗ cùng cực thì vẫn cùng một
nguồn gốc lớn ấy cả. Giáo lý của nhà Phật bảo hư không, man mác
nhưng nó có ở ngoàl Lý Học của nhà Nho đâu ? Tập Thập Nhị Tứ Thanh
của thai huynh biên soạn, nhận thức rất là sáng suốt, hơn hẵn xưa nay,
có lẽ vẫn giữ được đúng nghĩa xây dựng ngôi chùa Tam Giáo ở động
Nhị Thanh của tiên công ta. Người đời kiến thức mập mờ, kẻ nói le,
người nói vịt hiểu sao thấu được lẽ đó. Thai huynh đã nhiều lần bảo
tôi làm bài tựa, từ chối mãi cũng không được. Vậy đương phát nghĩ,
khi nào xong sẽ đệ trình. Nay xin theo các vần trước họa thêm một bài
nữa để bày tỏ những điều đệ biết. Nếu những ý huyền diệu có thể
phô bày được, thì xin gửi cho toàn tập để đệ có thể nghiền ngẫm kỹ
cho tầm mắt, bụng nghĩ được mở rộng thêm, đó là điều đệ tha thiết
mong mỏi.
Lý Học thịnh hành từ đời nhà Tống, nghiên
cứu nghĩa lý trong các kinh điển đi sâu vảo mặt tính, mệnh, đạo lý..
Ngô Thì Sĩ theo chủ trương Tam Giáo Đồng Nguyên: Nho, Đạo, Phật cũng
như nhau nên dựng ngôi chùa Tam Giáo ở động Nhị Thanh, Lạng Sơn.
Kẻ nói le người nói vịt. Truyện Cổ
Hoan ở Nam Sử có câu: “Một con chim
hồng bay trên cao tít, qua nước Sở, người Sở bảo là con le, qua nước
Việt người Việt bảo là con vịt trời, nhưng nó thực là con chim
hồng“. Do đó người ta dùng chữ “nói le nói vịt” để chê những kẻ
nhận xét lờ mờ.
Từ nghìn xưa nhà Nho vẫn bài bác đạo
Phật. Lờ mờ về nghĩa lý tinh vi cứ coi là khác đường. Nếu không có
lời văn kỳ diệu của Đại Sĩ. Nhà Phật dùng chữ Đại Sĩ để xưng tụng
bậc Bồ tát, đây dùng chỉ Ngô Thì Nhậm, ông thích nghiên cứu Phật
Học, lại làm quan Đại Học Sĩ. Hẵn ngỡ kinh điển riêng biệt của Như
Lai. Khơi ra nguồn Đạo hòa vào một dòng. Mở toan hang Huyền thổi tới
muôn vật. Khoa phạm Trúc Lâm nên in và công bố ra. Để cho thanh âm mới
truyền bá khắp mười phương.
Nghìn thuở nhà Nho
bài bác Phật,
Lờ mờ nghĩa lý
chẳng cùng đường.
Nếu không Đại Sĩ
lời kỳ diệu,
Hẵn ngỡ Như Lai
kinh điển riêng.
Nguồn đạo khơi dòng
hòa một phái,
Hang huyền mở rộng
chúng sanh luôn.
Trúc Lâm giáo huấn
nên in phát,
Truyền bá Tân Thanh
khắp thập phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Thiên cổ Nho gia
sán Phật đường,
Mang mang tinh uẩn
tiệt kỳ đường,
Túng phi đại sĩ
kỳ văn tự,
Nghi thị Như Lai
biệt điển chương.
Thác khởi đạo
nguyên dung nhất phái,
Di khai huyền
cốc, phiến quần dương.
Trúc Lâm khoa phạm công lê tảo,
Yếu sử tân thanh
bố thập phương.
BÀI 12
Nguyên dẫn: Theo
thứ tự của năm tháng thì xuân sinh trưởng rồi phải đến thu tàng; theo
học thuyết Hoàng, Lão thì lo lắng rồi trở lại thanh tĩnh. Hai chúng
ta là anh em rể với nhau từ khi tuổi trẻ, đã nếm trải mùi đời cho
đến nay râu tóc đã bạc. Nghĩ lại cảnh quá khứ, đi vào đường ghê sợ,
đứng trên chổ hiểm nghèo, thực là gập ghềnh muôn vẻ, những cái gọi
là “tai nạn” rất nhiều. Nhưng cái lòng danh lợi cứ nguộl lạnh dần
dần, khác nào lò than đang cháy được băng tuyết xối vào. Vậy chỉ nên
giữ gìn tấm thân, giảm bớt công việc để giữ tròn danh dự, phải nhớ
đầy đủ lời dạy “biết yên, biết lo”, phải hiểu thấu suốt câu “phi thanh,
phi tưởng”. Vì biết chịu nhẫn, hay lo lắng, tất nhiên trong đáy lòng
sẽ thoải mái. Đó là chổ chúng ta tự hiểu hơn người khác, chứ có
phải tìm tòi trong câu văn lời nói đâu. Trong thư thai huynh nhắc tôi về
việc làm bài tựa, lời lẽ khẩn thiết lại bắt đầu câu “đức tuệ
thuật trí” để khuyên nhau. Điều đó làm tôi tỉnh ngộ mà nói ra đây,
xin chất chính cùng với bậc đạt giả. Kính họa mấy vần trước để tỏ hoài bảo của
mình. Xin phủ chính cho.
Sinh trưởng rồi thu tàng: Cây cối mùa xuân
nẩy lộc sinh sôi, mùa hạ lớn lên, mùa thu rụng lá dừng lại, mùa đông
tiềm tàng. “Xuân sinh, hạ trưởng, thu thu, đông tàng”. Ý nói lúc trẻ
hoạt động, lúc già nghỉ ngơi.
Hoàng Lão, nhiều người cho rằng Đạo Lão
tự nhận học thuyết Hoàng Đế và Lão Tử là hai vị tổ Đạo Giáo,
nhưng Hoàng Đế là một vị vua huyền thoại không có học thuyết. Phải
chăng Hoàng là Hoàng Thạch Công có trao truyền sách bí thư cho Trương Lương?
Biết yên biết lo: Sách Đại Học viết: “Có
biết chỗ đáng đứng mà đứng thì tâm mới định, có định thì mới tĩnh
được, có tĩnh thì mới yên được, có yên thì mới lo lắng, có biết lo
lắng mới hiểu được làm được”.
Phi thanh, phi tưởng : chữ nhà Phật, kinh Bát Nhã Ba La Mật.
Đức tuệ, thuật trí: sáng suốt về đạo
đức, khôn khéo về thuật nghiệp. Sách Mạnh Tử: “Người ta mà có được
đức tuệ và thuật trí, thường là ở lúc tai nạn”. Trong bức thư Ngô
gừi kèm bài thơ có dẫn câu này lên đầu.
Bậc đạt giả: ám chỉ Ngô là người thấu lý
lẽ trong trời đất, nên cư xử rất hợp tình hợp lý, khác hẵn người
thường.
Bôn tẩu trong bụi hồng lại họp nhau ở nhà
này. Bụi hồng là chốn phồn hoa náo nhiệt hay tranh danh đoạt lợi.
Đường đời gian nan gấp mấy đường Diệm Dự. Tên một khúc sông tỉnh Tứ
Xuyên có nhiều thác sâu, đá ngầm, nước xoáy rất dữ hay làm đắm
thuyền bè. Học đến tính tình, phải cần định tĩnh. Thân dính danh
lợi rất đáng lo âu. Lòng đạo như trăng soi xuống nước lạnh. Lòng trong
sáng hợp với nghĩa lý là đạo tâm. Nó đối lập với nhân tâm, lòng
người thường. Xuất xứ trong thiên Đại Vũ mô trong Kinh Thư. Việc đời
như đám mây nổi gần mặt trời. Biến đổi bất thường nhanh chóng. Lời
lan, lời bạn thân mấy câu, trân trọng cùng khuyên nhủ nhau. Cảnh già
đến, mùi thiền lại là phương thuốc hay.
Rong ruỗi bụi hồng
họp một nhà,
Gian nan đường hiểm
Dự ghềnh qua,
Tính tính hiểu thấu
lòng yên tỉnh,
Danh lợi vào vòng,
ta nghĩ xa.
Lòng tựa nước sâu
soi Nguyệt bóng,
Việc đời mây nổi
cạnh Trời loà.
Lời lan mấy chữ
cùng khuyên nhủ,
Mùi thiền thuốc
quý giúp đời già.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Hồng trần bôn
tẩu tụ tư đường,
Thế lộ gian thâm
kỷ Dự đường.
Học đáo tính
tình, tu định tỉnh,
Thân quan danh lợi
tối chu chương.
Đạo tâm minh
nguyệt lâm hàn thủy,
Nhân sự phù vân
bạn xích dương.
Trân trọng lan
ngôn đồng miễn lệ,
Vãn lai thiền vị
hữu đan phương.
BÀI 13
Nguyên dẫn: Trong
bức thư vừa rồi, được thai huynh nói về tài sáng suốt, đoán trước
việc đời của Đào Chu Công cùng Lưu Hầu, Nghiệp Hầu. Đệ thấy những
sự tích đã quá lâu ấy nay không thể vói tới. Chúng ta hay làm hay
nghỉ là phải tùy thời, cốt sao không thẹn với lòng, không trái với
mình, tu dưỡng thành đạo đức, sự nghiệp, để không phụ cái thông minh
mà tạo hóa phú cho, là đủ rồi. Kính họa theo mấy vần trước, mong
được chỉ giáo.
Đào Chu Công: Đời Xuân Thu, Phạm Lãi giúp
Việt Vương Câu Tiễn phá nước Ngô báo thù. Khi thành công rồi Câu Tiễn
tôn làm Thượng Tướng Quân. Phạm Lãi xem tướng Câu Tiễn là người bạc,
chia xẻ lúc gian khổ nhưng không thể sống chung lúc phú quý, nên bỏ
quan, đổi họ tên là Đào Chu Công, mang Tây Thi đi tiêu dao ở Ngũ Hồ.
Lưu Hầu tức Trương Lương, người nước Hàn.
Khi Hàn bị Tần diệt ông theo phò Hán Cao Tổ bày mưu tính kế. Diệt
được Tần, Sở, được phong làm Lưu Hầu. Thấy việc báo thù đã thành
công ông từ quan đi tu tiên. Các đại công thần khai quốc như Hàn Tín ớ
lại đều bị diệt tru di ba họ.
Nghiệp Hầu là Lý Bí người nhà Đường là
người có tài, qua các triều vua Huyền Tông, Túc Tông, Đại Tông đều
được trọng dụng song bị triều thần dèm pha nên phải từ quan, đến đời
Đức Tông được phong tước là Nghiệp Hầu.
Đầu mối đạo lý thấy rõ ràng như trăng soi
trước nhà. Mơ tưởng, dục vọng tiêu tan như tuyết rơi mặt đường. Dám
mong như Đào Tĩnh Tiết ở Bành Trạch. Đào Tiềm đời Tấn làm quan Tri
Huyện Bành Trạch chưa đầy ba tháng, cho là phải khuất phục, bỏ quan
về làm ruộng, lấy việc ngâm thơ, uống rượu, thưởng hoa cúc làm vui.
Vẫn muốn như Hạ Tri Chương với Kính Hồ. Hạ người đời Đường làm quan
thanh liêm, khi cáo lão, được vua cho một phần Kính Hồ làm nơi du
ngoạn. Chất như cây bách già đã vượt qua mùa sương lạnh. Cây tùng
bách mùa Đông không rụng lá, người ta thường dùng để nói tiết kiên
trinh. Lòng tựa án mây nhàn đi ra từ phía Nam núi. Quân tử giữ mình
cho đúng khuôn phép. Cần gì phải nói những chuyện viễn vông xa xôi.
Hiểu đạo lòng trăng
sáng khắp nhà,
Dục như tuyết xuống
sẽ tiêu ma.
Đâu Đào Tĩnh Tiết
mơ Bành Trạch,
Vẫn Hạ Tri Chương
với Kính Hồ.
Tính tựa bách gìà
qua sương giá,
Lòng như mây nhẹ
núi Nam
qua.
Quân tử giữ mình
cho đúng phép,
Cần chi nói chuyện
viễn vông xa.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Lý đoan thấu
hội, nguyệt doanh đường,
Vật tưởng tiêu ma
tuyết tác đường.
Bành Trạch cảm
hy Đào Tĩnh Tiết,
Kính Hồ do tiễn
Hạ Tri Chương.
Chất đồng cổ
bách lăng sương hậu,
Tâm tự nhàn vân
phát lĩnh dương.
Quân tử đề cung,
qui củ phạm,
Khởi tu liêu
khuếch thuyết du phương.
BÀI 14 – 16 (....)
BÀI 17
Nguyên dẫn: Phụng
tiếp được quý thơ gửi đến năm bài cảm hoài của nàng Hồ Dương, tả
được cái u trầm của người đẹp, rất có tinh thần. Thơ có thể nói
được nỗi niềm ai oán thế. Nhân đó lại bắt chước làn năm bài ”Hồ
Dương ngũ lộng”, năm thú đùa của nàng Hồ Dương. Đem hết ý thương
hương, tiếc ngọc điểm xuyết ra từng tầng từng lớp. Nếu có tay họa
sĩ nào miêu tả được mười cảnh u sầu của nàng Hồ Dương, thảo mấy
bài thơ của đệ lên trên, để dành làm một cuốn tranh phong tình quí
báu sẽ bán cho các tao nhân xem sao. Rất mong thai huynh chỉ bảo.
Trăng bạc soi vào ngôi nhà gấm vóc. Ánh
trăng vằng vặc lóng lánh trong ao. Tiếng thu năm canh dục đêm qua nhanh.
Sắc mây chín tầng tô điểm bầu trời thêm đẹp. Bóng chiếc bồi hồi,
vứt mộng thanh nhàn. Trăng tàn le lói, sợ nắng ban mai. Muốn bày tỏ nỗi
sầu tới cung trăng. Chị Hằng trốn rồi biết tìm nơi đâu?
ĐÙA TRĂNG
Trăng bạc chiếu soi
nhà gấm vóc,
Ánh trăng vằng vặc
sáng trong ao.
Tiếng thu giục giã
năm canh mộng,
Trời đẹp sắc mây
chín lớp cao.
Chiếc bóng bồi hồi
nhàn rũ mộng,
Trăng tàn le lói
ánh mai vào,
Nỗi sầu muốn tỏ
cùng cung nguyệt,
Ai biết chị Hằng
trốn chỗ nào ?
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ nhất. LỘNG NGUYệT
Ngân thiềm khuy
thấu ỷ la đường,
Kiểu phách dung
dung oánh thủy đường.
Ngũ dạ thu thanh
thôi lậu tiễn,
Cửu tiêu vân thái
trác thiên chương.
Bồi hồi cô ảnh
phao nhàn mộng,
Liêu lạc tàn huy
khiếp tảo dương.
Dục hướng nguyệt
cung đề oán tự.
Nga thư bôn hấu
mạc tri phương.
BÀI 18
Sửa lại chậu hoa đưa vào trong nhà. Hồng
tươi tía thắm vượt qua ao lạnh. Mơ được cười theo hoa đào vườn cấm. Ý
thơ Thôi Hộ: “Nhân diện bất tri hà
xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu Đông phong.” Nguyễn Du trong Kiều: “Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào
năm ngoái còn cười gió Đông”. Mòn mỏi trông chờ cây đồng thêm xanh.
Mang mác lan thơm mọc trong hang biếc sâu. Lã lơi liễu yếu lay ánh
chiều tà. Mười năm bớt bỏ hương vị đậm đà. Cắt nhị xuyên hoa, quên
cách thức xưa.
ĐÙA HOA
Chăm chút chậu hoa
mang lại nhà,
Hồng tươi tía thắm
lạnh vừa qua.
Mơ cười theo ánh
đào vườn thắm,
Mòn mỏi chờ cây
xanh trổ hoa.
Man mác lan thơm
hang biếc mọc,
Lả lơi liễu yếu ánh
chiều tà.
Mười năm bớt đậm đà
hương vị,
Cắt nhị hoa quên
cách thức xưa.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ nhị
LỘNG HOA
Kiểm điểm hoa nhi
nhập hộ đường,
Yên hồng kiều tử
độ hàn đường.
Mộng tùy cấm
uyển đào hoa tiếu,
Vọng đoạn giao
nguyên bích thụ chương.
Liểu liểu phương
lan sinh thúy cốc,
Y y nhược liễu
đới tàn dương.
Thâm niên tỉnh
khước nùng hương vị,
Tiễn nhị xuyên
hoa thất cựu phương.
BÀI 19
Vật báu cũ chỉ còn tấm gương trong nhà.
Soi bóng khắp của sổ, bàn ghế đến tận bờ nước ao. Nét mặt tiêu
điều thấy gầy đi ba phần. Trang phục đơn sơ, khó phô được vẻ năm màu.
Bóng loan cô đơn đã lâu lấy ai làm bạn. Hoa lăng bị che một nửa chưa
phô ra ánh sáng. Một mảnh thủy tinh lau chùi mãi luôn. Đẽo hết vòng
tròn, gọt hết bề vuông.
III. ĐÙA VỚI GƯƠNG
Vật báu trong nhà
chỉ tấm gương,
Soi bàn, soi cửa
tận ao vườn,
Ba phần tiều tụy
gầy gương mặt,
Năm sắc đơn sơ khó
phục trang.
Cô độc tấm gương ai
bạn nhỉ ?
Nửa che hoa ấu sáng
vầng dương.
Thủy đình một mảnh
lau chùi mãi,
Đẽo hết hình tròn,
gọt nét vuông.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ tam LỘNG KÍNH
Cô bảo duy dư
kính tại đường,
Chiếu cùng soi
kỷ đáo từ đường,
Điêu nhan dũ giác
tam phân sấu,
Đạm phục nam thi
ngũ thái chương.
Loan ảnh cửu cô
thùy tác lữ,
Lăng hoa bán yểm
vị khai dương.
Ngân tinh nhất
phiến tần ma thức,
Ngoan tận viên
qui, trác tận phương.
BÀI 20
Khung cửi dệt gấm bày ra trong nhà thảnh
thơi. Tiếng thoi đưa như mưa sầm sập bên ao. Dấu kín hòn đá Chi cơ khó
hỏi thầy bói. Sách Hán Thư: Trương Khiên đi tìm nguồn sông Hoàng Hà,
cưỡi bè qua một vùng, thấy thành quách như châu huyện. Trong một nhà
có cô gái ngồi dệt cửi, lại gặp một chú chăn trâu bên bờ sông. Cô
gái dệt cửi tặng cho một hòn đá Chi cơ dùng kê khung cửi. Trương Khiên
mang về, sau có đem hỏi thầy bói. Vì đỉển tích này người xưa thêu
dệt cho rằng sông Hoàng Hà bắt nguồn từ sông Ngân Hà trên trời, Trương Khiên cưỡi bè qua các tinh tú gặp
Ngưu Lang, Chức Nữ. Lý Bạch bài Tương Tiến Tửu: “Anh có thấy nước
sông Hoàng Hà từ trên trời xanh chảy xuống ra biển khơi rồi chẳng bao
giờ trở lại.”. Tứ mới của bài Hồi Văn ngại chắp thành câu. Đời
Tần, Đậu Thao đi lính thú xa, vợ là Tô Huệ dệt bài thơ Hồi Văn vào
gấm dâng lên vua để xin cho chồng về. Ngày kéo dài thêm buồn trên miền
Tây. Mùa hạ mặt trời đi trên đường bạch đạo ở phương Tây, gọi là Tây
lục, nên ngày dài ra. Gió đưa tiếng chuông lạnh nhớ lầu Cảnh Dương.
Tích Tề Vũ Đế có treo chuông trên lầu Cảnh Dương, để cho cung nhân nghe
tiếng chuông dậy sớm trang điểm. Buồn nhất là khi cùng sao Chức Nữ
trong cảnh vắng vẻ. Sao Ngưu Lang cạnh bến man mác ở phương nào?
IV. ĐÙA VỚI NGHỀ DệT
Khung dệt gấm bày
nhà thảnh thơi,
Ao mưa sầm sập
tiếng đưa thoi.
Dấu đá Chi Cơ xem
khó bói,
Tứ mới Hồi Văn ngại
viết lời.
Ngày kéo sầu dài Tây Lục xứ,
Gió đưa chuông lạnh
Cảnh Dương đài.
Buồn Sao Chức Nữ
khi hoang vắng,
Man mác Ngưu Lang
biết hỏi ai ?
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ tứ
LỘNG CHỨC
Cẩm cơ tháp xuất
yến nhàn đường,
Phao trịch thoa
thanh vũ giát đường.
Chi thạch bí
tùng nan vấn bốc,
Hồi văn tân tứ
lãn thành chương.
Nhật thiêm trường
tuyến sầu Tây Lục,
Phong độ hàn
chung ức Cảnh Dương.
Tối thị Chức
tinh đồng tịch mịch,
Khiên Ngư chữ bạn
điếu hà phương ?.
BÀI 21
Bồn chồn gió lay bức mành nơi nhà gấm.
Gảy tiếng đàn mới vang tới ao cỏ thơm. Tiếng đàn gây cảm hứng vần
thơ tuyệt tác: “Trì đường sinh xuân thảo” của Tạ Huệ
Liên. Tiếng rộn rịp hòa với âm điệu trong trẻo thê lương. Ngón tay thon
gầy gảy nên chương thơ yểu điệu. Kinh Thi bài Quan Thư: “Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu”.
Người thục nữ yểu điệu sánh duyên cùng người quân tử. Tiếng đọng
lại trong cầm đài còn lưu câu Bạch Tuyết. Bạch Tuyết là khúc hát
hay, ít người hiểu. Tống Ngọc thời Chiến Quốc trả lời vua Sở: “Khi Sư Khoáng nhạc sĩ tài
năng đất Sính hát các khúc Hạ Lý, Ba Nhân mọi người đều ưa thích,
hàng ngàn người họa theo, đến khúc Dương A, Hệ Lộ chỉ còn trăm người
hiểu và họa theo, đến khúc hát hay Dương Xuân, Bạch Tuyết thì cả
nước chỉ còn mười người hiểu và họa theo.” Vì khúc hát
càng cao, càng hay thì người có trình độ họa được, hiểu được càng
ít. Về sau người ta dùng Bạch Tuyết
để nói về thơ hay. Nỗi buồn lẻ loi của người gửi trong nắng
chiều. Láng giềng ai hiểu được cái chí trong tiếng đàn. Khúc “Non cao
nước chảy” tự phương xa tới.
V. ĐÙA VỚI CÂY ĐÀN
Bồn chồn mành gió
lay nhà gấm,
Dây mới đàn vang
ao cỏ thơm.
Rộn rịp âm hòa
trong áo nảo,
Thanh tao ngón nhẹ
gảy nên chương.
Trong đài Bạch
Tuyết còn vang vọng,
Buồn lẽ tà dương
gửi nắng buông.
Chí khí đàn ai hàng
xóm hiểu,
Non cao nước chảy
tự tha phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ ngũ
LỘNG HUYỀN
Tỷ tỷ phong liêm
quyển tú đường,
Tân huyền khiêu
bát hưởng phương đường.
Phồn thanh sạ
hiệp thanh thương luật,
Tiêm chỉ không
đàn yểu điệu chương.
Cấm dịch di âm
lưu Bạch Tuyết,
Nhân gia cô hận
ký tà dương.
Cách lân thùy
hội cầm trung thú,
Lưu thủy cao sơn
tự viễn phương.
BÀI 22
Nguyên dẫn: Trăng,
hoa, gương, dệt, đàn là vật có thể đùa dỡn, nhưng bóng tỏ của trăng,
hương thơm của hoa, vẻ sáng của gương, thanh âm của đàn của dệt, đó
là đạo lý không thể đùa dỡn được.
Lời chỉ giáo của thai huynh, biện luận cặn
kẽ về đạo lý và khí vật mà cho là không thể đùa dỡn được. Đệ suy
nghĩ mà tìm tòi thấy kiến thức thật sâu xa sáng suốt, nghị luận
thì bao la rộng lớn, phải chăng là đã đi sâu vào Dịch Học đó ư? Nàng
Hồ Dương nếu như biết tìm tòi, nắm từng điểm trong đạo lý, thông
suốt được cả thể và dụng, tất nhiên là cô lĩnh hội được, như ánh
sáng nhận được ở mắt, thanh âm nhận được ở tai, hương thơm nhận được
ở mũi. Nhận được đủ ba cái đó, nàng Hồ Dương đem những điều thu
nhận được ở mắt, tai, mũi rồi thể hiện ra ở lời nói, như vậy thì
đem những điều tìm tòi suy nghĩ ở trong lòng thì không điều gì là
không thấu triệt. Há chịu bó buộc về khí là thứ hình nhi hạ nữa.
Kính cẩn nghĩ thay nàng Hồ Dương ba bài thơ
“tâm đắc” dâng tới mong thai huynh đính chính cho. Đó là cùng với bậc
hiểu đạo bàn luận, gọi là giúp nàng Hồ Dương cho xong vụ án.
Hình nhi hạ: thuật ngữ triết học chỉ vật
chất. Khổng Tử chia triết học làm hai phần: Hình nhi thượng và Hình
nhi hạ
Mặt trăng như gương vẽ soi vào nhà
trống. Thấy được ánh sáng soi thấu
lòng ao. Bóng quế tròn trặn tỏa xuống nhà đẹp. Hoa lăng lóng lánh
bút thảo nên thơ. Ánh sáng soi vách phấn giữ lại bóng người. Đêm
lặng màn the chuyển sang ban mai. Ước gì được bạn loan phượng nâng án
ngang mày. Sách Hán Thư: Vợ Lương Hồng là Mạnh Quang, người xấu nhưng
đức hạnh đáng quí, mỗi khi đưa thức ăn cho chồng đều đặt vào khay
nâng lên ngang mày tỏ ý kính cẫn. Làn sóng thu, ánh mắt giai nhân xem
kỷ phía lễ mạo văn chương.
Bài 1
THƠ VỊNH MẮT
Trăng như gương vẽ
soi nhà trống,
Ánh sáng trong soi
sáng đáy hồ.
Bóng quế đẹp tròn
trăng tỏa bóng,
Hoa lăng lóng lánh
bút nên thơ.
Ánh soi vách phấn
người in bóng,
Đêm lạnh màn the
sáng tỏa mờ.
Ước bạn phượng loan
nâng chén ngọc,
Văn chương lễ mạo
sóng thu ba.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ nhất NHÃN THI
Nguyệt nhan kính
họa chiếu thư đường,
Khán đắc minh
quang triệt chiếu đường.
Quế phách đoàn
viên thiềm thổ diệm,
Lăng hoa yểm ánh
bút tài chương.
Huy khai phấn
bích lưu nhân ảnh,
Lậu tỉnh sa song
chuyển nhật dương.
An đắc tề mi loan
phượng hữu,
Thu ba giáng thục
lễ văn phương.
BÀI 23
Tiếng khung cửi dệt và tiếng làm bạn trong
ngôi nhà thảnh thơi; Âm thanh vang lên quanh quất qua lối nhỏ. Vang động
chiếc thoi đen làm nổi thêm vẻ gấm; Giây đàn lục ý của Tư Mã Tương
Như hiệp với bài ca. Tiếng tù và lạnh lùng kêu vang trong điếm canh
vắng; Gió vàng hiu hắt thổi khi bóng chiều. Ước gì bản đàn cầm sắt
vợ chồng hòa nhịp; Kinh Thi: ‘Phu phụ hào hợp như cổ sắt cầm.’ Vợ
chồng hòa hợp như gảy đàn sắt đàn cầm. Cửa gió đưa lọt những cung
tính tình.
II . THƠ VỊNH TAI
Cung đàn cữi dệt
bạn thanh nhàn,
Lối nhỏ âm thanh
quanh quất vang.
Tiếng động thoi ô
thêu vẽ gấm,
Giấy điều lục ý họa
ca soang.
Tù và lạnh vắng kêu
trong điếm,
Vàng gió hắt
hiu chiều bóng loang,
Cầm sắt ước gì hòa
nối nhịp,
Gió đưa vang khúc
tính tình tang.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ nhị
NHĨ THI
Chức cơ huyền
trụ bạn nhàn đường,
Thính đắc thanh
âm nhiễu kính đường.
Hưởng động ô thoa
thiêm tú sắc,
Ty điều lục ỷ
hiệp ca chương.
Thê thanh họa
giác đề cô điếm,
Tiêu tán kim tiêu
yết vãn dương.
An đắc hòa minh
cấm sắc phả,
Phong môn linh đáo
tính tình phương,
BÀI 24
Không còn sức đùa hoa, đứng tựa bên nhà.
Để hít thở hương thơm thoảng trên ao nước tràn. Hồng non, lục trẻ dậy
mùi khuê các; Lý đẹp, đào giòn rạng vẻ thất gia. Giấc hải đường mê
mệt đáng thương Dương Quý Phi. Vua Đường Minh Hoàng gọi Quý Phi. Phi say rượu chợt thức, vua bảo:
‘Đóa hoa hải đường ngủ chưa đủ giấc hay sao?’. Kiểu trang sức hoa mai
đơn sơ tô điểm vẻ đẹp Thọ Dương. Công chúa Thọ Dương con vua Tống Vũ
Đế, một hôm ngủ dưới gốc cây hoa mai, hoa rụng trên trán lúc ngủ dậy
phẩy không đi. Sao được bạn đồng tâm như hoa lan, hoa tình bạn anh em
thân thiết. Nhờ gió đưa mùi hương ngát vào cuộc sống.
III THƠ
VỊNH MŨI
Không sức đùa hoa
đứng tựa hiên,
Thở hương thơm
ngát cạnh ao vườn.
Hồng non, lục trẻ
mùi khuê các,
Lý đẹp, đào giòn
rạng gia chương.
Giấc hải đường mơ
Phi Tử tỉnh,
Nét mai trang điểm
Thọ Dương xinh.
Đồng tâm tình
bạn hoa lan quý,
Cuộc sống ngát thơm
gió đưa hương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ tam
TỴ THI
Lộng hoa vô lực
ỷ thiên đường,
Lưu đắc phương
hinh nhiễm thủy đường.
Hồng nộn lục
kiều khuê các vị,
Lý nùng đào
chước thất gia chương.
Đê mê đường thụy
lân Phi tử,
Lãnh đạm mai
trang mị Thọ Dương.
An đắc đồng tâm
lan khả khứu,
Bằng phong phức
úc nhập sinh phương.
BÀI 25
Nguyên dẫn: Nay
gặp ngày kỵ của đấng tiên công (Ngô Thì Sĩ), nơi từ đường cúng tế
sực nức hương hoa. Đệ bị cảm không đến chiêm bái được; Xin theo vần
trước cho cháu mang tới kính hầu, mong xét tới cho.
Nền nhân mở rộng thêm nhà Thiệu Văn; Kinh
Thư: ‘Thiệu văn ý đức âm’ nghe thấy mà phục theo cái ý nghĩa của nó.
Bóng hòe xanh tốt rợp quảng đê xưa;. Ý nói con cái sẽ làm nên. Vương
Hựu trồng ba cây hòe ở sân bảo là: “Nay ta chưa làm, sau con cháu ta
tất sẽ làm”. Ba cây hòe ứng với chức Tam Công. Trời đất nung đúc tài
hoa dựa vào đức đời trước. Non sông đưa lại phúc lộc, mang sắc mệnh
triều đình. Tiệc vui gặp lúc thu muộn. Đền Sùng Đức thờ gia tiên họ
Ngô nắng trưa chiếu sáng. Nghĩ đến hiếu mừng thai huynh đáng là bậc
đạt hiếu. Lời dạy của tiên công lấy nghĩa làm phương hướng hành độ
còn mãi truyền. Kinh Thi thơ Hạ Vũ: ‘Vinh ngôn hiếu tư, hiếu tư duy
tắc.’ Luôn luôn nói tới đạo hiếu, nghĩ tới đạo hiếu để làm khuôn
phép. Sách Trung Dung: ‘Vũ Vương, Chu Công kỳ đạt hiếu hồ?.’ Vũ Vương,
Chu Công là người thấu đạt đạo hiếu chăng ?
Nền nhân mở rộng
Thiệu Văn nhà,
Xanh tốt bóng hòe
đê lối xưa.
Trời đất đúc tài
bằng đức trước,
Non sông phúc lộc
sắc triều đưa.
Vui tiệc lúc vào
thu đến muộn,
Sùng Đức đền từ nắng giữa trưa.
Nghĩ hiếu đời nay,
anh đạt hiếu,
Lời dạy tiên công
nghĩa đạo nhà.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Nhân cơ trùng
thác thiệu văn đường,
Hoè ấm thông
thanh uất cựu đường.
Thiên địa dục
tài bằng thế trạch,
Sơn hà lưu khánh
phụng triều chương.
Truy hoan tịch
giới thu dung vãn,
Sùng Đức từ lâm
ngọ vị dương.
Tư hiệu hỉ công
sung đại hiếu,
Miên miên đình
huấn nghĩa vi phương.
BÀI 26(..)
BÀI 27
Nguyên dẫn: Kính
tiếp thơ cùa thai huynh gửi tới, bảo rằng lại được gặp gỡ như lần
trước đây là việc khó, thật là điều cảm động đối vớt thân danh
chúng ta, khúc Đan Dương ở trước mặt, muôn nỗi cảm hoài, nhân đây mà
làm thơ họa lại, mong được soi xét.
Đan Dương là cung điện vua Quang Trung, Đan
Dương từ còn là tên sách do Cát Hồng và Diệp Mông Đắc xướng họa đời
Tống.
Mang phận bút nghiên quan văn từng bước lên
cung điện. Tiếng giọt đồng hồ trong nhà chầm chậm vang trong nhà bạc.
Tiệc vua ban thâu đêm sáng đuốc sen vàng. Ngọn đuốc có đế hình hoa sen
chạm vàng dùng trong cung điện vua. Ở viện Hàn Lâm suốt ngày họa thơ
Bạch Tuyết. Theo Tống Ngọc: Bạch Tuyết, Dương Xuân là khúc hát hay
của Sư Khoáng thời Chiến Quốc, ít người họa được, ở đây chỉ công
việc làm Đông Các học sĩ Viện Hàn
Lâm, nhà bạc nơi cá quan văn soạn thảo biểu chương dâng vua, viết chiếu
lệnh, dâng sách lược bàn luận cùng vua, vai trò cố vấn khó khăn ít
người làm được. Cuộc gặp hiếm trong đời như giao long gặp mưa. Tam
Quốc chí chép: Chu Du dâng sớ nói: “Lưu Bị không phải là con người bị
khuất phục mãi để cho người ta dùng, sợ rằng cũng như loài giao long
nếu gặp mây mưa thì không còn ở trong ao nữa.” Phan cho rằng cuộc gặp gỡ với vua Quang
Trung như rồng gặp mưa. Ứng đối luận bàn trong triều anh minh như
phượng hót phía Đông núi. Kinh Thi: ‘Phượng hoàng minh hỷ, vu bỉ triêu
dương’. Người hiền gặp triều anh minh, nên được bày tỏ chính kiến
thẳng thắng với nhà vua. Rồng kia ví chẳng sớm tới núi Kinh Sơn. Ắt
cần ta vung ngòi bút quét sạch tám phương. Nếu vua Quang Trung chẳng
qua đời sớm, thì ta còn dùng ngòi bút, sách lược tạo nên sự thái
bình trong thiên hạ.
Mang phận bút
nghiên cung điện vua,
Giọt đồng chầm chậm
ngân đường đưa.
Tiệc vua suốt sáng
đuốc sen tỏa,
Ngày họa Hàn Lâm
Bạch Tuyết thơ.
Hiếm có ở đời long
vũ gặp,
Luận bàn triều
chính phượng ca lời.
Kinh sơn nếu chẳng
Rồng khuất núi,
Quét bút tám phương
cần ta thôi.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Hữu phận thao cô
lý điện đường,
Trì trì xuất
lậu xuất ngân đường.
Ngự diên dạ
triệt kim liên trúc,
Tư viện tình canh
Bạch Tuyết chương.
Khoáng thế tao
phùng giao đắc vũ,
Minh đình giảng
hoạch phượng minh dương.
Kinh Sơn bất thị
long lai tảo,
Yếu ngã huy hào
tảo bút phương
BÀI 28
Nguyên dẫn: Trong
lúc cảm nghĩ, sực nhớ quang cảnh ngày lên đường vào Nam, tự nghĩ khi
được vua triệu, lại dùng dằng không đi ngay, mà thấy trong lòng bứt
rứt. Xin nối thêm bài này mong thai huynh xem cho.
Gõ cửa cung mây vào điện đài,
Ruổi rong cỡi
ngựa mãi đường dài.
Thừa minh Tuyên
thất nơi lui tới,
Thiên bảo, Quyền a
tâu thảo bài.
Lũy Thầy gió
cát liền Nhật Lệ,
Hương Giang triều
sóng đến Sông Thai.
Quân thiều nay
chỉ còn trong mộng,
Nhớ mỹ nhân xa
một góc trời.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Thân khấu vân hôn
tử cực đường,
Chinh cơ lịch
lịch giá trường đường.
Thừa minh, Tuyên
thất xu bồi địa,
Thiên bảo, Quyền
a tấu đối chương.
Sài lũy phong sa
liền Nhật Lệ,
Hương hà triều
lịch tự Thai Dương.
Niên lai lũ tác
quân thìều mộng,
Vọng mỹ nhân hề
thiên nhất phương.
Bài 29
Nguyên dẫn: Nay
tới húy nhật tiên công (Ngô Thì Sĩ), tất sẽ sắm sửa lễ vật tiến
cúng. Tôi lâu nay chữa bệnh, hiện còn kiêng sương gió, chưa thể tới
nhà thờ làm lễ được. Vậy xin kính họa bài Nhớ động Nhị Thanh của
thai huynh, để tỏ nỗi lòng cảm mộ, mong thai huynh soi xét.
Động Nhị Thanh ở Lạng Sơn. Khi Ngô Thì Sĩ
làm trấn thủ nơi này, có sai người khắc tượng mình trên vách động
bên cạnh khắc bài văn bia do ông viết. Bài thơ Nhớ động Nhị Thanh của
Ngô Thì Nhậm nhớ bài văn bia của cha.
Mười năm trời chịu ơn nuôi dạy ở trong nhà.
Động tiên nay đã thăm thẳm trên đường đá biếc. Vách núi sừng sửng,
sao rọi lời văn châu ngọc. Ngôi đền chót vót, mây lồng quanh vẻ áo
thêu vẽ nhà vua ban cho. Mấy năm nay chưa chút báo đền công ơn như núi
cao biển rộng. Giặt phơi chỉ còn ngước trông nước Hán, nắng thu. Sách
Mạnh Tử ca tụng việc học: “Như lấy nước sông Hán để giặt, lấy nắng
mùa thu mà phơi.” Nước sông Hán nhiều giặt dễ sạch, nắng mùa thu gắt
phơi dễ khô. Tác giả ý nói vẫn hành động đúng như lời nhạc phụ dạy
dỗ. Nhớ lại ngày trước, việc hầu hạ bên giường chiếu còn nhiều
thiếu sót. Ngậm ngùi trông theo chiếc xe gió đã cách xa tít mù. Nhạc
phụ đã qua đời như đi chiếc xe trong gió bay qua.
Mười năm nuôi dạy
ở trong nhà,
Thăm thẳm động
tiên đường lối xa.
Vách dựng sao soi
lời ngọc báu.
Đền thâm mây phủ
áo văn hoa.
Ơn non đức bể
chưa đền đáp,
Sông Hán giặt
phơi nắng thu qua.
Nhớ trước việc
hầu còn thiếu sót,
Ngậm ngùi xe gió
tít mù xa.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Thập niên ân dục,
xỉ môn đường,
Tiên động du du,
bích thạch đường.
Tiểu bích, tinh
từ, tùy tảo bút,
Nguy từ, vân ủng
cổn hoa chương.
Quyên trần vị
hữu thù sơn hải,
Trạc bộc duy dư
ngưỡng Hán dương.
Diên kỷ khiếm
bồi truy cảm nhật,
Phong biền trướng
vọng liểu minh phương.
Bài 30
Nguyên dẫn: Được
thai huynh cho xem mấy bài thơ “Tiễn thu” hay, đệ vốn kính phục tình
tao nhã, ý tiếc cảnh, dám xin cầm bút nối vần để đáp lại, những
muốn kéo mùa thu mà giữ hương lan, nên tiếp rập khuôn theo vần.
Trân trọng giữ mùa thu lại ngôi nhà phía
Đông. Chưa cho roi vàng ruổi trên đường đê ngọc. Roi vàng: Kim tiên, mùa
thu thuộc hành Kim, nên kim tiên chỉ mùa thu. Sớm Liễu tối Hư nên hiệp
âm luật mùa thu. Kinh Lễ thiên Nguyệt lệnh: “Tháng cuối thu, tối đến
sao Hư mọc ở giữa phương Nam, sáng sớm sao Liễu mọc ở giữa phương
Nam.” Bãi cỏ lan, bờ cỏ chỉ đủ kết thành chương. Phía mây xa, chim
nhạn buổi sớm ngậm hạt móc trong. Khi có tuyết cây thông lạnh ánh
nắng sáng chiếu sáng đẹp. Lặng lẽ ngắm thu ngâm câu thơ hay. Thi đàn
chính là nơi giữ mùa thu lại. Những câu thơ về mùa thu hay tuyệt tác
đã làm mùa thu còn mãi.
I
Mời thu trân
trọng đến nhà Đông,
Chẳng hẹn roi
vàng đến ngọc đường.
Sớm Liễu, tối Hư
cùng hiệp luật,
Bờ lan, cỏ chỉ
kết thành chương.
Mây xa, nhạn sớm
mang sương móc,
Tuyết xuống,
thông soi lạnh bóng dương.
Lặng lẽ nhớ thu
ngâm tuyệt cú,
Thi đàn nơi giữ
chút thu hương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ nhất
Lưu thu trịnh
trọng đáo Đông đường,
Vị hứa kim tiên
giá ngọc đường,
Đản Liễu hôn Hư
tu hiệp luật,
Đinh lan ngạn chỉ
túc ly chương,
Vân biên hiểu
nhạn hàm thanh lộ,
Tuyết hậu hàn
tùng đới diệm dương.
Đạm đãng hoài
thu nga cảnh củ,
Thi đàn chính
thị trụ thu phương.
BÀI 31
Giữ thu lưu luyến tới nhà phía Tây; Chưa
nghe tiếng thu im bặt bên bờ trúc. Thương âm, ‘thương’ ứng với mùa thu
gợi ý bài Tiếng Thu của Âu Dương Tu. Lá rụng sông Ngô giục giả lòng
khách, Thơ Đường: ‘Phong lạc Ngô giang lãnh’, Lá phong rụng sông Ngô.
Hái cúc trên núi Đào cảm hứng nên thơ. Thơ Đào Tiềm: ‘Thái cúc đông
ly hạ’, Hái cúc dưới dậu đông. Gió khua sáo trời, phát ra tiếng vang
buổi sớm. Sách Trang Tử, thiên Tề Vật luận: ‘Nhữ văn nhân lại nhi vị
văn địa lại, nhi vị văn thiên lại phù?’ Người có nghe tiếng sáo người
nhưng chưa nghe tiếng sáo đất, người có nghe tiếng sáo đất nhưng chưa
nghe tiếng sáo trời. Móc dầm trên sân vắng, dưới đất phục sẵn khí
dương; Chính tiếng đàn kia níu giữ
mùa thu ở lại.
II
Mời thu lưu luyến
tới nhà Tây,
Chẳng hẹn thu âm
đến trúc gầy.
Rụng lá sông Ngô
lòng khách giục,
Níu đào hái cúc
hứng thơ đầy.
Gió khua vang sáo
trời trong sớm,
Sương xuống sân
vàng đất khói bay.
Nhớ tiếng thu đưa
dìu dặt điệu,
Tiếng đàn ai gửi
chút thu nay.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ nhị
Lưu thu khiển
quyến đáo Tây đường,
Vị hứa thương âm
bí trúc đường.
Ngô thủy lạc
phong thôi khách tứ,
Đào sơn thái cúc
hứng thi chương.
Phong xao sảng
lại lưu minh hiểu,
Lộ tẩm không
đình địa phục dương,
Tiêu táp hoài thu
xoang dật điệu,
Cầm thanh chính
thị vãn thu phương.
Bài 32
Giữ khẩn hoản mùa thu lại ở nhà phía Nam ; Chưa cho
Huyền Minh thần coi mùa đông hỏi thăm chốn cũ. Tiếng đàn dế quanh nhà
của tạo hóa kêu vang: Dòng chữ nhạn lưng trời, phê điểm văn chương;
Tiếng dây đàn vang ai oán của Chiêu Quân làm Ải Tần, Vạn Lý Trường
Thành vang động. Quạt gặp lúc trời mát xui người cung Thượng Dương
oán hờn. Thơ Bạch Cư Dị: ‘Thượng Dương bạch phát nhân’. Đời Đường Minh
Hoàng. Dương Quý Phi được vua yêu, cung Thượng Dương, Mai Phi và các cung
nữ khác oán hờn vì vua không còn đến nữa. Nhớ trời thu trong sáng
rót chén rượu trong; Tiệc rượu này chính là nơi níu kéo cảnh mùa
thu.
III
Mời thu khẩn
khoản đến nhà Nam,
Chẳng hẹn Huyền
Minh chốn cũ thăm.
Bốn vách dế đàn
vang tạo hóa,
Lưng trời nhạn
điểm chữ văn chương.
Ải Tần rung động
đàn căng tiếng,
Thượng Dương hờn
oán quạt mát lòng.
Trong sáng trời
thu chung rượu trắng,
Cảnh thu vương
vấn tiệc tương phùng.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ tam
Lưu thu khẩn hoản
đến Nam đường,
Vị hứa Huyền
Minh phỏng cựu đường.
Tử bích cùng
cầm minh tạo hóa,
Bán không nhạn
tự điểm văn chương.
Huyền đường kính
xứ kinh Tần tái,
Phiên tại lương
thời oán Thượng Dương.
Sảng lãng hoài
thu châm tố nhưỡng,
Tửu đương chính
thị bạn thu phương.
BÀI 33
Quyến luyến giữ mùa thu tới nhà phía Bắc.
Chẳng chịu để cho Bạch Đế, vị thần làm chủ mùa thu vội lên đường.
Trăng tỏ sao thưa chiến thuyền ôm hận. Tào Tháo khi đem chiến thuyền
đóng trên sông Trường Giang, đêm trăng tỏ sao thưa cắp ngang ngọn giáo
hát lời khẳng khái uất hận. Đầm trong núi tía gấm vóc nên thơ. Thơ
Lý Bạch tả cảnh đầm Đào Hoa. Bóng hạc ngang trời, tỉnh mộng Xích
Bích. Thơ Tô Đông Pha, bài Hậu Xích Bích phú: ‘Thích hữu cô hạc,
hoành giang đông lai.’ Chợt có chim hạc lẻ loi bay ngang sông phía đông.
Tiếng dế nửa đêm chạnh lòng Âu Dương. Bài Thu Thanh phú, Âu Dương Tu:
‘Thùy đầu nhi thụy, đãn văn tứ bích trùng thanh tức tức.’ Cúi đầu
mà ngủ, chỉ nghe tiếng dế nỉ non kêu quanh bốn bức tường. Tình nhớ
thu bồi hồi khôn xiết; Chỉ muốn thu vàng tỏa khắp bốn phương.
IV
Quyến luyến mời
thu đến Bắc đường,
Chẳng cho thần
Bạch Đế lên đường.
Sao thưa trăng tỏ
lòng ôm hận,
Núi tía đầm
trong thơ gấm vương.
Bóng hạc bay tan
mơ Xích Bích,
Đàn dế nửa khuya
chạnh Âu Dương.
Tình nhớ thu
lòng khôn xiếc nỗi,
Chỉ muốn thu
vàng tỏa bốn phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ tứ
Quyến luyến lưu
thu đáo Bắc đường,
Khẳng giao Bạch
Đế sậu đăng đường.
Tinh hi nguyệt
lãng mông đồng hận,
Sơn tử đàm thanh
cẩm tú chương.
Hạc ảnh hoàn
không tinh Xích Bích,
Cùng thanh bán
dạ động Âu Dương.
Bổi hồi bất tận
hoài thu tứ,
Trực dục kim thu
đạt tứ phương.
Bài 34
Mừng thu muốn thăm nhà thưởng ngoạn cảnh
thu. Được thấy ánh trăng thu chiếu trên mặt ao. Bóng Nga tươi đẹp như
gương ngọc ngà. Nhạc tiên giòn giả hòa khúc Nghê Thường. Điệu múa
hát của Lê Viên tử đệ. Đường Minh Hoàng nằm mơ lên cung trăng xem quần
tiên múa hát, tỉnh dậy nhớ lại cùng Dương Quý Phi sáng tác thành
khúc Nghê Thường. Bến Hoàng Nê chở rượu say năm Nhâm Tuất. Tháng 10 năm
Nhâm Tuất, Tô Đông Pha lại đi chơi sông Xích Bích: ‘Nhị khách tùng dư
quá Hoàng Nê.. thị huề tửu dữ ngư phục du.’ Hai bạn khách theo ta đến bến Hoàng Nê..
rồi mang rượu, cá lại chơi sông Xích Bích một lần nữa. Lúc nửa đêm
luyện thuốc thức tỉnh Tử Dương. Tử Dương chân nhân tên là Chu Nghĩa
Sơn, tới núi Mộng Sơn hỏi bí quyết của Tử Cao về thuật trường sinh.
Tử Cao bảo rẳng: “Tên của người đã có trong Đan đài Ngọc thất, lo gì
mà không thành tiên”. Ông trở về luyện thuốc đan sa uống, rồi thành
tiên. Vằng vặc ánh trăng phô vẻ lộng lẫy; Lầu họ Dữu có thể làm nơi
thưởng ngoạn cảnh thu. Dữu Lượng đời Tấn làm quan ở Vũ Xương, đêm
trăng lên lầu Nam ngâm khúc Giang Nam phú tỏ lòng nhớ quê hương.
I
Mời thu muộn đến
viếng thu đường,
Được thấy ánh
trăng hồ biếc vương.
Tươi đẹp gương Nga
vầng ngọc sáng,
Du dương tiên nhạc
khúc Nghê Thường.
Hoàng Nê chỡ
rượu đêm Nhâm Tuất,
Luyện thuốc đêm
tàn thức Tử Dương.
Vằng vặc ánh
trăng phô lộng lẫy,
Lầu Nam Dữu
Lượng cảnh thu phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ nhất
Hỉ thu dục phỏng
ngoạn thu đường,
Ngoạn đắc thu
quang nguyệt chiếu đường,
Nga ảnh thuyền
quyên ngân ngọc kính,
Tiên âm hưởng
lượng vũ nghê chương.
Hoàng Châu tái
tửu hoàn Nhâm Tuất,
Ngọ dạ điều đan
ngộ Tử Dương.
Cảnh cảnh thiềm
huy thu thổ diệm,
Dữu lâu khả thị
ngoạn thu phương.
Bài 35
Mừng thu, muốn thăm ngôi nhà phẩm bình cảnh
thu. Thưởng thức tình thu khi tuyết nhuốm mặt đường. Ruổi lừa trên
cầu Bá Thủy gợi tứ hay cho khách làng thơ. Thi Thoại chép: “Có người
hỏi tứ thơ Trịnh Khải thì ông trả lời: ‘Tại Bá Kiều phong tuyết
trung lư tứ bá thượng.’ Tứ thơ của tôi là lúc ngồi trên lưng lừa trong
gió tuyết ở trên cầu Bá Thủy.” Dừng ngựa ở cửa Lam Quan thành văn
đẹp của kẻ trực thần. Đời Đường, Hàn Dũ bị biếm truất đi làm thứ
sử Triều Châu, khi ông đi qua Lam Quan gặp tuyết xuống nhiều, ngựa không
biết đường đi, ông ngâm thơ: ‘Tuyết ủng Lam Quan mã bất tiến.’ Tuyết
đọng Lam Quan ngựa không tiến được. Sương lạnh xuống không gian thành
mầu bạc. Bình minh che vừng hồng gay gắt. Cồn muối trắng xóa lóng
lánh dưới trời thu; Vườn Lương kia có thể là nơi phẩm bình vẻ thu.
Thơ Đỗ Phủ: ‘Túy vũ Lương viên dạ’. Đêm say rượu múa ở vườn Lương.
II
Mừng thu muốn
viếng phẩm thu đường,
Thưởng thức tình
thu tuyết nhuộm đường.
Bá Thủy ruổi
lừa thi khách hứng,
Lam Quan dừng
ngựa khúc thần chương.
Bầu trời bàn
bạc màu sương lạnh,
Nắng sớm mờ che
khuất ánh dương.
Cồn muối trắng
tinh thu lóng lánh,
Vườn Lương bình
phẩm cảnh thu phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ nhị
Hỉ thu dục phỏng
phẩm thu đường,
Phẩm đắc thu
tình tuyết nhiểm đường.
Bá Thủy khu lư
thi khách tứ,
Lam Quan ủng mã
trục thần chương.
Hàn sương điểm
tựa ngân hồ giới,
Hiểu lậu già
hồi hỏa tản đương,
Kiểu kiểu diêm
đôi thu tích oánh,
Lương viên khả
thị phấm thu phương.
BÀI 36
Mừng thu muốn thăm ngôi nhà đùa cảnh thu;
Đùa được tiếng thu khi mưa trút xuống ao. Chiếc áo kẻ đi muôn dậm,
hồn nhớ đến làng nước. Con thuyền bơi giữa sông trên bóng nước mây.
Khí lạnh đưa cánh chim nhạn quay về Hành Lĩnh. Hành Lĩnh có ngọn
núi Hồi Nhạn Phong, mùa xuân chim nhạn từ phía Nam về đó đậu trên
bãi Bình Sa, sang mùa thu lại bay về phương Nam. Buổi chiều mặc áo tơi
làng chài ra sông Vị Dương, bắc bờ sông Vị, nơi Lã Vọng nhà Chu
thường ra câu cá. Giải mũ ngọc lồng lộng có nước thu giặt sạch; bài
ca Thương Lang, Kinh Thi: Nước sông Thương Lang đục thì ta rửa chân, trong
thì ta giặt giải mũ. Đình Âu Dương có thể là chốn đùa thu. Âu Dương
Tu văn hào đời Tống có viết bài ‘Túy Ông đình ký’ nổi tiếng.
III
Mừng thu muốn
đến viếng thu đường,
Đùa tiếng thu, ao
mưa trút tuôn.
Vạn dậm người đi
thương nhớ nước,
Nửa dòng thuyền
lướt bóng mây vương.
Nhạn về Hàn
Lĩnh trời se lạnh,
Tơi nón Vị Dương
bóng xế buông.
Giải mũ thong
dong thu giặt sạch,
Đùa thu chốn ấy
đình Âu Dương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ tam
Hỉ thu dục phỏng
lộng thu đường,
Lộng đắc thu
thanh vũ tả đường.
Vạn lý chinh san
hương quốc mộng,
Bán giang du khả
thủy văn chương.
Hàn xung nhạn
thỉ quy Hành Lĩnh,
Vãn phóng ngư soa
xuất Vị Dương.
Lạc lạc châu anh
thu tẩy tịnh,
Âu đình khả thị
lộng thu phương.
BÀI 37
Mừng thu, muốn hỏi thăm nhà thưởng thức
cảnh thu; Thưởng thức lòng nhớ thu khi nước dâng tràn ao. Dòng đầy
trong veo như sắc ngọc lê; Gợn sóng lóng lánh, tựa vẻ gấm thêu. Buồm
loan soi ngược bóng nước trong nghìn đợt sóng trăng. Trên cột buồm có
treo con chim loan bằng gỗ, đuôi chim bằng vải đỏ như lá cờ đuôi nheo,
gió hướng nào chim theo chiều ấy nên gọi là buồm loan. Sáo chài thổi
trong buổi chiều tàn chỉ còn vệt nắng chiều. Mênh mông giòng sông xanh
thu chuyển màu biếc; Bãi sông Tương Giang kia có thể là nơi thưởng
thức cảnh thu. Sông Tương từ phía bắc Quế Lâm chảy vào hồ Động Đình,
các sứ đoàn nước ta Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm đều dùng thuyền đi
trên sông này. Tiêu Tương bát cảnh tả 8 cảnh đẹp trên sông Tiêu Tương.
IV
Mừng thu muốn
hỏi thưởng thu đường,
Thưởng thức tình
thu ao nước tràn.
Lắng đọng nước
trong như sắc ngọc,
Long lanh gợn
sóng gấm thêu chương.
Buồm loan in bóng
trăng nghìn dậm,
Tiếng sáo chài
ngưng vệt nắng tàn.
Bát ngát dòng
xanh thu sắc biếc,
Cảnh thu nơi
thưởng ngoạn sông Tương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ tứ
Hỉ thu dục phỏng
thưởng thu đường,
Thưởng đắc thu hoài
thủy phiếm đường.
Uông phái trừng
ngưng lê hợp sắc;
Tình văn đãng
dạng cẩm thi chương.
Loan phàm tẩm
đáo thiên ba nguyệt,
Ngư địch suy tàn
nhất mạt dương.
Diểu diểu hám
lưu thu dạng bích;
Tương châu khả
thị thưởng thu phương.
BÀI 38
Mừng thu muốn hỏi thăm ngôi nhà ngắm thu;
Ngắm được dáng thu cây ở bên ao. Móc điểm hoa cúc thành muôn hạt châu.
Mây lồng bóng cây thông nổi nghìn vẻ biếc. Thơ khuê các đề vào lá
buông theo dòng nước. Tích Hồng diệp lương môi, lá đỏ người mối tốt:
Hàn Thúy Tần cung nữ thời Đường Hy Tông đề thơ vào chiếc lá đỏ thả
theo dòng ngự câu, chàng thư sinh Vu Hựu nhặt được trả lời theo dòng
nước chảy vào cung, nhân dịp vua thải ba nghìn cung nữ, Hàn gặp Vu
kết thành vợ chồng. Sáo mục đồng xuyên qua rừng tiễn đưa bóng chiều.
Cành cao vươn lên được khí thu chung đúc; Núi Nam có thể là nơi ngắm
cảnh thu.
V
Mừng thu muốn
hỏi viếng thu đường,
Ngắm dáng
thu cây bên ao vườn.
Móc điểm cúc
thành châu vạn hạt,
Mây lồng thông
nổi biếc xanh ngàn.
Thơ khuê theo lá
trôi giòng nước,
Sáo mục xuyên
rừng tiễn ánh dương.
Chung đúc khí thu
cây vút ngọn,
Núi Nam nơi ngắm
cảnh thu phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ ngũ
Hỉ thu dục phỏng
diếu thu đường,
Diếu đắc thu dung
thụ sáp đường.
Lộ xuyết cúc anh
châu vạn điểm,
Vân lung tùng cải
bích thiên chương.
Khuê thi đề diệp
tùy lưu thủy,
Mục địch xuyên
lâm tống tịch dương.
Đĩnh đĩnh kiều
kha thu dục tú,
BÀI 39
Nguyên dẫn: Vừa
nghe quý sảnh bị mệt, đang phải điều trị, kính chúc chóng lành.
Hiện nay ở thành công việc bề bộn cấp bách, mong xe thai huynh tới
sớm để giúp cho mọi việc giao tiếp được thỏa lòng người trông vào.
Đó là điều tha thiết mong thai huynh chú ý. Tinh thần tình cảm của
chúng ta cùng với nguyên khí thái hòa chu toàn cho nhau, lòng thành
khôn xiết, mạnh mẽ không ngừng, anh hoa tinh túy vẫn không suy suyển.
Còn khí huyết trong cơ thể hoặc bị phong sương trêu cợt, thì cũng vẫn
là chuyện có thể đùa cợt được, nhưng đạo thì không thể đùa cợt
được. Bậc chí nhân có thể hội được cái đạo. Cần gì phải dùng tới
lời lẽ mơn trớn. Kính theo vần cũ, làm thơ thay lời vấn an, mong thai
huynh soi xét cho.
Nhuần nhã như ngọc, vững chắc như núi rất
đường hoàng; Không thể đem sánh với tuyết nguyệt thanh hư. Đi đúng
khuôn phép thực đụng đạo lý; Phun châu nhã ngọc thảy đều là văn
chương. Tùng bách xanh tốt già giặn vượt qua năm rét; Duyên hống luyện
đan đã thành, nuôi khí dương mạnh. Duyên là chì hống là thủy ngân,
nhà Đạo ngày xưa dùng hai vị này luyện thành thuốc trường sinh, do
đó người ta dùng hai chữ này nói bóng là phương thuốc tiên. Kiến
thức ngày nay chúng ta biết chì, thủy ngân, vàng là những chất cực
độc cho cơ thể, Tần Thủy Hoàng vì nghe lời các Đạo sĩ dùng thuốc
này nên đã sớm “quy tiên”. Huyết khí như huynh không cần thuốc. Giữ
mình sẵn có phương Thái hòa rồi. Thiệu Ung thời Tống uống rượu điều
độ, ông gọi rượu là “thái hòa thang”, tác giả muốn nói điều độ là
phương thuốc tốt.
Ngọc nhuần non
vững dáng đường đường,
Chẳng sánh như
trăng tuyết vô thường.
Đi đứng phép
khuôn theo đạo lý,
Phun châu nhã
ngọc thảy văn chương.
Bách tùng già
vượt qua cơn rét,
Duyên hống luyện
đan nuôi khí dương.
Huyết khí anh
không cần đến thuốc,
Giữ mình sẵn có
Thái hòa phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Ngọc ôn, sơn trĩ
tối đường đường,
Bất tỉ thanh hư
tuyết nguyệt đường.
Toàn củ hành quy
chân đạo lý,
Khái châu thóa
bích tẫn từ chương.
Bách tùng thương
lão lăng hàn tuế.
Duyên hống đan
thành dưỡng kiện dương.
Vinh vệ như công,
tri vật dược,
Bảo cung nguyên
hữu thái hòa phương.
BÀI 40
Nguyên dẫn: Nghĩa
lý thánh hiền đưa ra, phần nhiều mượn tình nam nữ để mở đầu. Nếu
không nghiên cứu cùng cực ý sâu xa của kinh truyện thì sao mà biết
được. Chúng ta do cảm xúc truyện nàng Hồ Dương mà làm, góp nhặt
được nhiều bài, đại để mượn đề tài khởi hứng để bày tỏ tấm lòng,
song qui tụ tại vẫn không vượt ra ngoài đạo lý đó. “Năm bài sở cầu của nàng Hồ Dương” (Cầu minh, Cầu hương, Cầu
quang, Cầu thanh, Cầu âm) mà thai huynh gửi cho trước đây và “Ba bài sở
đắc” của nàng Hồ Dương (Nhãn thi, Nhĩ thi, Tỵ thi) do tôi nối thêm đã
giải bày được đầy đủ ý đó. Nay tôi lại tiếp được quí thư nối thêm
cái ý “hữu dư, bất tận”, nói đi nói lại biện bạch rõ ràng, ân cần
điềm tỉnh con mắt mù quáng của kẻ kiến thức nông cạn, đó chính là
thai huynh đã đem nghĩa lý văn học, nhận làm điều lo lắng của mình
rồi sáng tác thành “Ngũ khởi” trong Ngũ kinh,
phát huy được nghĩa lý kinh ra rộng rãi, đủ để hưng khởi tình người.
Tôi liền nghĩ thêm bốn bài thơ, đầu đề rút trong truyện, nối điêu
kính trình, hoặc giả có thể biên thành một tập tóm tắc về ý nghĩa
kinh truyện để công bố với người đời chăng? mong xét kỹ.
Ngũ Khởi: năm kinh Khổng Tử san định đều
mượn tình nam nữ để khởi đầu : 1. Kinh Thi khởi đầu bài: Quân tử hảo
cầu. 2. Kinh Thư khởi: Nhị nỡ ly gián. 3.Kinh Dịch khởi: Đế Ất qui
muội. Kinh Xuân Thu khởi: Văn Khương hội Tề Hầu. Kinh Lễ khởi: Nội tắc
thiếp tuy lão niên vị ngũ thập tất nghi ngũ nhật chi ngự.
Nối điêu: Điêu là một loài chồn đuôi to lông
dài. Xưa ờ Trung Quốc những quan hầu bên vua trên mũ có đuôi điêu. Đến
đời Triệu Vương Luân cướp ngôi Tấn, dùng nội thần nhiều quá quan chức
có đuôi điêu đầy triều, người đời chế diễu: Đuôi điêu không đủ phải
nối đuôi chó vào. Đời sau người họa thơ thường tự khiêm nhường: Tục
điêu (nối điêu).
Trang phục lộng lẫy bạn với chốn buồng
the. Nào phải hoa tàn vất trong ao hẻo lánh. Tính nết quân tử đâu phải
đôi mắt lạnh lùng. Cái nhìn và nụ cười mỹ nhân đều có vẻ xinh đẹp.
Mối duyên tốt ưa chuộng mong sao về với ta. Ý chân thành không dối trá
dám đâu che đậy. Thánh hiền dạy rõ cái tình yêu ghét chân thật. Từ
lòng chân chính suy ra cho phép trị nước bình thiên hạ.
Bài thơ này phá bỏ những hiểu lầm về
người quân tử với sắc đẹp phụ nữ. Người quân tử không lạnh lùng với
sắc đẹp, người phụ nữ khi có chồng cũng không buông thả bỏ lún sắc
đẹp mình như hoa tàn trôi trên ao; trái lại phải biết trang phục lộng
lẫy, ánh mắt nụ cười vui tươi xinh đẹp với chồng. Yêu chuộng mong mối
duyên tốt lành. Ý chân thành không dối trá che đậy. Thánh hiền dạy
yêu ghét chân thật. Người quân tử có : Cách vật, Trí tri, Chánh tâm,
Thành ý giỏi Tề gia mới Trị quốc, Bình thiên hạ được.
SÁCH ĐẠI HỌC NÓI : NHƯ THÍCH SẮC ĐẸP
Phục trang lộng
lẫy bạn liêm đường,
Chẳng phải hoa
tàn ao vắng tanh.
Quân tử tình không
đôi mắt lạnh,
Mỹ nhân môi nở
nụ cười xinh.
Đáng yêu duyên
tốt cùng ta đến,
Không dối chân
thành đâu dám che,
Yêu ghét thật
chân hiền thánh rõ,
Tự lòng suy mới
Trị Bình Thiên.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
ĐẠI HỌC : NHƯ HIẾU HẢO SẮC
Nùng trang xiển
phục bạn liêm đường,
Bất thị tàn hoa
ủy tích đường.
Quân tử tính
tình phi lánh nhãn.
Mỹ nhân miện
tiếu hữu hoa chương.
Thiện đoan khả
thượng cầu quy ngã,
Thành ý vô khi
cảm yểm dương.
Hiền truyện hiếu
minh chân hiếu ố,
Tâm quynh suy đáo
Trị Bình phương.
BÀI 41
Sách Trung Dung nói: Người quân tử khởi đầu
từ đạo vợ chồng. Bắt đầu từ khuê phòng ra đến cổng nhà. Muôn nghìn
lối đều bắt đầu từ đường đó. Vui tiếng chuông, bạn tiếng đàn lòng
trước hết ngay thẳng. Kinh Thi thơ Quan Thư: Yểu điệu thục nữ, cầm sắt
hữu chi.. Yểu điệu thục nữ, chung cổ lạo chi.
(Cô gái yểu
điệu, cùng tiếng đàn cầm, đàn sắt làm bạn với cô.. cô gái yểu
điệu, cùng tiếng chuông tiếng khánh làm vui lòng cô.) Đi đúng khuôn,
làm đúng thước, đức luôn luôn sáng láng. Bản thể của đạo lưu hành
đầy cả trời đất. Máy tạo hóa vận động là hai khí âm dương. Lời nói
hiền giả, chỉ rõ cái ý chi; bay cá nhảy. Người hiền chỉ vào Tử Tư
người xưa cho là tác giả sách Trung Dung. Sách Trung Dung viết: Đạo
của người quân tử rộng mà bí ẩn.. Kinh Thi có câu: Chim bay trên trời
cao, cá nhảy vực sâu. Là ý nói trời ở trên, đất ở dưới rất rõ
rệt. Nghĩa lý tinh vi nên tìm chỗ rộng mà bí ẩn.
SÁCH TRUNG DUNG NÓI:
NGƯỜI QUÂN TỬ KHỞI ĐẦU TỪ VỢ CHỒNG
Khuê thất khởi
đầu đến cổng nhà,
Muôn đường vạn
lối bắt đầu ra.
Vui chuông cầm
sắt lòng ngay thẳng,
Đi đứng thước
khuôn đức sáng lòa.
Bản thể đạo lưu
hành vũ trụ,
Âm dương khí tạo
hóa điều hòa.
Chim bay cá nhảy
lời hiền giả,
Nghĩa lý tinh vi
rộng thấu xa.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
TRUNG DUNG: QUÂN TỬ CHI ĐẠO TẠO ĐOAN HÔ PHU
PHỤ
Khuê thất đoan
nghê xuất hộ đường,
Thiên kỳ vạn
triệt khởi sơ đường.
Lạo chung hữu
sắt tâm tiên chính,
Đạo củ tuần quy
đức nhật chương.
Đạo thể lưu hành
sung thượng hạ,
Hóa cơ manh động
lưỡng âm dương.
Hiền ngôn chỉ thị
diên ngư chỉ,
Tinh nghĩa tu cầu
phí ẩn phương.
BÀI 42- 43 (...)
BÀI 44
Nguyên dẫn: Tiễn
thu, lưu thu, tiếc thu, mừng thu: chúng ta đối với mùa thu rất chí
tình đâu chỉ một ý mà thôi. Ý của thai huynh lại ngâm thành 5 bài.
Cầm, kỳ, thi, họa, tửu và lấy cái ý ‘đón thu về’ để khởi hứng.
Tình quyến luyến đối với mùa thu thật tha thiết.
Đệ trộm nghĩ: Cầm, kỳ, thi, họa, tửu,
người ta ai cũng thích, không lúc nào không. Nay mùa thu đã đi, thần Bạch
Đế quay yên ngựa trở về, chẳng sao giữ lại được, ta cũng nên chung vui
cùng thời gian, bất tất pưhải nhớ thu. Vậy nối 5 bài ‘Bất tất’, kể
qua chút niềm quê, mong được soi tỏ.
Thu về bất tất phải tới nhà gảy đàn.
Điệu đàn du dương đưa tới bờ ao cỏ xanh. Tiếng cung, tiếng chủy quyện
nhau nên xoang điệu hay. Cung thương là hai âm nói tóm lại Ngũ âm : cung,
thương, giốc, chủy, vũ. Đàn không hầu theo nhịp phách phổ vào bài ca
mới. Đàn không hầu là cây đàn 25 dây do Hầu Huy sáng chế thời Hán Vũ
Đế. Phong lưu vượt bực tranh với thời Đông Tấn. Thời Đông Tấn có 4 họ
phong lưu phú quý, sành âm nhạc là. Vương, Tạ, Đào, Nguyễn.(Vương
Hoàn, Tạ Linh Vận, Đào Tiềm, Nguyễn Hàm). Thanh luật có thể dâng
trước đấng Thái Dương. Thái Dương chỉ vua Thai đế tức Phục Hy. Sách
Hán Thư: Thai đế sai tố nữ gảy đàn 50 dây; thấy tiếng đàn ai oán bèn
phá đi, chế thành đàn sắt 25 dây.
Vui đời thái bình tiếng đàn thanh thót cả bốn mùa. Thu tàn há thiếu
phương pháp tu dưỡng tính tình.
I
Thu về chẳng
phải đến cầm đường,
Đàn điệu du dương
đến thảo đường.
Cung chủy quyện
nhau nên nhã điệu,
Đàn không nhịp
phách phổ văn chương.
Phong lưu vượt
bậc tranh Đông Tấn,
Thanh luật khôn
dâng đấng Thái Dương.
An lạc bốn mùa
đàn thánh thót,
Thu tàn đâu thiếu
dưỡng tình phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Thu hồi bất tất
đáo cầm đường,
Cầm vận phiêu
dương thúy thảo đường.
Cung chủy tuyển
âm xoang nhã điệu,
Không hầu án
phách phả tân chương.
Phong lưu áp trực
tranh Đông Tấn,
Thanh luật do kham
tiến Thái Dương.
Lạc thế hòa
bình thông tứ tự,
Thu tàn khởi
phạp dưỡng tình phương.
Bài 45
Thu về, bất tất phải tới nhà đánh cờ.
Bóng bàn cờ thấp thoáng bên bờ liễu xanh. Thế cuộc như mây như gió,
người ngoài nhìn thấy rõ. Lối trận nào xe ngựa vẻ thành bản đồ.
Mấy ai nén tình riêng ngồi chơi cờ ở biệt thự trên núi. Sách Tấn
Thư. Tướng Tần là Bồ Kiên đem quân vào cướp phá nhà Tấn. Vua Tấn
phong Tạ An làm Tư Mã giúp tướng Hoàn Ôn đánh giặc. An là người có
mưu lược, khi giặc tiến công mà An vẫn ngồi đánh cờ ở biệt thự trên
núi, nhưng lúc đó An đang nghĩ cách đánh giặc. Sau Bồ Kiên thua to
phải rút chạy, An lập được chiến công hiển hách, được tiến phong đến
hàm Thái phó. Cần gì phải nói tới tay cừ khôi ở Hải Dương. Giai
thoại chép Vũ Huyên làng Đan Luân, huyện Đường An, xứ Hải Dương. Đỗ
tiến sĩ đời Lê là người rất cao cờ. Một hôm vua đánh cờ tiếp sứ
Mãn Thanh, Vũ Huyên được làm vệ sĩ cầm lọng. Ông chọc thủng lọng cho
một đóm sáng lọt xuống bàn cờ để chỉ nước cờ cho vua, kết quả vua
Lê thắng. Nhìn kỷ được thua, để tiêu khiển canh dài. Thu tàn, há
thiếu cách an nhàn. Bài thơ này Phan Huy Ích muốn nói ông tuy quy ẩn
nhưng vẫn lo việc thế sự như Tạ An đánh cờ trên núi. Như Vũ Huyên cầm
lộng giúp vua đánh cờ, người đứng ngoài sáng nước hơn người trong
cuộc.
II
Thu về chẳng
phải đến kỳ đường,
Thấp thoáng bàn
cờ dưới liễu buông.
Thế cuộc gió mây
ngoài thấy rõ,
Trận nào xe ngựa
vẽ thành chương.
Nén lòng cờ vẫn
nơi sơn thự.
Chẳng nói tay cừ
xứ Hải Dương.
Nhìn kỷ được
thua đêm thức trắng,
Thu tàn đâu thiếu
cảnh nhàn phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ nhị
Thu hồi bất tất
đáo kỳ đường,
Kỳ ảnh đê hồi
lục liễu đường.
Cục thế phong
vân, bàng dị liệu,
Trận đồ xa mã
họa thành chương.
Kiểu tình kỳ
đắc vi sơn thự,
Khôi thủ hà tu
thuyết Hải Dương.
Đồ trước doanh
thâu tiêu vĩnh lậu,
Thu tàn khởi
phạp yến nhàn phương.
Bài 46
Thu về, bất tất phải tới ngôi nhà làm thơ.
Tứ thơ trong như làn móc trắng nổi bên đường. Đình vắng bốn mặt, ấy
là chốn ngâm vịnh. Mực mới, vài cuốn giấy đó là thơ xướng thù.
Không đòi hỏi thanh vận phải khéo như đời xưa. Cần làm cho tinh thần
vận động khí dương mạnh lên. Theo năm tháng khách thơ tiêu khiển thi
hứng. Thu tàn há thiếu chốn vịnh ca.
III
Thu về chẳng
phải đến thi đường,
Thi tứ nổi làn
móc trắng vương.
Đình vắng bốn
bề thơ vịnh cảnh,
Vài trang mực
mới xướng thù chương.
Không đòi thanh
vận như đời cũ,
Cần chút tinh
thần mạnh khí dương.
Tao khách tháng
năm tiêu khiển hứng,
Thu tàn há thiếu
chốn ca phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Thu hồi bất tất
đáo thi đường.
Thi tứ thanh phù
bạch lộ đường,
Tứ cố không đình
ngâm khiếu xứ,
Sổ biên tân mặc
xướng thù chương.
Bất tương thanh
vận công cầu cổ,
Yếu sử thần
tình kiện vận dương.
Tao khách tuế
thời câu khiển hứng,
Thu tàn khởi
phạp vịnh ca phương.
Bài 47
Thu về bất tất phải tới ngôi nhà vẽ. Cảnh
như vẻ lóng lánh trên ao sen rực rỡ. Mô tả cảnh xưa nay vào cuốn
tranh. Điểm xuyết non sông thấy trên bản đồ. Tinh thần rồng lân trên
vách muốn sống lại. Bóng hoa cỏ trong động vẫn theo mặt trời. Ngọn
bút đẹp Võng Xuyên để lại thú thưởng thức thanh nhã. Vương Duy đời
nhà Đường thơ hay vẽ giỏi người đời ca ngợi “Thi trung hữu họa, họa
trung hữu thi”, ông có bức tranh vẽ cảnh
Võng Xuyên rất thần kỳ. Trong bài dùng chữ Võng Xuyên để chỉ Vương
Duy. Thu đi rồi lẽ nào không có nơi thưởng ngoạn.
IV
Thu đến chẳng nên
đến họa đường,
Cảnh quang lóng
lánh rực ao sen.
Cảnh xưa mô tả
tranh vào trục,
Sông núi điểm tô
bản thảo chương.
Trên vách rồng
lân thần khí sống,
Trong hang hoa cỏ
hướng vầng dương.
Võng Xuyên bút
đẹp tranh thanh nhã,
Chẳng lẽ thu tàn
chẳng ngoạn phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ tứ
Bất tất thu hồi
đáo họa đường,
Họa quang yểm
ảnh thái liên đường.
Miêu mô kim cổ quy
đồ trục,
Điếm xuyết giang
sơn kiến bản chương.
Bích thượng long
lân thần dục hoạt,
Động trung hoa
thảo ánh tùy dương.
Võng Xuyên diệm
bút lưu thanh thưởng,
Thu khứ ninh vô
triển ngoạn phương.
Bài 48
Thu về bất tất phải tới quán rượu. Hứng
rượu tràn trề trên ao sóng xanh. Món nợ tầm thường của ông Đỗ Phủ
đem áo đổi luôn. Thơ Khúc Giang của Đỗ Phủ: “Khi triều cận trở về
ngày ngày vẫn cầm bán áo xuân”. “Món nợ tầm thường tới đâu cũng
có.”. Tính chân thật của ông già Ôn, uống có phép tắc. Ông già Ôn
tức Tư Mã Quang, cùng với Văn Ngạn Bác và mấy hưu quan già lập Hội
Kỳ Anh ở Lạc Dương, thường uống rượu cùng vui, trọng tuổi nhiều chứ không
trọng chức tước cao. Tỉnh ngộ được giấc mộng hiền thánh ở trên
mình. Sách Tam Quốc Chí : Tiên Vu Phụ nói: Bình nhật đãi rượu khách
ai uống mà tỉnh là thánh nhân, say là hiền nhân. Nuôi khí ấm thái
hòa trong tính. Thiệu Ung thời Tống gọi rượu là thái hòa thang. Mấy
chén rượu ngon tiêu khiển mãi. Thu rồi lẽ nào không có cách khuyên
uống say.
V.
Thu về chẳng
phải đến tửu đường,
Tràn trề hứng
rượu sóng ao xanh.
Nợ thường ông Đỗ
áo đem đổi.
Chân thật già Ôn
uống có chừng.
Hiển thánh mộng
thành khi tỉnh ngộ,
Thái hòa nuôi
dưỡng tính trung dương.
Rượu ngon nâng
chén cùng tiêu khiển,
Chẳng lẽ thu đi
say chẳng khuyên.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Kỳ ngũ
Bất tất thu hồi
đáo tửu đường,
Tửu hoài phiếm
lạm bích ba đường.
Tầm thường Đỗ
trái y tần hoán;
Chân suất Ôn kỳ
ẩm hữu chương.
Hiển thánh ngộ
thành thân thượng mộng,
Thái hòa dưỡng
đắc tính trung dương,
Lục linh kỳ đẩu
trường tiêu khiển,
Thu khứ ninh vô
khuyến túy phương.
BÀI 49
Nguyên dẫn: Tôi
sống trong cảnh buồn kéo dài, không rảnh rỗi để bàn luận về thơ.
Vừa mới đây nhân hứng thu làm thơ xướng họa qua lại, được nghiên cứu
tới chỗ uẩn súc của tính tình. Thai huynh dạy rằng: Những chổ chúng
ta tương đắc, có thể lấy ý mà lãnh hội chớ không thể lấy lời nói
mà truyền đạt. Thật là lời bàn xác đáng. Mong sao chúng ta được tụ
họp ung dung, cùng nhau dò tới nguồn văn, tìm tòi đạo lý, dốc hết
công phu học tập của tuổi già để dạy dỗ con cháu hai nhà. Đó là
cái thú vui thực sự trong ý tưởng của tôi. Xin nối vần cũ, kính đợi
xem cho.
Điểm xuyết màu thu trong mát ở nhà thưởng
hoa cúc. Ống thơ cứ liên tiếp gửi ra đường trạm. Cùng suy ngẫm sửa
nghiêm chỉnh bản tính, bảo tồn tinh thần. Đâu phải học bài chọn
tiếng cho hay, đặt chữ cho tinh luyện. Bút mực không hại gì khi rong
chơi nơi lầu ngọc. Ngọc thự là Viện Hàn Lâm nơi làm việc các quan.
Nhìn khói ráng chiều há phải hỏi thăm đến phía Nam núi Hoa Sơn. Hoa
Sơn là một ngọn núi trong Ngũ Nhạc, Trung Quốc; Trần Đoàn tu tiên ở
đó. Trong bài biểu ông tạ ơn vua Tống sai sứ mang trà và thuốc, có
câu: “Vịnh khiếu nhạt nguyệt chi thanh; Tiếu ngạo vân hà chi biểu.” Ca
vịnh về trong sáng của mặt trời, mặt trăng; Cười bởn bên ngoài cảnh
mây khói. Cõi trần bận rộn mấy khi được vui vẻ xướng họa; Trong ba
mươi năm lại đây kinh lịch mọi nơi. Kinh lịch nguyên văn ‘bạt lý’. Sách
Tả Truyện : Văn công hoàn giáp trụ. Bạt lý sơn xuyên. Văn công mình
mặc giáp trụ, kinh lịch khắp sông núi.
Điểm xuyết tiếng
thu nơi cúc đường,
Ống thơ liên tiếp
gửi bưu đường.
Cùng nghiên chính
tính giữ thần trí,
Chẳng học lời
hay luyện tứ chương.
Bút mực hại gì
nơi Tháp Ngọc,
Ráng chiều ai
hỏi núi Hoa Sơn,
Cõi trần bận
rộn vui thơ họa,
Ba mươi năm đã
bạt ngàn phương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Điếm xuyết thanh
thu thưởng cúc đường,
Thi đồng lạc
dịch xuất bưu đường.
Đồng nghiên chính
tính tồn thần xứ;
Không hiệu công
thanh luyện tự chương.
Hàn mặc bất
phương du ngọc thự.
Yên hà khởi tất
phỏng Hoa dương.
Trần mang ký đắc
canh thù lạc,
Tam thập niên lai
bạt lý phương.
Bài 50
Nguyên dẫn: Phụng
tiếp được tờ sao báo trước có mệnh vua gọi, nghĩ rằng thai huynh vì
ý muốn ở lại của đệ mà phải thân hành đi thay chuyến này. Cả hình
thức lẫn tinh thần đều nhờ cậy đến mức ấy, khiến đệ phải trằn
trọc suy nghĩ. Dám xin nối vần thơ trước để tỏ sẵn tình ly biệt.
Ngoài ra đợi gặp lại sẽ nói hết.
Trạm truyền lệnh ruổi nhanh như gió từ sở
triều chính. Bổng cảm khái kẻ ở người đi trên đê liễu mai. Vương Duy
đời Đường bẻ cành liễu tặng người đi xa; Lục Khải đời Tấn bẻ cành
mai tặng bạn đều có thơ cảm hứng. Biện luận cương giới, tôi đây chưa
tới quan ải được. Vào chầu cửa khuyết anh mang tờ chiếu đi trước. Sao
Khuê, sao Lâu ngoài sông Ngân Hán chầu quanh sao Bắc Đẩu. Sao Bắc Đẩu
ví với vua, sao Khuê, sao Lâu ví các quan. Cây khói cửa Đồng cách hẵn
đất Hàm Dương. Cửa Đồng ớ phía Nam núi Họa Sơn có từ đời Hán. Nơi
ông đang quy ẩn cách xa kinh đô Phú Xuân. Nhà Thừa Minh, Viện Hàn Lâm
bên cung vua nếu được hỏi đến công việc biên giới; thì dám xin đem ấn
bạc, dấu đồng phục chức như xưa.
Như gió trạm
truyền thư chính đường,
Người đi cảm
khái liễu mai buông.
Luận bàn cương
giới tôi chưa tới,
Cửa khuyết vào
chầu anh biểu chương.
Sông Hán, Khuê,
Lâu chầu Bắc Cực,
Cửa Đồng cây khói cách Hàm Dương,
Thừa minh nếu
hỏi việc biên giới,
Thì dám ấn đồng
phục chức chương.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
Bưu mệnh phong
trì xuất chính đường.
Cư hành hổt cảm
liễu mai đường.
Biện cương ngũ
vị xu quan tải.
Cận khuyết công
tiên phụng cáo chương.
Hán biểu Khuê Lâu
hoàn Bắc Cực;
Đồng môn yên thụ
cách Hàm Dương.
Thừa minh tuân
cập biên phong tác;
Cảm bả ngân đồng
phục chức chương.
Qua Cúc
Thu bách vịnh, Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm không hoàn toàn quy ẩn,
bỏ rơi triều Tây Sơn. Họ lui về Bích Câu mở nhà Học dạy con cháu,
soạn sách để tránh sự chuyên quyền của Thái sư họ Bùi, tránh cuộc
tranh chấp giữa tướng Trần Quang Diệu và tướng Vũ Văn Dũng nhưng khi
triều đình cần đến việc ngoại giao với Trung Quốc về biên cương hai
ông đều sẵn sàng đi ra. Khi triều Tây Sơn sụp đổ, vua Gia Long lên ngôi,
Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Nể đều được mời ra để hỏi việc
bang giao đi sứ và họ nhường công việc đi sứ cho thế hệ em, con : Phan
Huy Chú, Phan Huy Vịnh, Ngô Thì Vị, Nguyễn Du. Tầm vóc tư tưởng họ
vượt qua thái độ “Trung thần bất sự nhị quân” cứng nhắc của hủ nho.
Họ không phục vụ cho một triều đại, mà phục vụ cho đất nước Việt
Nam.
Cúc Thu Bách Vịnh là một kiệt tác trong kho
tàng Văn Học Chữ Hán Việt Nam. Thưởng thức những vần thơ Đường luật,
những điển tích văn chương tích lũy kiến thức văn học Trung Quốc;
những bài thơ ngắn gọn súc tích, hiểu những quan niệm người xưa về
cái đẹp, về phụ nữ về thi ca, những trao đổi một đạo sĩ và một thiền sư điều này
thú vị và hiếm có trong kho tàng văn học Việt Nam.
*
PHẠM TRỌNG CHÁNH
Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục
Địa chỉ:, Viện Đại Học Paris V.
Email: phamtrongchanh@free.fr
.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 07.01.2018.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét