(Bìa tập thơ LẶNG LẼ TÔI của Lê Thiên Minh Khoa) |
LÊ THIÊN MINH KHOA,
THƠ GĂM KỶ NIỆM,
THƠ LÀ CUỘC VUI
1.
(Nhà thơ Hoàng Quý) |
Một sáng nắng nóng, Lê Thiên Minh Khoa
tới thăm tôi. Chưa kịp tắt máy và dựng xe cho ngay ngắn, mồ hôi mồ kê
nhễ nhại, cười một nụ bắt mắt, Khoa nói “quấy anh đây”. Khoa hấp tấp
moi trong bao xốp một tập giấy đóng bìa nghiêm ngắn, rồi bảo: “Em sẽ
in tập thơ mới (*), anh giúp em vài dòng”. Sao lại giúp. Với Lê Thiên
Minh Khoa dễ gì từ chối được. Thực thì, giữa tôi và Lê thi sĩ nói
rất thân thì chưa hẳn, nhưng tôi yêu quý Khoa bởi cái tâm tính cởi mở,
cái tình yêu văn chương hơi hơi cuồng si, cái cách yêu bạn, yêu người
ngất ngư như rượu nóng, và, những bài thơ hồn hậu găm đầy kỷ niệm,
đặc biệt những bài lục bát ngẫu cảm rất nhiều đặc sắc, rất… Lê
Thiên Minh Khoa.
Tôi vẫn nhớ cái ngày anh Xuân Sách giới
thiệu các tác giả chuyển sinh hoạt về Hội Văn nghệ Bà Rịa - Vũng
Tàu từ Đồng Nai. Khoa ngồi lặng yên giữa những Dương Cao Tần, Trường
Thanh, Phạm Thị Nguyệt Cầm và hơn chục cây bút khác. Cái “thằng chả”
đầu tóc bù rối như tổ quạ, đánh một bộ sơ mi khá bảnh mà xem chừng
cứ lôi thôi ngượng nghịu thế nào, chỉ được nụ cười là đáng kể. Thế
mà, cũng đã ngót nghét hai mươi năm chúng tôi từ biết tên, chào hỏi e
dè đến a lô luyên thuyên với nhau quên cả vợ sẽ nhăn nhó trả tiền
điện thoại.
Tháng 7 năm 2011, Hội Văn nghệ BR-VT tổ
chức chuyến đi Đất Mũi. Cái đêm dừng nghỉ ở một khách sạn cáu
cạnh, xây trên vùng lấn biển Kiên Giang, tôi và Trịnh Sơn được bố trí
ở chung trong một phòng góc, lầu 7. Cái phòng góc bé bằng hộp diêm
chỉ kê vừa cái giường gọi là giường đôi vì chắc chắn nó chỉ nhin
nhỉnh hơn cái giường một và cái bàn hai ghế vuông hoành tráng. Chả
biết Lê Thiên Minh Khoa ở phòng nào. Mà ở phòng nào, ở với ai chắc
gì hắn đã nhớ. Hắn qua “ở trọ” phòng chúng tôi trọn đêm, chuyện
giời chuyện bể hồn nhiên, phun khói thuốc mù mịt và say lãng đãng.
Đêm ấy tôi mới biết nơi sinh Khoa là làng Trung An, Gio Sơn, Gio Linh,
Quảng Trị. Có lẽ tôi quý Khoa nhiều hơn từ đêm ấy. Quảng Trị - những
năm lửa cháy tôi từng có lần bị bom và đạn pháo vùi. Nhiều đồng
đội tôi đã nằm xuống đó. Và cũng ở đó tôi sống được nhờ các mẹ,
các chị bới tìm trong mấy lớp cát đất của một trận pháo bầy.
Nhưng thôi, “day đi dứt lại” có khi buồn
hơn, có khi đối mặt cái hiện hữu dành giật, thực dụng, quay quắt,
trí trá, trợn bợm… mà chìm lặng trong bấu níu xa xăm cũng chẳng để
làm gì. Ấy thế mà Khoa đã đọc thơ tôi, đọc cả một seri làm tôi hết
sức cảm động, cảm động đến sửng sốt suốt trắng đêm anh “ở trọ”,
đọc bằng ngữ điệu Quảng Trị nằng nặng, đọc cay mắt và trầm tư:
“...Bao đồng đội tôi đã nằm trong mồ/ Đêm đêm hiện hồn về gõ cửa/
Đạn găm đầy hình hài/ Nỗi đau không nói được/ Bông cúc ta từng hái ở
mùa thu/ Khô xác gần ba mươi năm trong ba lô cóc cũ/ Ta cầm lại tên tay
như cầm lửa chiến tranh/ Chả vàng được cho ai - Hoa cúc!”. Bạn yêu tôi
đến thế, viết thế nào cho tập thơ mới của bạn đây? Hồi cố cái đêm
Khoa đọc thơ tôi trong căn phòng bé bằng hộp diêm rả rích mưa tháng
bảy tôi biết rằng cái sự Khoa đường đột yêu cầu viết lời mở cho tập
mới cùa anh làm tôi nhiều đắn đo, lo lắng và ngại ngần, rằng có thể
vài dòng tản mạn tôi viết về thơ bạn sẽ không thấu đáo.
2.
Tập thơ Lặng lẽ tôi Lê Thiên Minh
Khoa chia thành 3 phần, gồm: Lặng Lẽ. Lãng Đãng và Tri Âm.
Ngọai trừ các nhạc phẩm của các nhạc
sĩ bạn hữu phổ thơ Lê Thiên Minh Khoa được Khoa chọn in đan xen lưu làm
kỷ niệm, phần Lặng Lẽ gồm 54 bài thơ tự do mà Khoa gọi là THƠ ĐỜI
THƯỜNG, phần Lãng Đãng 34 bài lục bát, phần Tri Âm gồm những chọn lọc
từ nhiều lời bình hoặc bài phê bình của các tác giả viết về thơ Lê
Thiên Minh Khoa. Mở đầu cho phần đầu- Lãng Đãng:
“Trở về thành
phố cũ tìm em
Lặng lẽ mưa bay
về ngôi nhà cổ
Phải phiêu bạt
qua bao mùa dâu bể
Em sang ngang đã
mấy chuyến đò rồi!...
Trở về thành
phố cũ tìm nhau
Như Từ Thức trở
về cố xứ
Bạn học cũ đứa
chân trời góc bể
Đứa tuổi xuân
cát bụi lâu rồi!...”
(Lặng
lẽ tôi)
Bài mở đầu cũng là bài mang tên tập.
Tôi bị cuốn vào cái cảm giác se se từng gặp trong thi tập Thị trấn
tôi (NXB Thanh Niên) mà Khoa đã viết và in 16 năm trước, năm 2002. Vẫn
một giọng kể ấy, trầm lắng không ồn ào, hằng quen mà rất nhiều xúc
động:
“Chỉ còn tìm
đến giáo đường xưa
Mưa tháng bảy lạnh
hơn ngày trước
Không có em, liễu
rủ hoa tái nhợt
Thánh giá nghiêng
buồn trong tiếng chuông nghiêng!...”
(Lặng
lẽ tôi)
Dường như trong thơ Lê Thiên Minh Khoa, vài
nét găm người bạn anh trọng thị, một góc vườn xưa cô vắng rơi hoa,
một thoáng tái tê người văn bóng khuất, một bâng khuâng chưa rõ hình
hài… đều tô điểm cho thơ Khoa, và, Khoa chỉ có thể dụng thơ, mượn thơ
như cách duy nhất để gọi tên những nỗi niềm thi sĩ:
“Người đi không
ngoái
Bụi mờ tóc râu
Môi hồng bỗng
nhợt
Mắt huyền xa
ơi!…”
(Biệt
ly)
“Khóc Nguyệt Cầm
thấm thía câu thơ:
“Phong vận kỳ oan
ngã tự cư”
Nguyệt ơi, Trăng
lạnh chừ khuất núi
Vàng khô ở lại
nhớ xanh xưa!
(Khóc
Nguyệt Cầm)
Đây nữa:
“Tôi trở lại
vườn hoa trắng ấy
Khu vườn xưa hoang
lạnh bóng người
Chỉ hoa trắng
gieo buồn tuyết điểm
Người xưa sang
vườn khác lâu rồi
(Trăng
xưa)
Rồi đây nữa:
“Suối lặng lẽ
chảy vào mù sương
Sương lững lờ
trôi theo gió thổi
Anh lặng lẽ chảy
về em mòn mỏi
Em thành mù
sương…
bay…
trôi…”
(Mù
sương)
Cái âm hưởng dìu dịu tràn chảy trong
mục phần Lặng Lẽ đậm dấu ấn trong nhiều bài thơ cảm thức cố nhân,
vết chấm phá quá vãng mơ mê không mặc định, như đứng ngoài sự sắp đặt.
Có lẽ
bởi thế, nó tạo cho thơ Khoa một cách
diễn đạt mềm mại, một bút pháp trữ tình nhiều bản năng, những
thoảng buồn ướp men, giọng du dương tự sự dễ chịu, nhi nhiên, giản
dị, êm đềm:
“Em áo tím
phượng chiều thu tím
Anh bâng khuâng năm
ngả bâng khuâng
Bằng lăng tím
nhòa bên hồ vắng
Mấy ngả đường
hoa tím mù sương”
(Đà
Lạt tím)
“Chưa bao giờ anh
làm thơ tặng em
Nhưng không một
lần nghe lời hờn trách
Vì người đẹp
trong vần thơ anh viết
Có bóng hình
thời con gái của em!...”
(Đồng
điệu)
Lê Thiên Minh Khoa cũng giới thiệu những
thử nghiệm khác của anh ngay trong phần Lặng Lẽ của thi tập. Anh thử
nghiệm Thơ Ba Câu trong các bài “Động viên”, “Đêm và gió”, “Chẳng lẽ”,
“Trăng, em và tôi”. Anh cũng lại thử nghiệm một số bài thơ có sắc
thái chính luận hoặc thơ văn xuôi như “Điệp khúc Nhân dân”, “Lời nguyền
của người ở ngoài vùng phủ sóng” v.v.. Tuy nhiên, tôi có cảm giác
loạt bài thơ này đang là sự tìm tòi và chỉ mới manh nha một khởi
đầu. Các bài thơ tạo nên dư ba là những bài Khoa viết bằng nhịp thơ
đã nhuần nhuyễn với cảm xúc gây men, bằng điệu hồn thúc bách. Vượt
thoát cái hằng quen để bước đến những không gian khác của thi ca luôn
luôn là mong mỏi, là ý thức của nhiều nhà thơ. Tất nhiên.
3.
Những bài thơ hớp hồn tôi nhất là Lục
Bát Lê Thiên Minh Khoa! Có một chút gì đó như biến ứng mà tôi gọi là
“Từ điển ngôn ngữ Bùi Giáng bắc sang Lục Bát Lê Thiên Minh Khoa” mà
vẫn là Khoa, rất… Khoa:
“Và anh uống
rượu bây giờ
Là trăm năm rớt
bên bờ tử sinh
Và anh uống rượu
một mình
Là anh uống với
bóng hình em thôi
Và anh chén rượu
mồ côi
Là tôi cộng lại
với tôi hai người
Và anh chén rượu
em mời
Là em cộng với
tôi rồi bằng không
Và anh ngó em tắm
rằm
Xiêm y rớt xuống,
bóng trăng say mèm”
(Và
anh…)
Giời ạ. Bài lục bát hay ngất ngư tôi
không còn biết diễn đạt tâm trạng mình khi được thưởng thơ thế nào.
Thì đấy, cái váng vất “Từ điển ngôn ngữ Bùi Giáng” phiêu trong từng
câu tượng hình ngay kia Khoa đã dụng dụng thành. Nó “ngon, thơm, đê mê”
như một ly cocktail pha theo cách Lê Thiên Minh Khoa bằng tinh liệu chắt
gạn trong kho hương ngôn Bùi Giáng và hương ngôn họ Lê. Hình như không
chỉ Khoa, nhiều thi bản tôi đã đọc của thi sĩ A Khuê và các thi sĩ
cùng thời với ông đều có dư vang âm hưởng thiên bẩm họ Bùi. Tôi coi
đấy là tiếp nối tinh hoa được bắc tới từ người xưa. Cái khó là khi
tiếp nối các tài nhân anh dụng thế nào?!
Hình như, cứ với lục bát là Lê Thiên
Minh Khoa thăng hoa, là lơ lửng say, là không “lành” được nữa trước
thói người, thói đời:
“Rồi Tiên cũng
bỏ Ta bà
Phòng văn còn
một Ta và Ma thôi
Đầu hè một Quỷ
lơi bơi
Phật vỗ vai Chúa
trốn đời đi hoang”
(Còn
lại)
Khi xưa Tiên ở
trên trời
Yêu người trần
thế Trời dời xuống đây
Người trần khi
tỉnh khi say
Nên Tiên chán
ngán lại bay về trời
(Còn
lại 2)
“Là ai tâm Phật
thân Ma
Nhập nhòa một
bóng chợt xa, chợt gần
Chợt phong vân,
chợt phù vân
Thương đời, đời
loạn, thương thân, thân nhàu!
(Là
ai)
34 bài lục bát trong phần thứ 2: Lãng
đãng, Khoa chỉ coi như những bài thơ viết trong những khoảnh khắc hoa
ngôn, những khoảnh khắc tài tử, những khoảnh khắc phóng bút. Nhưng
với tôi, 34 bài lục bát trong tập này của Khoa là tinh hoa thơ Lê Thiên
Minh Khoa. Chỉ với lục bát hồn Khoa, hoạt ngôn Khoa, thi ảnh, thi hình,
tư tưởng, chất giang hồ tài tử mới phát lộ, nhiều bài phong nhiêu
liêu trai. Buồn tanh mà cao ngạo đấy. Êm ái mà sóng ngầm. Đùa cười
mà rớt lệ giữa cuộc vui:
“Đôi khi bỏ bể
về rừng
Ngó anh cọp ốm,
chợt lòng từ tâm
Nửa chừng sương
rót lâm râm
Một, hai, ba,
bốn, năm châm giọt buồn!...”
(Đôi
khi)
“Và em
Và tôi
Và thơ
Và dăm ly rượu
Và chờ đêm qua
Và Không
Và Phật
Và Ma
Hội nhau trong
cõi ta – bà
Rong chơi
Và em
Và tôi
Và ai
Và trăm năm
Vẫn nhớ hoài
ngàn năm
Và ngàn năm
Nhớ xa xăm
Và xa xăm nhớ
lầm
Than kiếp người…
(Và
em…)
Còn xưa mây thả
lưng đồi
Còn em mấy độ
thu rồi chưa bưa
Nghe chừng ngượng
ngập chân đưa
Nghe nay nằng
nặng, nghe xưa nhẹ hều!…
(Còn
xưa)
Có khi, đọc Lục Bát Lê Thiên Minh Khoa
chả cần lời bình. Tôi những muốn thưa rằng có một vườn Lục Bát Lê
Thiên Minh Khoa tươi an nhiên trong cánh đồng Thơ Việt. Vườn lục bát của
họ Lê luôn luôn hiện lộ và tỏa hương sắc riêng. Thứ hương thơm ấy có
quyền dán nhãn Made in Lê Thiên Minh Khoa!
----------------
(*): LẶNG
LẼ TÔI (Lê Thiên Minh Khoa- tập thơ- NXB Hội Nhà Văn- tháng 6.2018).
Mời thư giãn với nhạc phẩm NỬA VẦNG TRĂNG
của Nhật Trung, qua tiếng hát Như Quỳnh:
*.
Vũng Tàu, tháng 6/2018
HOÀNG QUÝ
Địa chỉ: Đường Cô Bắc, phường I,
tp Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Email: voongaquynv@yahoo.com.vn
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 18.06.2018.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân
Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét