CON TIM QUẶN THẮT YÊU ĐỜI - Tác giả: Đặng Hiển (Nam Định)

Leave a Comment

CON TIM
QUẶN THẮT YÊU ĐỜI
*
(Nhà thơ Đặng Hiển)
Bài thơ đầu tiên của tập thơ “Cánh diều bay khao khát bầu trời” đã bộc lộ với ta khát vọng sáng tạo lớn lao của tác giả và cả những thất vọng vì khát vọng không thành. Nhưng trong cuộc đời mỗi người, mấy ai đã hiện thực hóa được ước mơ? Nhưng biết ước mơ và gắng sức thực hiện ước mơ đã là một điều đáng quý rồi. "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên" là lẽ thường. "Thiên" ở đây có thể hiểu là hoàn cảnh, hoàn cảnh của bản thân, hoàn cảnh của xã hội nữa. Trên đời đau khổ nhất, đáng thương nhất là không biết ước mơ, không dám ước mơ. Chử Văn Long là người đã dám ước mơ, ước mơ cháy bỏng và đã thực hiện được một phần ước mơ ấy. Đó là ước mơ sáng tạo thơ ca với 10 tập thơ trong đó có nhiều bài đi vào lòng người như "Người gánh rơm đi vào thành phố", "Ru em giấc ngủ canh tà".
Ở đây tôi chỉ nói về tập thơ mới nhất của anh "Thơ anh - đây sợi vàng ròng". Khi viết về tập thơ này, trong óc tôi cứ luôn luôn ám ảnh hai bài thơ mà tôi vừa nói trên kia.
Tôi biết có 2 nghệ sĩ khóc vợ bằng tác phẩm rất xúc động, đó là nhạc sĩ Thanh Tùng với hai ca khúc hay "Một mình" và "Lối cũ ta về" còn Chử Văn Long với bài thơ "Ru em giấc ngủ canh tà". Tập "Thơ anh - đây sợi vàng ròng" có tới 5 bài thương nhớ người vợ đã khuất: Thuở ấy, Vườn mộng, Đôi guốc võng, Khóc hoa hồng, Sông Hồng dâng lũ. “Đôi guốc võng” là hai cái mốc bằng gỗ hình hơi giống chiếc guốc được mắc vào đinh treo võng lên tường, lên cột. Khi nằm võng đung đưa, từ những chiếc guốc võng ngân lên tiếng kêu kẽo kẹt… Chiếc võng bằng tơ đó, ngày vợ yếu, anh đã mua để mắc cho vợ nằm đón gió trời thoáng mát. Khi vợ mất, chiếc võng đã bị cuộn lại. "Em không còn, võng kia cuốn lại / Mỗi dây tơ một khúc ruột rối vò / Như đời anh chẳng còn gì níu buộc / Đôi guốc võng trên tường thôi kẽo kẹt đung đưa". Hình tượng ở đây không còn là nghệ thuật nữa mà chính là lòng anh, bởi chị chính là dây níu lớn nhất, quan trọng nhất của anh với cuộc đời. Hoa hồng trong bài Khóc hoa hồng cũng vậy, không phải là biểu tượng, là ước lệ nữa mà chính là chị, là trái tim anh, trái tim anh đang nhỏ máu khi nhìn những cánh hồng rơi. "Hoa hồng nở trước nhà, hoa hồng nở / Chỉ mình tôi ngồi với hoa hồng / Thương nhớ em tôi thành người thiên cổ / Từng cánh hoa rơi lệ máu giữa lòng".
Đời thơ Chử Văn Long, còn có tình anh em cũng rất đằm thắm với thi sĩ Xuân Diệu, một tình cảm vượt lên cả tình cảm của một nhà thơ trẻ với một nhà thơ lớn mà mình ngưỡng mộ. Đã hơn 20 năm kể từ ngày Xuân Diệu qua đời, Chử Văn Long đến thăm mộ ông còn như không tin rằng ông đã mất thật. "Em lại đến thắp nén hương trên mộ / Màu cỏ xanh đã phủ kín đất dày / Lại một phút bàng hoàng em nghĩ / Có lẽ nào anh Diệu lại nằm đây?". "Em mang tới đây những bông cúc trắng / Như ngày xưa em mua anh cắm trong bình / Khi đặt xuống giữa nền cỏ biếc / Mới tin rằng đã thật xa anh". Sự thật như niềm day dứt của Chử Văn Long khi: "Ân hận ngày anh còn sống / Tuần một lần em hẹn về thăm / Rồi lỡ hẹn nhiều khi không về được / Giờ thành niềm day dứt trong tâm" (Là thi sĩ). Tôi cảm ơn những mối tình thi sĩ đã tô đẹp cho nền thơ Việt, góp thêm vào sự nở hoa của thơ Việt Nam… Bài "Nhớ tết cùng anh Xuân Dệu chọn mua đào" thì không chỉ là kỷ niệm giữa hai thi sĩ nữa mà còn gợi ra vóc dáng tâm hồn, nhân cách của nhà thơ lớn Xuân Diệu: "Anh nhìn nụ, ngắm chồi, đường cong nét thẳng / Hoa điểm trang từng cành nhánh thưa mau / Anh bảo: "Đào hồng như mâm xôi, đơn điệu lắm / Chọn đào phai cành khỏe thắm hoa lâu”… "Cả Hà Nội thích đào hồng, anh chọn đào phai cho Tết / Đào rừng bây giờ người ta đã đem về xuôi chăm chiết / Hóa cây trong chậu sứ chậu sành / Hoa vẫn hoa xưa nhưng dáng cây đã hết / Vẻ ngang tàng của núi thẳm rừng xanh". "Tết này qua Phố Hoa thêm nhớ anh / Biết tìm anh Diệu nơi đâu cho đỡ nhớ”… "Tìm tới bảo tàng của Hội Nhà văn / Gặp anh nhưng là bức tượng màu son trong ô kính hẹp / (Chẳng hợp với hồn anh buổi đứng trước hoa đào!)… Chử Văn Long đã học ở nhà thơ lớn trước nhất, trên hết là học tâm hồn và nhân cách lớn của nhà thơ! Đoạn cuối bài thơ hoa đào thật hóm hỉnh, đã bộc lộ cách nhìn, quan điểm riêng ở thơ anh!
Mười năm trước đây, tôi có bài viết về Chử Văn Long tựa đề: "Người gánh thơ đi vào thành phố", đồng thời tôi đang biên tập một bài văn của cộng tác viên cũng viết về anh, có tên "Người thơ lạc giữa thành phố". Tôi hiểu người viết ấy thống nhất với tôi ở một điểm: Chử Văn Long là nhà thơ của hồn quê, tình quê say đắm! Ở tập thơ này, những nét vui buồn quê kiểng không chút nhạt phai. Đọc bài thơ: Sông Hồng dâng lũ, con sông đã chở tuổi thơ anh, chở ước mơ anh, chở tình yêu của anh như đang dào dạt: “Nhớ sao con thuyền thúng/ Anh chèo đón em sang / Qua vườn cây bóng lá / Chở trăng đi khắp làng”. Em đã thành vầng trăng mộng mị! "Giờ em nằm dưới đất / Nước ngập mấy thước sâu / Hồn anh nghe nước cuốn / Thêm quặn xé lòng đau!".
Vầng trăng của tình yêu từ thuở ban đầu “như chiếc trâm vàng” anh từng ao ước "Cài lên mái tóc đen dày" của em. Em ngây thơ hỏi anh “vì sao trăng khuyết”. Anh không trả lời được, nhưng "bối rối nhìn em, lòng anh mới biết / Cũng như em đến tuổi trăng tròn". Vầng trăng ấy đã thành "vầng trăng một thuở" vì em đã xa rồi. Nhưng ánh trăng thì vẫn sáng, "sáng hoài, sáng mãi buổi chia li". Xem trong thơ Nguyễn Bính, người vợ trong đêm chồng vinh quy về làng thấy trăng sáng quá "Ai đem trăng sáng dãi trên vườn chè", vì đó là vầng trăng hạnh phúc, nay Chử Văn Long cũng thấy trăng quê sáng quá, sáng đến nhói đau vì nhắc nỗi chia xa… (Thuở ấy).
Như nhiều ngôi nhà ở nông thôn, nhà anh cũng có một khu vườn rất đẹp mà anh gọi là Vườn mộng: "Bốn mùa hoa và cả bốn mùa hương / Chim trời đến chuyền cành cho khách ngắm / Hương theo chân bịn rịn cả thôi đường". "Vườn càng đẹp khi em tôi dạo gót / Chùm hoa buông chạm mái tóc đen huyền / Đôi bướm trắng bỗng từ đâu vỗ cánh / Dưới vòm cây mơ mộng thần tiên"… "Chim hót trên cành, hoa thơm tỏa mát / Nụ cười em ra ngõ đợi tôi rồi"... Nhưng bây giờ chỉ còn chim hót, hoa nở: "Em bỗng bỏ mình tôi ở lại / Bỏ cả hương hoa chim chóc vui vầy". Trăng sáng soi chỉ gợi thêm lòng đau ly biệt!
(Nhà thơ Chử Văn Long)
 Thơ Chử Văn Long không chỉ thấm đẫm một tình yêu, hồn quê là vậy… Trong tập thơ này, anh có tới 5 bài viết về vùng mỏ, về những người thợ mỏ, nơi anh đã có gần mười năm sống với Hòn Gai, giờ trở lại anh không bị choáng ngợp trước một Hòn Gai hiện đại: "Nhà cao loáng nắng ban mai ngỡ ngàng". Mà lòng sống lại với hoài niệm nhớ nhung: "Muốn đi tìm những ngày xưa lấp chìm / Bao nhiêu là nhớ với quên / Chập chờn bay với cánh chim biển chiều”. "Tình tôi gửi trọn phố nghèo / Hòn Gai từ thuở trong veo hồn người".
Trong chùm thơ về vùng mỏ, bài “Hòn than” là một bài thơ triết lí nhân sinh, nêu cao giá trị con người với bản chất lao động, lao động vất vả, lam lũ mà vô cùng quý giá! Mỗi hòn than nhỏ bé không chỉ góp nên ngọn lửa nghìn độ nóng, luyện nhiều thứ kim loại cần cho cuộc sống mà còn luyện nên chân giá trị cao nhất, giá trị con người. Nhưng chính hiện thân của giá trị người đó lại khiến anh khiêm tốn nhìn ra đời người khi đã sống, đã làm việc như hòn than đã cháy hết mình, còn là tro bụi “Có ai đấy cảm thương / Gọi tôi là “Vàng đen” / Không, tôi chỉ là hòn than lấp lánh những vui buồn!” Thơ anh thêm một phép cộng vào giá trị quý đó…
Trong giá trị người ở mỏ, Chử Văn Long phát hiện một giá trị độc đáo, một giá trị nhân sinh vừa là giá trị nhân văn, vừa là giá trị thẩm mĩ, đó là Nụ cười người thợ mỏ. Nụ cười "Ở nơi bị bóng đêm vây bủa / Chỉ một màu đen hun hút quanh hầm". Trên khuôn mặt như than của người thợ mỏ, áo quần cũng một màu than… thì nụ cười của họ “sáng tựa ngọc ngà”…
Trong chùm thơ về vùng mỏ, có một bài độc đáo về tình người, đó là bài “Anh Voòng” một người thợ mỏ Hoa Kiều. Thuở đó, Chử Văn Long làm rừng ở Hòn Gai, còn anh Voòng làm mỏ, hai người quen nhau rồi thân nhau sau một đêm lỡ xe vào trú nhờ lán nhỏ…, tình thương không phân biệt dân tộc, quê hương. Nhưng rồi: "Ngày nhận tin người Hoa về nước / Tôi vượt rừng ướt sũng đêm mưa / Chỉ kịp cầm bàn tay lẫn vào bóng tối / Dốc Hà Lầm không ánh sao thưa…". Bài thơ kết bằng nỗi nhớ của tác giả 10 năm tuổi trẻ của mình nơi đất mỏ, bỗng nhớ anh Voòng nay về nước hẳn phải nhớ lắm cái vùng đất có "Mộ cha yên nghỉ dưới chân đồi". Viết đến đây, tôi bỗng nhớ đến một câu trong sách xưa đã bị hiểu lầm và bị những người chống cộng xuyên tạc, đó là "Người công nhân không có Tổ quốc". Thực ra câu này chỉ muốn nêu cao chủ nghĩa quốc tế vô sản, bản chất của giai cấp công nhân, chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa sô vanh nước lớn. Anh Voòng là một bài thơ cảm động về tình người, tình giai cấp của những người lao động mà những biến động của lịch sử không làm mất đi được.
Là nhà thơ, yêu con người, yêu nhân dân, yêu dân tộc, Chử Văn Long không thể không trăn trở, không đau xót khi mỗi người dân còn khổ, còn bị oan ức, còn bị đối xử bất công, vì thế xem tin bà Hoàng Thị Giơi, một quần chúng cách mạng có công trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước bị chính những người xưa bà đã giúp đỡ trong hoạt động cách mạng không thừa nhận. Chử Văn Long đã động lòng viết nên bài thơ Xin gửi các nhà thơ xứ Huế, một bài thơ xét về nghệ thuật thì chưa hẳn là thơ nhưng xét về tấm lòng tác giả thì vô cùng đáng quý. Cũng với tấm lòng ấy, nhưng được thể hiện một cách nghệ thuật hơn, nghệ thuật đích thực ở các bài: Thì ra là tảo nở hoa; Ơi Vũng Áng, Ơi Thiên Cầm; Về ăn tết với miền Trung; Nghĩ về đất nước buồn vui.
Chùm bài thơ góp tiếng nói phản biện cho cuộc sống đang cần, đang kêu gọi ở các tầng lớp văn nghệ sĩ, khi sự cố môi trường biển xảy ra suốt bốn tỉnh bắc Miền Trung: "Nhìn cá chết trắng bờ / Như những vành khăn trắng xóa / Hỏi ai đã gây nên tai họa hãi hùng?". Một quan chức nhà nước lại nói trước báo chí: “Cá chết vì tảo nở hoa”. Nhà thơ đặt ra câu hỏi với các nhà khoa học: "Biển đang chết, biển không thể nói / Nhưng vì sao? Các nhà khoa học có danh / Đang bận gì mà im lặng thế…". Còn câu hỏi với những nhà thơ cầm bút như mình: "Hỡi những nhà thơ từng tụng ca biển biếc / Trái tim anh rung động phương nào / Bỏ quên biển, bỏ quên con tàu gỗ / Những làng chài đang khóc dưới trăng sao…". Ý phản biện thứ tư quyết liệt “Tôi không tin, không tin ai hết / Cuộc sống dối lừa đang vây bủa xung quanh". Bài Ơi Vũng Áng, ơi Thiên Cầm không phải là phản biện nữa mà là vạch mặt chỉ tên lũ "yêu ma", "thủy quái" “nấp bóng Formosa gieo hiểm họa cho người”. Ai là kẻ: "rước yêu ma đến đất này / Giết môi trường, môi sinh, biển lành tươi đẹp / Những Vũng Áng, Thiên Cầm non nước như tranh…" và cảnh báo: "… cả 3000 cây số biển Việt Nam / Không thể để thành một dải khăn tang / 70 năm Formosa vẫn còn đứng đó / Ai dám tin quỷ ma không lần nữa hiện hình". Những bài thơ như nhịp đập nóng hổi, dồn dập của Chử Văn Long đã khẳng định thêm thơ chưa bao giờ xa rời nhân quần, chưa bao giờ rời xa cuộc sống.
Bài thơ “Về ăn tết với miền Trung”, một miền đất đầy thiên tai giáng họa được Chử Văn Long ghi lại bằng mấy câu thơ lục bát mà cảm động đến sa sót lòng người: …“May còn lại mấy dáng cau / Góc sân tỏa bóng khoe màu lá xanh / Hoa cau gửi xuống đất lành / Trắng như hạt gạo ân tình thủy chung / Hỡi người xa cách Tây, Đông / Tết này có nhớ miền Trung thì về!".
Bài thơ khái quát nhất, tổng hợp nhất về nỗi lòng anh đối với cuộc đời, với đất nước, với thời thế là bài Nghĩ về đất nước buồn vui trong toàn thể tập thơ. Đầu tiên là lời tự thú, lời sám hối rất chân thành: "Trước trang giấy anh chưa từng gian dối / … / Nhưng đã ngây thơ đem đặt niềm tin / Vào những thứ ngây thơ cùng gian dối / … / Mác rượu quý nhiều khi đóng chai nước lã / Kẻ rao giảng tình người lại thành lũ bất nhân…". Còn thơ thì sao? "Thơ đã thành trò chơi mua bán / Không chia sẻ cùng ai, không đau xót vì ai / Thà xé phăng đi cho chó gặm rác vùi / Thơ như nắm xương khô / Thơ nhờ nhờ xác ướp/ … / Trong khi ngoài kia những cánh đồng khô héo / Những dòng sông cạn kiệt từ lâu / Biển đang chết như một niềm oan khuất / Rừng tan hoang treo tai họa trên đầu…/ Nhìn đoàn người lìa quê xa xứ / Đi gồng thuê gánh mướn khắp Tây, Đông / Ai không thấy bùi ngùi thao thiết / Kiếp gánh mướn làm thuê mà là chủ núi sông?"… Cuối bài, nhà thơ như tự thanh minh cho thơ, không thanh minh về sự bất lực mà thanh minh vì tự đáy lòng người cầm bút hàng ngày đang phải chứng kiến những cảnh đời: “Con từ bỏ mẹ cha / Chồng vợ dối gian nhau / Anh em chia lìa, bạn bầu lừa gạt  / Kẻ quyền bính thì lừa dân hại nước / Cuộc sống trong lành thơ mộng có còn đâu!".
Phải chăng chùm thơ trữ tình thế sự trên cũng là biểu hiện của sự tự cảnh tỉnh lương tâm mỗi con người đang sống thiếu tình thương, trách nhiệm cùng đồng loại hôm nay.
Đọc bài viết của tôi đến đây, chắc có bạn tự hỏi: Sao bài viết chưa nói đến một nhân vật quan trọng đã xuất hiện trong thơ Chử Văn Long trong vài tập thơ trước, đó là người bạn đời sau này của anh. Vâng, chính tôi cũng tự đặt ra câu hỏi ấy và xin được trả lời. Vì mỗi tập thơ có yêu cầu, có trọng tâm của nó. Tình cảm với người bạn đời hôm nay, đã xuất hiện đậm đặc ở những tập thơ trước, nhưng trong tập này không phải không có nàng, ít nhất như một người đối thoại xứng tầm trong tâm tưởng. "Em yêu anh, yêu quá hóa sai lầm/ Nhìn lại tháng ngày thành buồn bã / Tiền bạc đã không, danh không là gì cả / Lúc buồn đau đỡ tựa vắng anh hoài… / Cách trở hai nơi cơm áo vần xoay / Như chàng thơ may vụng về chắp nối / Khát vọng đời anh mãi như chỉ rối / Nhưng không bao giờ vùi lấp nổi thơ anh!". (Thầm gửi tình đời).
Và phải chăng ở bài thơ cuối tập “Thơ anh đây sợi vàng ròng” bên cạnh những câu thơ khắc họa đời thơ mình bằng những nét buồn thương khắc khoải: “Con tim quặn xé yêu đời / Đến tàn hơi thở chưa nguôi lửa lòng”… Hình ảnh nàng xuất hiện như một ẩn dụ, thấp thoáng, làm người đọc khó nhận ra chính tình yêu lứa đôi của hai người đã làm nên bài thơ, hai mươi năm buộc chỉ cổ tay, vẫn hai phương trời cách trở… còn tồn tại, thương yêu… hẳn sợi chỉ kia đã hóa vàng ròng và thơ cũng hóa vàng ròng… Kết thúc, tôi xin lấy chính câu thơ của Chử Văn Long “Con tim quặn xé yêu đời” trong bài thơ cuối cùng này làm đề cho bài viết về thơ anh, chỉ xin thay chữ “” bằng chữ “thắt”!
..*
Mời thư giãn với nhạc phẩm NGÀY TẾT QUÊ EM
của Từ Huy qua tiếng hát Hồ Ngọc Hà:
*.
ĐẶNG HIỂN
Địa chỉ: 50 ngõ 144/2, Quan Nhân, Nhân Chính,
quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
Điện thoại: 091.253.21.20
.

.
,




  ...................................................................................................................
- Cập nhật từ email haivc08@gmail.com gửi ngày 20.01.2018.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại. 

0 comments:

Đăng nhận xét