CON
TIM
QUẶN
THẮT YÊU ĐỜI
(Nhà thơ Đặng Hiển) |
Bài thơ đầu tiên của tập
thơ “Cánh
diều bay khao khát bầu trời” đã bộc lộ với ta khát vọng sáng tạo lớn
lao của tác giả và cả những thất vọng vì khát vọng không thành. Nhưng trong
cuộc đời mỗi người, mấy ai đã hiện thực hóa được ước mơ? Nhưng biết ước mơ và
gắng sức thực hiện ước mơ đã là một điều đáng quý rồi. "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên"
là lẽ thường. "Thiên" ở đây có thể hiểu là hoàn cảnh, hoàn cảnh của
bản thân, hoàn cảnh của xã hội nữa. Trên đời đau khổ nhất, đáng thương nhất là
không biết ước mơ, không dám ước mơ. Chử Văn Long là người đã dám ước mơ, ước
mơ cháy bỏng và đã thực hiện được một phần ước mơ ấy. Đó là ước mơ sáng tạo thơ
ca với 10 tập thơ trong đó có nhiều bài đi vào lòng người như "Người
gánh rơm đi vào thành phố", "Ru em giấc ngủ canh tà".
Ở đây tôi chỉ nói về tập
thơ mới nhất của anh "Thơ anh - đây
sợi vàng ròng". Khi viết về tập thơ này, trong óc tôi cứ luôn luôn ám
ảnh hai bài thơ mà tôi vừa nói trên kia.
Tôi biết có 2 nghệ sĩ
khóc vợ bằng tác phẩm rất xúc động, đó là nhạc sĩ Thanh Tùng với hai ca khúc
hay "Một mình" và "Lối cũ ta về" còn Chử
Văn Long với bài thơ "Ru em giấc ngủ canh tà". Tập
"Thơ anh - đây sợi vàng ròng"
có tới 5 bài thương nhớ người vợ đã khuất: Thuở
ấy, Vườn mộng, Đôi guốc võng, Khóc hoa hồng, Sông Hồng dâng lũ. “Đôi
guốc võng” là hai cái mốc bằng gỗ hình hơi giống chiếc guốc được mắc
vào đinh treo võng lên tường, lên cột. Khi nằm võng đung đưa, từ những chiếc
guốc võng ngân lên tiếng kêu kẽo kẹt… Chiếc võng bằng tơ đó, ngày vợ yếu, anh
đã mua để mắc cho vợ nằm đón gió trời thoáng mát. Khi vợ mất, chiếc võng đã bị
cuộn lại. "Em không còn, võng kia
cuốn lại / Mỗi dây tơ một khúc ruột rối vò / Như đời anh chẳng còn gì níu buộc
/ Đôi guốc võng trên tường thôi kẽo kẹt đung đưa". Hình tượng ở đây
không còn là nghệ thuật nữa mà chính là lòng anh, bởi chị chính là dây níu lớn
nhất, quan trọng nhất của anh với cuộc đời. Hoa hồng trong bài Khóc hoa hồng
cũng vậy, không phải là biểu tượng, là ước lệ nữa mà chính là chị, là trái tim
anh, trái tim anh đang nhỏ máu khi nhìn những cánh hồng rơi. "Hoa hồng nở trước nhà, hoa hồng nở / Chỉ
mình tôi ngồi với hoa hồng / Thương nhớ em tôi thành người thiên cổ / Từng cánh
hoa rơi lệ máu giữa lòng".
Đời thơ Chử Văn Long,
còn có tình anh em cũng rất đằm thắm với thi sĩ Xuân Diệu, một tình cảm vượt
lên cả tình cảm của một nhà thơ trẻ với một nhà thơ lớn mà mình ngưỡng mộ. Đã
hơn 20 năm kể từ ngày Xuân Diệu qua đời, Chử Văn Long đến thăm mộ ông còn như
không tin rằng ông đã mất thật. "Em
lại đến thắp nén hương trên mộ / Màu cỏ xanh đã phủ kín đất dày / Lại một phút
bàng hoàng em nghĩ / Có lẽ nào anh Diệu lại nằm đây?". "Em mang tới đây những bông cúc trắng / Như
ngày xưa em mua anh cắm trong bình / Khi đặt xuống giữa nền cỏ biếc / Mới tin
rằng đã thật xa anh". Sự thật như niềm day dứt của Chử Văn Long khi:
"Ân hận ngày anh còn sống / Tuần một
lần em hẹn về thăm / Rồi lỡ hẹn nhiều khi không về được / Giờ thành niềm day
dứt trong tâm" (Là thi sĩ). Tôi cảm ơn những mối tình thi sĩ đã tô đẹp
cho nền thơ Việt, góp thêm vào sự nở hoa của thơ Việt Nam … Bài "Nhớ
tết cùng anh Xuân Dệu chọn mua đào" thì không chỉ là kỷ niệm giữa
hai thi sĩ nữa mà còn gợi ra vóc dáng tâm hồn, nhân cách của nhà thơ lớn Xuân
Diệu: "Anh nhìn nụ, ngắm chồi, đường
cong nét thẳng / Hoa điểm trang từng cành nhánh thưa mau / Anh bảo: "Đào
hồng như mâm xôi, đơn điệu lắm / Chọn đào phai cành khỏe thắm hoa lâu”…
"Cả Hà Nội thích đào hồng, anh chọn
đào phai cho Tết / Đào rừng bây giờ người ta đã đem về xuôi chăm chiết / Hóa
cây trong chậu sứ chậu sành / Hoa vẫn hoa xưa nhưng dáng cây đã hết / Vẻ ngang
tàng của núi thẳm rừng xanh". "Tết này qua Phố Hoa thêm nhớ anh / Biết tìm anh Diệu nơi đâu cho đỡ nhớ”…
"Tìm tới bảo tàng của Hội Nhà văn /
Gặp anh nhưng là bức tượng màu son trong ô kính hẹp / (Chẳng hợp với hồn
anh buổi đứng trước hoa đào!)… Chử Văn Long đã học ở nhà thơ lớn trước nhất,
trên hết là học tâm hồn và nhân cách lớn của nhà thơ! Đoạn cuối bài thơ hoa đào
thật hóm hỉnh, đã bộc lộ cách nhìn, quan điểm riêng ở thơ anh!
Mười năm trước đây, tôi
có bài viết về Chử Văn Long tựa đề: "Người gánh thơ đi vào thành phố",
đồng thời tôi đang biên tập một bài văn của cộng tác viên cũng viết về anh, có
tên "Người thơ lạc giữa thành phố". Tôi hiểu người viết ấy
thống nhất với tôi ở một điểm: Chử Văn Long là nhà thơ của hồn quê, tình quê
say đắm! Ở tập thơ này, những nét vui buồn quê kiểng không chút nhạt phai. Đọc
bài thơ: Sông Hồng dâng lũ, con sông đã chở tuổi thơ anh, chở ước mơ anh, chở
tình yêu của anh như đang dào dạt: “Nhớ
sao con thuyền thúng/ Anh chèo đón em sang / Qua vườn cây bóng lá / Chở trăng
đi khắp làng”. Em đã thành vầng trăng mộng mị! "Giờ em nằm dưới đất / Nước ngập mấy thước sâu / Hồn anh nghe nước cuốn
/ Thêm quặn xé lòng đau!".
Vầng trăng của tình yêu
từ thuở ban đầu “như chiếc trâm vàng”
anh từng ao ước "Cài lên mái tóc đen
dày" của em. Em ngây thơ hỏi anh “vì
sao trăng khuyết”. Anh không trả lời được, nhưng "bối rối nhìn em, lòng anh mới biết / Cũng như em đến tuổi trăng tròn".
Vầng trăng ấy đã thành "vầng trăng
một thuở" vì em đã xa rồi. Nhưng ánh trăng thì vẫn sáng, "sáng hoài, sáng mãi buổi chia li".
Xem trong thơ Nguyễn Bính, người vợ trong đêm chồng vinh quy về làng thấy trăng
sáng quá "Ai đem trăng sáng dãi trên
vườn chè", vì đó là vầng trăng hạnh phúc, nay Chử Văn Long cũng thấy
trăng quê sáng quá, sáng đến nhói đau vì nhắc nỗi chia xa… (Thuở ấy).
Như nhiều ngôi nhà ở
nông thôn, nhà anh cũng có một khu vườn rất đẹp mà anh gọi là Vườn mộng: "Bốn mùa hoa và cả bốn mùa hương / Chim trời
đến chuyền cành cho khách ngắm / Hương theo chân bịn rịn cả thôi đường".
"Vườn càng đẹp khi em tôi dạo gót /
Chùm hoa buông chạm mái tóc đen huyền / Đôi bướm trắng bỗng từ đâu vỗ cánh /
Dưới vòm cây mơ mộng thần tiên"… "Chim hót trên cành, hoa thơm tỏa mát / Nụ cười em ra ngõ đợi tôi rồi"...
Nhưng bây giờ chỉ còn chim hót, hoa nở: "Em bỗng bỏ mình tôi ở lại / Bỏ cả hương hoa chim chóc vui vầy".
Trăng sáng soi chỉ gợi thêm lòng đau ly biệt!
(Nhà thơ Chử Văn Long) |
Thơ Chử Văn Long không chỉ thấm đẫm một tình
yêu, hồn quê là vậy… Trong tập thơ này, anh có tới 5 bài viết về vùng mỏ, về
những người thợ mỏ, nơi anh đã có gần mười năm sống với Hòn Gai, giờ trở lại
anh không bị choáng ngợp trước một Hòn Gai hiện đại: "Nhà cao loáng nắng ban mai ngỡ ngàng". Mà lòng sống lại với
hoài niệm nhớ nhung: "Muốn đi tìm
những ngày xưa lấp chìm / Bao nhiêu là nhớ với quên / Chập chờn bay với cánh
chim biển chiều”. "Tình tôi gửi
trọn phố nghèo / Hòn Gai từ thuở trong veo hồn người".
Trong chùm thơ về vùng
mỏ, bài “Hòn than” là một bài thơ triết lí nhân sinh, nêu cao giá trị
con người với bản chất lao động, lao động vất vả, lam lũ mà vô cùng quý giá!
Mỗi hòn than nhỏ bé không chỉ góp nên ngọn lửa nghìn độ nóng, luyện nhiều thứ
kim loại cần cho cuộc sống mà còn luyện nên chân giá trị cao nhất, giá trị con
người. Nhưng chính hiện thân của giá trị người đó lại khiến anh khiêm tốn nhìn
ra đời người khi đã sống, đã làm việc như hòn than đã cháy hết mình, còn là tro
bụi “Có ai đấy cảm thương / Gọi tôi là
“Vàng đen” / Không, tôi chỉ là hòn than lấp lánh những vui buồn!” Thơ anh
thêm một phép cộng vào giá trị quý đó…
Trong giá trị người ở
mỏ, Chử Văn Long phát hiện một giá trị độc đáo, một giá trị nhân sinh vừa là
giá trị nhân văn, vừa là giá trị thẩm mĩ, đó là Nụ cười người thợ mỏ. Nụ cười
"Ở nơi bị bóng đêm vây bủa / Chỉ một
màu đen hun hút quanh hầm". Trên khuôn mặt như than của người thợ mỏ,
áo quần cũng một màu than… thì nụ cười của họ “sáng tựa ngọc ngà”…
Trong chùm thơ về vùng
mỏ, có một bài độc đáo về tình người, đó là bài “Anh Voòng” một người thợ
mỏ Hoa Kiều. Thuở đó, Chử Văn Long làm rừng ở Hòn Gai, còn anh Voòng làm mỏ,
hai người quen nhau rồi thân nhau sau một đêm lỡ xe vào trú nhờ lán nhỏ…, tình
thương không phân biệt dân tộc, quê hương. Nhưng rồi: "Ngày nhận tin người Hoa về nước / Tôi vượt
rừng ướt sũng đêm mưa / Chỉ kịp cầm bàn tay lẫn vào bóng tối / Dốc Hà Lầm không
ánh sao thưa…". Bài thơ kết bằng nỗi nhớ của tác giả 10 năm tuổi trẻ
của mình nơi đất mỏ, bỗng nhớ anh Voòng nay về nước hẳn phải nhớ lắm cái vùng
đất có "Mộ cha yên nghỉ dưới chân
đồi". Viết đến đây, tôi bỗng nhớ đến một câu trong sách xưa đã bị hiểu
lầm và bị những người chống cộng xuyên tạc, đó là "Người công nhân không có Tổ quốc". Thực ra câu này chỉ muốn
nêu cao chủ nghĩa quốc tế vô sản, bản chất của giai cấp công nhân, chống chủ
nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa sô vanh nước lớn. Anh Voòng là một bài thơ cảm
động về tình người, tình giai cấp của những người lao động mà những biến động
của lịch sử không làm mất đi được.
Là nhà thơ, yêu con
người, yêu nhân dân, yêu dân tộc, Chử Văn Long không thể không trăn trở, không
đau xót khi mỗi người dân còn khổ, còn bị oan ức, còn bị đối xử bất công, vì
thế xem tin bà Hoàng Thị Giơi, một quần chúng cách mạng có công trong kháng
chiến chống Mỹ cứu nước bị chính những người xưa bà đã giúp đỡ trong hoạt động
cách mạng không thừa nhận. Chử Văn Long đã động lòng viết nên bài thơ Xin
gửi các nhà thơ xứ Huế, một bài thơ xét về nghệ thuật thì chưa hẳn là
thơ nhưng xét về tấm lòng tác giả thì vô cùng đáng quý. Cũng với tấm lòng ấy,
nhưng được thể hiện một cách nghệ thuật hơn, nghệ thuật đích thực ở các bài: Thì
ra là tảo nở hoa; Ơi Vũng Áng, Ơi Thiên Cầm; Về ăn
tết với miền Trung; Nghĩ về đất nước buồn vui.
Chùm bài thơ góp tiếng
nói phản biện cho cuộc sống đang cần, đang kêu gọi ở các tầng lớp văn nghệ sĩ,
khi sự cố môi trường biển xảy ra suốt bốn tỉnh bắc Miền Trung: "Nhìn cá chết trắng bờ / Như những vành khăn
trắng xóa / Hỏi ai đã gây nên tai họa hãi hùng?". Một quan chức nhà
nước lại nói trước báo chí: “Cá chết vì tảo nở hoa”. Nhà thơ đặt ra câu hỏi với
các nhà khoa học: "Biển đang chết,
biển không thể nói / Nhưng vì sao? Các nhà khoa học có danh / Đang bận gì mà im
lặng thế…". Còn câu hỏi với những nhà thơ cầm bút như mình: "Hỡi những nhà thơ từng tụng ca biển biếc /
Trái tim anh rung động phương nào / Bỏ quên biển, bỏ quên con tàu gỗ / Những
làng chài đang khóc dưới trăng sao…". Ý phản biện thứ tư quyết liệt “Tôi không tin, không tin ai hết / Cuộc sống
dối lừa đang vây bủa xung quanh". Bài Ơi Vũng Áng, ơi Thiên Cầm
không phải là phản biện nữa mà là vạch mặt chỉ tên lũ "yêu ma", "thủy quái" “nấp bóng
Formosa gieo hiểm họa cho người”. Ai là kẻ: "rước yêu ma đến đất này / Giết môi trường, môi sinh, biển lành tươi đẹp
/ Những Vũng Áng, Thiên Cầm non nước như tranh…" và cảnh báo: "… cả 3000 cây số biển Việt Nam / Không thể để
thành một dải khăn tang / 70 năm Formosa vẫn còn đứng đó / Ai dám tin quỷ ma
không lần nữa hiện hình". Những bài thơ như nhịp đập nóng hổi, dồn dập
của Chử Văn Long đã khẳng định thêm thơ chưa bao giờ xa rời nhân quần, chưa bao
giờ rời xa cuộc sống.
Bài thơ “Về ăn
tết với miền Trung”, một miền đất đầy thiên tai giáng họa được Chử Văn
Long ghi lại bằng mấy câu thơ lục bát mà cảm động đến sa sót lòng người: …“May còn lại mấy dáng cau / Góc sân tỏa bóng
khoe màu lá xanh / Hoa cau gửi xuống đất lành / Trắng như hạt gạo ân tình thủy
chung / Hỡi người xa cách Tây, Đông / Tết này có nhớ miền Trung thì về!".
Bài thơ khái quát nhất,
tổng hợp nhất về nỗi lòng anh đối với cuộc đời, với đất nước, với thời thế là
bài Nghĩ
về đất nước buồn vui trong toàn thể tập thơ. Đầu tiên là lời tự thú,
lời sám hối rất chân thành: "Trước
trang giấy anh chưa từng gian dối / … / Nhưng đã ngây thơ đem đặt niềm tin /
Vào những thứ ngây thơ cùng gian dối / … / Mác rượu quý nhiều khi đóng chai
nước lã / Kẻ rao giảng tình người lại thành lũ bất nhân…". Còn thơ thì
sao? "Thơ đã thành trò chơi mua bán
/ Không chia sẻ cùng ai, không đau xót vì ai / Thà xé phăng đi cho chó gặm rác
vùi / Thơ như nắm xương khô / Thơ nhờ nhờ xác ướp/ … / Trong khi ngoài kia
những cánh đồng khô héo / Những dòng sông cạn kiệt từ lâu / Biển đang chết như
một niềm oan khuất / Rừng tan hoang treo tai họa trên đầu…/ Nhìn đoàn người lìa
quê xa xứ / Đi gồng thuê gánh mướn khắp Tây, Đông / Ai không thấy bùi ngùi thao
thiết / Kiếp gánh mướn làm thuê mà là chủ núi sông?"… Cuối bài, nhà
thơ như tự thanh minh cho thơ, không thanh minh về sự bất lực mà thanh minh vì
tự đáy lòng người cầm bút hàng ngày đang phải chứng kiến những cảnh đời: “Con từ bỏ mẹ cha / Chồng vợ dối gian nhau /
Anh em chia lìa, bạn bầu lừa gạt / Kẻ
quyền bính thì lừa dân hại nước / Cuộc sống trong lành thơ mộng có còn đâu!".
Phải chăng chùm thơ trữ
tình thế sự trên cũng là biểu hiện của sự tự cảnh tỉnh lương tâm mỗi con người
đang sống thiếu tình thương, trách nhiệm cùng đồng loại hôm nay.
Đọc bài viết của tôi đến
đây, chắc có bạn tự hỏi: Sao bài viết chưa nói đến một nhân vật quan trọng đã
xuất hiện trong thơ Chử Văn Long trong vài tập thơ trước, đó là người bạn đời
sau này của anh. Vâng, chính tôi cũng tự đặt ra câu hỏi ấy và xin được trả lời.
Vì mỗi tập thơ có yêu cầu, có trọng tâm của nó. Tình cảm với người bạn đời hôm
nay, đã xuất hiện đậm đặc ở những tập thơ trước, nhưng trong tập này không phải
không có nàng, ít nhất như một người đối thoại xứng tầm trong tâm tưởng. "Em yêu anh, yêu quá hóa sai lầm/ Nhìn lại
tháng ngày thành buồn bã / Tiền bạc đã không, danh không là gì cả / Lúc buồn đau
đỡ tựa vắng anh hoài… / Cách trở hai nơi cơm áo vần xoay / Như chàng thơ may
vụng về chắp nối / Khát vọng đời anh mãi như chỉ rối / Nhưng không bao giờ vùi
lấp nổi thơ anh!". (Thầm gửi tình đời).
Và phải chăng ở bài thơ
cuối tập “Thơ anh đây sợi vàng ròng” bên cạnh những câu thơ khắc họa đời
thơ mình bằng những nét buồn thương khắc khoải: “Con tim quặn xé yêu đời / Đến tàn hơi thở chưa nguôi lửa lòng”…
Hình ảnh nàng xuất hiện như một ẩn dụ, thấp thoáng, làm người đọc khó nhận ra
chính tình yêu lứa đôi của hai người đã làm nên bài thơ, hai mươi năm buộc chỉ
cổ tay, vẫn hai phương trời cách trở… còn tồn tại, thương yêu… hẳn sợi chỉ kia
đã hóa vàng ròng và thơ cũng hóa vàng ròng… Kết thúc, tôi xin lấy chính câu thơ
của Chử Văn Long “Con tim quặn xé yêu đời”
trong bài thơ cuối cùng này làm đề cho bài viết về thơ anh, chỉ xin thay chữ “xé” bằng chữ “thắt”!
..*
Mời thư giãn với nhạc phẩm NGÀY TẾT QUÊ EM
của Từ Huy qua tiếng hát Hồ Ngọc Hà:
*.
ĐẶNG HIỂN
Địa chỉ: 50 ngõ 144/2, Quan Nhân, Nhân Chính,
quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
Điện thoại: 091.253.21.20
.
.
,
...................................................................................................................
- Cập nhật từ email haivc08@gmail.com gửi ngày 20.01.2018.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét