THỜI ÁO LÍNH - Hồi ký của Trần Mỹ Giống (Nam Định)

Leave a Comment
(Tác giả Trần Mỹ Giống ngoài cùng bìa trái, hàng ngồi)
THỜI ÁO LÍNH
(Hồi ký của Trần Mỹ Giống)
*

TỰ BẠCH
(Tác giả Trần Mỹ Giống cùng phu nhân năm 1971)
Nhiều năm kể từ ngày rời quân ngũ, tôi thường nhớ về những đồng đội đã cùng tôi sống chết có nhau trong những năm tháng chiến đấu ở Quảng Trị năm 1972 và những năm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới, mong mỏi cơ duyên gặp lại nhau, nhưng không làm sao thực hiện được. Vợ tôi gợi ý: “Hay là ông viết hồi ký về những ngày sống chiến đấu trong quân đội đăng lên mạng. Biết đâu, đồng đội ông đọc được sẽ liên hệ với ông. Ông viết ra cho nguôi ngoai nỗi nhớ đồng đội cũng tốt chứ…” Nghĩ vợ nói phải, tôi bắt tay vào viết hồi ký. Tôi viết như dốc bầu tâm sự, như giãi bày bộc bạch lòng mình, như chuyện trò cùng đồng đội. Những gì tôi viết ra đều là những sự thật tôi trải qua, chứng kiến, tai nghe, mắt thấy. Tôi không quan tâm đến chau chuốt câu văn, nghĩ sao viết thế, thấy sự thật thế nào viết thế.
Tôi viết hồi ký được kỳ nào, đăng luôn lên mạng kỳ đó. Hồi ký của tôi lên trang blog một thời gian thì tôi nhận được nhiều phản hồi của bạn đọc động viên, nhận xét nhật ký trung thực. Nhờ việc đăng hồi ký lên mạng mà tôi được một số đồng chí lãnh đạo Hội Cựu chiến binh bảo vệ thành cổ Quang Trị năm 1972 biết và kết nạp tôi vào hội. Đài truyền hình Nam Định mời tôi tham gia buổi giao lưu giữa đài với cựu chiến binh bảo vệ Quảng Trị năm 1972… Nhờ đăng hồi ký, tôi gặp lại được anh Nguyễn Công Sự ở Vụ Bản là chiến sĩ cùng đánh trận An Tiêm với tôi, anh Lê Thanh Oai ở xã Mỹ Thắng (huyện Mỹ Lộc, Nam Định) là thủ trưởng chỉ huy chúng tôi trong trận bảo vệ cảng Cửa Việt... Gặp lại nhau, chúng tôi xúc động vô cùng. Thời tuổi trẻ hào hùng sống lại trong chúng tôi.
Thủ trưởng cũ của tôi - anh Lê Thanh Oai có lần bảo: “Chú nên xin lệnh xuất bản in cuốn hồi ký để lưu lại cho con cháu biết cha ông chúng đã sống và chiến đấu như thế nào. Chú nên in sớm, để anh em đồng đội chúng mình được đọc và nhớ về một thời tuổi trẻ. Đồng đội chúng mình đều đã trên bảy mươi tuổi rồi, chú nên in sớm nhé!”. Tôi hiểu điều anh Lê Thanh Oai muốn nói, nên mạnh dạn gửi bản thảo đi nhà xuất bản để xin lệnh in…
Nếu may mắn cuốn sách của tôi được ra đời đến tay bạn đọc, tôi vô cùng biết ơn bạn đọc bớt chút thời gian đọc những dòng tâm sự về một thời áo lính của tôi…
Thành Nam, tháng 2 - 2017
TRẦN MỸ GIỐNG

        
GIA ĐÌNH
Cụ tổ họ Trần nhà tôi về sinh cơ lập nghiệp ở làng Trà Lũ (nay bao gồm các xã Xuân Trung, Xuân Bắc, Xuân Phương và Nam Điền thuộc huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định) từ khoảng nửa đầu thế kỷ 15. Cụ ở làng Kim Lũ, tục gọi làng Lủ nay thuộc Hưng Yên. Có người lại bảo làng Kim Lũ thuộc Hà Nội. Để nhắc con cháu nhớ về làng gốc của cha ông, các cụ đặt tên làng mới là Trà Lũ.
Chữ KIM đổi lấy chữ TRÀ
Còn một chữ LŨ để mà làm ghi.
Hồi ấy, Trà Lũ là vùng sình lầy, đầy lau sậy giáp biển Đông. Cụ tổ họ Trần cùng các họ khác đứng chân ở vùng đất nổi Trà Lũ lập ra Trà Lũ Trung (tức Xuân Trung bây giờ), Trà Lũ Bắc (tức xã Xuân Bắc), Trà Lũ Đông (tức xã Xuân Phương). Nam Điền (nay là xã Xuân Nam) là đất trại cấp cho những gia đình đi lính làm ăn phụ thuộc vào Trà Lũ Trung.
Đầu thế kỷ 19, khi nghĩa quân Phan Bá Vành nổi lên chống lại triều đình, hầu hết dân làng tôi đi theo. Trà Lũ trở thành đại đồn của nghĩa quân. Năm 1827 khởi nghĩa thất bại, cả làng tôi bị triệt hạ, hơn 800 người bị giết. Cho đến giờ, họ Trần tôi vẫn rất tự hào có tướng quân Hai Đáng nổi tiếng trong nghĩa quân.
Gia phả họ Trần nhà tôi chỉ chép được 15, 16 đời. Cụ tổ đời thứ 10 là cụ Trần Quý Công huý Oánh tự Huệ Văn đi lính giữ chức Tiền cường cơ lục đội, Chánh đội trưởng. Ông nội tôi là cụ Trần Hanh sinh hai trai là bố tôi và bác Vượng, hai gái thì một người mất sớm, một người không có con. Năm 1985 bác Vượng tôi mất. Sau đó ít năm bác gái cũng qua đời. Năm 1994 mẹ đẻ tôi mất. Mẹ cả tôi mất từ 1945. Năm 2008 bố tôi qua đời. Năm 2013 cô tôi mất. Vậy là thế hệ bố tôi không còn ai.
Khi còn sống, bác Vượng tôi rất hay văn nghệ. Ông từng làm đội trưởng đội văn nghệ xã nhiều năm. Trong kháng chiến, ông làm công tác tuyên truyền, bị địch bắt tra tấn thành bệnh. Năm 71 tuổi ông mất. Bác tôi có 5 con gái (Hương, Bình, Thường, Sướng, Thảo), hai trai là anh Hữu và anh Quang. Cả hai anh hiện ở Giao Lạc thuộc Giao Thuỷ. Anh Hữu đi bộ đội, về phục viên, có thời làm Phó Chủ tịch xã. Anh Quang thời trẻ đi bộ đội biên phòng rồi về phục viên. Vợ cả anh đi làm ô sin ở bên Hàn, bỏ anh lấy chồng khác. Anh lấy bà hai kém anh hai chục tuổi. 
Ông nội tôi mất từ khi tôi chưa ra đời. Bà Nội tôi sống 83 tuổi thì mất. Phần mộ của bà để ở Giao Lạc, nơi anh Hữu cư trú hiện nay. Khi còn sống, bà tôi luân phiên ở với bác Vượng và bố tôi. Khi bác tôi đi khai hoang ở Yên Thế (Bắc Giang) thì bà sống với bố tôi. Khi bác Vượng bỏ vùng Yên Thế về Giao Lạc (Giao Thủy – Nam Định) thì bà tôi lại luân phiên ở với hai con trai. Bà tôi từng là cơ sở nuôi dấu cán bộ trong kháng chiến. Sinh thời, bà làm nghề bán gạo, gọi là nghề hàng sáo. Từ ngày tôi ra đời và biết được thì đã thấy bà già cả, mắt mờ rồi. Tôi yêu bà lắm. Hồi bé, tôi thường đòi ngủ chung giường với bà. Tôi khoanh tròn trong lòng bà, háo hức nghe bà kể chuyện cổ tích rồi ngủ thiếp đi.
Bố tôi hai vợ. Bà cả là bà Trần Thị Tý mất khi tôi chưa ra đời. Bố tôi kể: Hồi ấy nghèo đói lắm, bố tôi phải đi làm thuê làm mướn ở xa, khi về quê thì bà Tý và hai con đã qua đời. Lúc đó bố tôi đã có hai người con, cô lớn tên là Ngọ (thường gọi cô Gái lớn để phân biệt với cô Gái em ruột tôi mất khi 3 tuổi), đứa bé thì chưa đặt tên. Nỗi đau buồn vì mất bà Tý của bố tôi càng lớn thêm khi ông mất luôn cả hai người con. Bố tôi hỏi các con của ông đâu thì bà nội và bà ngoại tôi (tức bà sinh ra bà Tý) đều không cho ông biết. Bố tôi đoán rằng hai bà đã bí mật cho hai cháu đi làm con nuôi người ta để có hy vọng các cháu được sống. Nhưng đó chỉ là hy vọng. Sau này tôi được bà con trong làng nói cho biết hai anh chị tôi mất năm đói 1945 rồi.
Bà hai là U tôi. Sau khi bà Tý mất, bố tôi mới lấy U tôi. Bố tôi nuôi chú ruột là ông Đức vì cha mẹ ông Đức mất sớm. Khi ông Đức lớn đã đi du kích và hy sinh năm 1952 ở Thái Bình. Vì thế bố u tôi được hưởng chế độ gia đình liệt sĩ. Bố tôi có tiếng là hiền lành. Mọi việc lớn trong gia đình do U tôi quyết đoán.
Ông ngoại tôi là ông Trần Mỹ Riệm, có tiếng đẹp trai và rất “công tử”. Gia đình ông ngoại tôi là gia đình khá giả thời đó. Ông tôi làm nghề may và lấy hai bà vợ. Năm u tôi 13 tuổi thì ông ngoại tôi mất. Bố tôi bảo: “Ông ngoại mất do bị người ta đánh thuốc độc vì ghen ghét... Họ lừa cướp ba cái máy khâu của ông”. Bà ngoại tôi bỏ đi lấy chồng. Bà vợ hai ông ngoại tôi sinh hai con gái là dì Răm và dì Ngọ, cũng bỏ về quê Đông Hưng (Thái Bình) rồi mất ở đấy. Một tay mẹ tôi tần tảo nuôi hai em. Khi lớn lên, dì Ngọ đi du kích, dì Răm đi tu. Hoà Bình lập lại, mẹ tôi đón dì Răm về và gả cho ông Sử là chú rể tôi bây giờ. Dì chú Sử đưa gia đình lập nghiệp ở Trí Thiện (Giao Thuỷ). Dì Ngọ lấy ông Bảng, có 4 con trai hiện còn ở Trà Lũ Bắc (Xuân Bắc). Ông Bảng mất sớm, mấy đứa con còn nhỏ nên dì tôi rất vất vả trong cuộc sống.
Bà ngoại tôi thường gọi là bà Kẹo vì bà bán kẹo đắng, sau khi ông ngoại tôi mất, bà lấy ông Nhì người Xuân Bắc. Hai ông bà sống nghèo khổ và không có con. Ông Nhì làm nghề bán thịt chó. Hồi nhỏ, tôi thường theo bố tôi lên thăm ông bà. Mỗi khi bố tôi lên thăm, ông Nhì giữ bằng được bố tôi uống rượu ăn thịt chó với ông. Ông Nhì mất, bố u tôi đón bà ngoại tôi về nuôi dưỡng. Bà ngoại và u tôi xung khắc nhau. Bà tôi đòi ở riêng. Bố tôi chiều bà, bèn làm một cái chái phía đông cho bà ở. Hàng ngày bà vẫn đi chợ bán kẹo đắng. Bà rất quý tôi. Mỗi bận đi chợ, bà lại mua cho tôi khi thì cái bánh đa, khi củ khoai lang. Ngày ba bữa, bố u tôi đưa cơm cho bà để bà ăn một mình cho thoải mái. Bà đã lẫn nhưng vẫn đi chợ bán kẹo đắng. Bố u tôi không giám cản bà. Mỗi khi có người hỏi bà đã ăn cơm chưa, dù vừa ăn xong, bà vẫn bảo chưa được ăn gì. Năm 1976, tôi đang đóng quân ở Vĩnh Phú thì được tin bà mất. Nghe vợ tôi kể, hôm bà mất, bà vẫn khoẻ bình thường. Bà bảo đem cho bà cốc nước chè. Uống xong bà  gọi cô Hà lại, móc ruột tượng có ít tiền đưa hết cho cháu rồi bà đi. Hôm đưa đám bà, trời mưa to. Mọi người phải đè ván xuống mới lấp được đất. Sau này sang số cho bà, tôi mua tiểu từ Nam Định, lai bằng xe đạp về. Nhưng ngày sang số bà, chỉ có bố tôi, chú Đằng và ông Số là bạn bố tôi thực hiện. Khi tôi ra quân, về hỏi mộ bà thì bố tôi và chú Đằng đều nhớ không chính xác. Năm sang số cho U tôi, tôi nhờ người đưa luôn bà vào khu mộ tổ thì không tìm thấy mộ bà. Trước đây, do bà ngoại tôi bỏ con đi lấy chồng sau khi ông tôi mất, nên họ nhà ông ngoại tôi không nhận bà, không cho đưa bà vào khu mộ tổ của họ chồng. Đến khi tôi lớn, quyết đưa bà vào khu mộ tổ họ nội tôi thì lại không tìm được mộ bà. Tôi vô cùng áy náy vì việc này mà không biết làm thế nào.
Bà ngoại đẻ ra mẹ cả tôi là bà Thụ. Mặc dù mẹ cả tôi là bà Tý mất đã lâu, nhưng bà ngoại vẫn đi lại thường xuyên với nhà tôi. Bố tôi không bỏ buổi nào những ngày bên nhà vợ cả ông có việc. Chúng tôi cũng rất yêu quý bà. Tôi còn nhớ như in hình ảnh bà mặc váy đen, thắt ruột tượng nâu, áo cánh gụ, ăn trầu bỏm bẻm. Mỗi bận bà lên chơi, tôi quấn quýt với bà cả buổi. Có lần bọn bạn rủ đi đá bóng, ham quá, tôi muốn đi chơi nhưng lại sợ khi tôi đi chơi thì bà bỏ về. Tôi hẹn đi hẹn lại với bà rằng bà phải ở chơi chờ cháu về. Để yêm tâm, tôi buộc ruột tượng của bà vào cối xay thóc. Khi tôi chơi bóng xong thì bà đã về. Tôi khóc ầm ĩ bắt đền bố u tôi. Sau này bà bị đau mắt, chữa chạy không khỏi thành ra mù. Khi bà mất, người ta chở thuyền đưa bà ra nghĩa trang. Tôi dắt chú Đằng, đầu đội lá khoai, đi bộ theo trên bờ đưa tiễn bà.
Bố u tôi làm ruộng, nhưng đất hiếm nên sống chính bằng nghề bán hàng sắt. Hàng ngày bố u tôi đi các chợ Trung, chợ Bắc, chợ Thanh Nhang, chợ Bể... từ tinh mơ đến tối. Chợ xa hai mươi cây số mà bố tôi gánh hàng nặng trên sáu chục ký đi bộ quanh năm. Hai vai bố tôi nổi u to bằng cái bát ăn cơm do đòn gánh đè lâu ngày. Có thời khó khăn, bố tôi bỏ đi thân tàng, tức là đi khai thác nứa gỗ ở Thanh Hoá, hoặc mạn ngược xuôi về bán. Vất vả cả đời nhưng không có thời kỳ nào bố u tôi giàu có cả. U tôi đẻ mấy bận đều không nuôi được. U tôi buồn đến phát điên. Sau có tôi ra đời u tôi mới khỏi bệnh. Đứa em liền tôi là cô Gái mất lúc ba tuổi. Sau tôi còn có các chú Đằng, Giang, Hải và cô Hà. Chú Đằng đi trung cấp thuỷ lợi, công tác ở Đội thi công cơ giới Bộ Thuỷ lợi. Chú có thời đi I Rắc lao động nhưng gặp lúc chiến tranh phải về nước, được đền bù ít tiền đủ mua cái xe máy. Chú Giang, chú Hải đều là sĩ quan công an thành phố và tỉnh. Cô Hà làm Kế toán trưởng Công ty Điện báo, điện thoại Nam Định. Nay các em tôi đã nghỉ hưu.
Không ai nhớ chính xác là tôi sinh năm nào. U tôi bảo :
- Hồi “hai năm bốn tháng” (từ 1947 đến 1949) đã có thằng Giống rồi. Khi tản cư sang Thái Bình, lúc qua đò thằng Giống khóc to, người tản cư đòi bóp chết thằng Giống vì sợ lộ, sợ bọn giặc bắn, tôi ấn vú vào miệng cho nó nín mà.
Theo như U tôi nói thì tôi phải ra đời trong khoảng 1947 - 1949. Khi đi học vỡ lòng, tôi khai sinh 1950 cho đúng tuổi đi học. Tên tôi ghi trong “tờ khoán” bán cho Đức Thánh Trần là Trần Hùng Triệu, nhưng ai cũng gọi tôi là Giống, lâu rồi không ai nhớ tên chính thức của tôi. Từ khi đi học đến nay, tôi vẫn giữ cái tên Trần Mỹ Giống.
Từ 1950 đến 1952, nhà tôi bị giặc đốt ba lần, vì bố u tôi là cơ sở cách mạng. Năm 1953, bố u tôi tản cư lên Bùi Chu, tiếp tục buôn hàng sắt. Mỗi lần giặc đến nhà bắt người đi phu, đi lính, bố tôi thường nấp trên gác xép. Tôi canh nhà, giặc hỏi thì bảo bố tôi đi lính rồi. Em Gái tôi năm đó hơn 2 tuổi, đẹp như đức mẹ ở nhà thờ thiên chúa giáo. Mỗi khi tôi dắt em tôi đi chơi ở chợ Bùi, ai trông thấy em Gái cũng khen em đẹp như Đức Mẹ đồng trinh và cho anh em tôi quà bánh. Năm ấy có dịch đậu mùa, hai anh em tôi đều mắc bệnh. Tôi qua khỏi, nhưng em Gái không qua được. Ông Cầm đưa thi hài em về chôn ở tha ma cầu Mới. Lâu rồi nên mộ em thất lạc. Cho đến hiện nay, mỗi khi đi đâu qua cầu Mới, tôi lại thầm gọi tên em.
Hoà bình lập lại, gia đình tôi trở về quê. Bố u tôi hiến đất của tổ tiên cho xã làm nghĩa trang liệt sĩ. Bố tôi và bác Vượng ra mẩu đất mom sông làm nhà. U tôi lần lượt sinh các em Đằng, Giang, Hà, Hải ở đây. Cải cách ruộng đất, nhà tôi được cấp 3 sào ruộng xứ đồng Nam Điền. Bố U tôi vẫn đi bán hàng sắt. U tôi nhờ bác Riễn cùng làng trông nom chúng tôi và cho các em tôi bú mớm. Anh em tôi lớn lên trong sự yêu chiều của U tôi.
(Tác giả Trần Mỹ Giống cùng gia đình)
Khoảng năm 1956 cậu Hoà bị giặc bắt đi Lào trốn về được. U tôi nuôi và cưu mang cậu, khi cậu lấy bà Gái thì cho cậu làm nhà ở mẩu vườn trước nhà tôi. Khi còn sống, cậu từng bị địa phương nghi theo địch, bị giam và bị tra tấn gãy răng. U tôi một lòng thăm nuôi cậu. Sau được minh oan, cậu làm đội trưởng sản xuất một thời gian rồi theo nghề làm kẹo bánh. Lúc đã khá giả, cậu mợ mua nhà mới rộng rãi hơn, trả lại đất cho U tôi.
Bác Vượng tôi làm nhà sau lưng nhà tôi. Năm 1968 bác đi khai hoang vùng kinh tế mới ở Yên Thế, rồi về Giao Lạc bây giờ, bác đã bán lại đất cho U tôi. Đất bác ở ngày trước nay bố tôi thừa kế cho chú Đằng làm nhà ở.


ĐI  HỌC
Hồi bé, tôi là đứa nghịch ngợm. Ba năm đi học vỡ lòng tôi mới được vào lớp một. Năm đầu tôi học cô Nhường, bỏ dở vì tội lén đổ mực ra ghế cô ngồi. Năm sau học chú Bình, tôi bị đuổi học vì tội chửi chú là ông Bình sẹo (thái dương chú có cái sẹo lớn). Năm thứ ba mới học yên ổn vỡ lòng.
Thuộc xã Xuân Trung, nhưng vì học sinh đông nên bọn trẻ xóm Đông Thành chúng tôi lại được phân bổ học ở Trường cấp I xã Xuân Phương. Tôi còn nhớ thày Hy già rất nhiều lần phạt béo má tôi vì tội tôi nghịch ngợm. Một lần chơi diều tôi bị ngã gẫy tay trái, sợ bố u mắng nên tôi trốn trong đống rơm. Đau quá, tôi lịm đi. Tới khuya vẫn không thấy tôi về, bố tôi đi tìm không thấy tôi, ông hoảng lên. Anh Hữu sợ quá mới nói cho bố tôi biết tình trạng của tôi. Bố tôi bế tôi sang ông lang Cợn người cùng làng, nhờ ông cứu chữa. Ông lang Cợn hỏi tôi toàn chuyện đâu đâu làm tôi không để ý đến tay đau, rồi  bất ngờ ông giật tay tôi thật mạnh. Ông bó tay tôi bằng nẹp tre và bột. Tay tôi sưng tấy lên, đau buốt. Người tôi sốt hầm hập. Nửa đêm, U tôi ngồi bên mép giường, xoa lên tay đau của tôi. Tay U tôi lạnh như đồng làm tôi giảm hẳn đau. U tôi cứ ngồi xoa cho tôi như thế mấy đêm liền. Sau này tôi nói lại chuyện đó, U tôi rất ngạc nhiên. U tôi nói với bố tôi:
- Khéo mẹ già về chăng...
U tôi thường gọi bà vợ cả của bố tôi là mẹ già. U tôi thắp hương khấn vái rì rầm. Bà mẹ cả tôi có tiếng là linh thiêng. Từ lần đánh đòn tôi vì tôi hư, bị bà cả phạt tự đánh vào ngực, u tôi sợ không giám đánh tôi nữa. Lại một lần bố tôi đuổi đánh tôi vì tôi đánh nhau với trẻ con. Hai bố con tôi chạy quanh cái bàn gỗ. Chợt u tôi kêu lên:
- Có con rắn!
Tôi và bố tôi đều nhìn thấy con rắn to bằng song cửa sổ đuổi theo bố tôi. Hai bố con tôi nhảy vội lên bàn đứng ôm nhau tránh rắn. Mọi người soi tìm thì lại chẳng thấy rắn đâu. U tôi lại bảo:
- Khéo mà bà mẹ già về chăng.
U tôi lại thắp hương khấn bà cả.
Tôi hay nằm mơ thấy một người đàn bà mặc váy, quấn ruột tượng, đội khăn mỏ quạ đen. U tôi bảo đó chính là hình ảnh của bà cả. Khi tôi ra đời thì bà cả đã mất, làm sao tôi lại mơ thấy bà? Cậu Hoà có lần báng bổ thần phật, tự nhiên đau bụng quằn quại mãi không khỏi. U tôi thắp hương kêu cầu bà cả, rồi nhai lá trầu không nhổ nước xoa vào bụng cậu. Thế mà cậu khỏi ngay. Từ đó cậu không giám coi thường chuyện cúng bái nữa. Bà con làng xóm thường khi gặp việc khó khăn hay ốm đau là lại nhờ u tôi kêu cầu bà cả phù hộ. Sau này được học lên đại học, tôi vẫn không sao giải thích được chuyện tôi chứng kiến kể trên. Tôi xây mộ cho bà cả và không quên thắp hương khấn bà mỗi khi về quê.
Phải gần tháng sau ông lang Cợn mới tháo bột cho tôi. Từ đó tay trái tôi yếu hẳn, không xách được vật nặng.  
Năm lớp 4 tôi học thày Trạch. Thày Trạch hay phạt tội nghịch ngợm của tôi, nhưng lại rất yêu tôi. Ông thường xuyên giao cho tôi chữa bài tập toán thay ông. Nghịch ngợm, nhưng năm nào tôi cũng đạt danh hiệu học sinh tiên tiến.
Mùa hè năm lớp 4 lên lớp 5, tôi bị sốt cao liên miên. U tôi mời y sĩ trạm xá xã khám và cho thuốc, tôi uống mãi cũng không khỏi. Hơn tháng trời tôi nằm liệt giường, sống thoi thóp, người chỉ còn da bọc xương. Thấy tôi thất thần, bố u tôi ngồi khóc bên giường. Tôi bay lơ lửng trên kèo nhà, nhìn thấy rõ tất cả. Tôi nghe u tôi bảo bố tôi:
- Ông chuẩn bị quần áo mới cho thằng Giống đi, nó khó mà qua khỏi.
Vừa khi đó, ông Đằng cùng xóm đi làm ăn xa về qua, nghe tiếng bố u tôi khóc, ông liền vào hỏi han và xem xét người tôi. Ông bảo:
- Đậu lào đây mà. Thuốc chữa sao khỏi. Cho tôi cái kim và cái dao bào.
Ông Đằng dùng củ nghệ kỳ vào cổ, lưng và ngực tôi. Từng vốc ghét như đầu bút chì từ người tôi rơi xuống chiếu. Ông lấy kim khêu thịt ở cổ tôi, cắt bằng dao bào nghe tanh tách. Ông khêu và cắt thịt hết ở cổ, lại đến ngực và lưng tôi. Tôi chợt thấy đau nhói khi ông cắt thịt ở lưng liền kêu to lên. Ông Đằng vui vẻ bảo:
- Sống rồi.
Đến chiều thì tôi gần như hết sốt. Đến tối tôi đòi ăn. Ba ngày sau tôi đã đi lại được bình thường. Bố u tôi đem thúng gạo tám biếu trả ơn ông Đằng.
Bọn trẻ xóm tôi thường tập trung ở sân chung của xóm, nơi dùng để hội họp làng. Tối tối chúng tôi chơi trò “mô đầu” làm náo loạn cả xóm. Chúng tôi chia làm hai phe, rồi xông vào nhau, cứ ai đập tay được vào đầu đối phương là “diệt một địch”. Ai bị “chết” phải ra khỏi cuộc chơi mà... nhìn bọn bạn chiến đấu. Ban ngày chúng tôi chơi trò đánh khăng, đánh đáo, đánh vành xe, chơi bi. Những trò chơi của chúng tôi ngày xưa, bây giờ không thấy trẻ con chơi nữa. Thường các chiều hè, chúng tôi tắm tập thể, thi bơi, thi lặn, thi nhảy cầu trên con sông làng. Cây cầu gỗ xóm tôi có tên là Cầu Trường vì ngày trước ở đó có trường học chữ nho. Cây cầu đó là nơi tụ tập, ngồi hóng mát của trẻ con. Những đêm trăng sáng, tôi thường ngồi trên cầu thổi sáo tới khuya.
Chúng tôi là trẻ con nghèo, áo quần thiếu thốn, vá víu, lại luôn đói bụng. Chúng tôi bày trò ăn trộm chuối xanh, mít, cam... của hàng xóm, rấm trong các đống rơm rạ, khi trái cây chín thì tổ chức liên hoan. Một chiều 30 tết, u tôi phát hiện ra tôi ăn trộm chuối xanh rấm trong đít voi sành ở nghĩa trang liệt sĩ, bà chửi tôi một trận nên thân. Từ đó tôi cạch, không bao giờ giám theo bạn đi ăn trộm nữa.
Lên cấp hai, cả lũ trẻ Xuân Trung đều học ở Xuân Phương, vì khi đó Xuân Trung chưa có trường cấp hai. Năm lớp 6, tôi gửi hai bài thơ dự thi cuộc thi thơ của trường tổ chức, đoạt giải nhì. Đài truyền thanh huyện đưa tin mấy lần nhắc đến tên tôi, tôi sinh ra kiêu, và cứ tưởng mình thành nhà thơ đến nơi rồi. Tối tối, tôi mang chiếu manh ra đường nằm nghe loa truyền thanh xã Xuân Phương, chờ nghe buổi tiếng thơ, rồi làm thơ khoe bạn bè. Tôi học vào loại đầu lớp, nhất là môn văn. Các thày cô giáo đều yêu quý tôi.
Năm tôi học lớp 7, cái Nụ, bạn cùng lớp tự nhiên tâm thần, luôn mồm nói yêu tôi. Người nhà phải cùm chân Nụ để nó không trèo cây nhảy xuống đất. Bà ngoại Nụ sang tìm tôi, thí thỏn đưa tôi về... “xem cái Nụ có khỏi bệnh không”. Trông thấy tôi, Nụ tỉnh như người bình thường, không nói. Tôi về rồi, Nụ lại lên cơn điên. Người nhà đưa Nụ đi Hà Nội chạy chữa. Khi khỏi bệnh, Nụ đi vùng kinh tế, rồi lấy chồng, có con. Từ ngày ấy, tôi chưa một lần gặp lại Nụ.    
Ngày học cấp hai tôi chơi với các bạn Xuân Phương thân hơn các bạn Xuân Trung, vì tôi học ở Xuân Phương từ nhỏ. Tôi thân nhất chị Khổng Thị Oanh, và Huệ. Chị Oanh rất giỏi văn. Năm lớp 6 chị đạt giải nhất cuộc thi thơ của trường cấp hai Xuân Phương. Tôi thường sang chơi ở nhà chị và Huệ tới khuya. Cuối năm lớp 7, không hiểu sao Huệ tránh mặt tôi, rồi đi trung cấp, lấy chồng và ở Nam Định. Năm 2002 tình cờ gặp Huệ, tôi mới biết lý do Huệ tránh tôi là do có mảnh giấy ai đó dán vào cửa nhà Huệ viết “Nếu mày yêu thằng Giống thì tao giết chết”. Tôi không hề biết chuyện này. Tôi dò hỏi bạn bè ngày ấy nhưng không tìm ra thủ phạm. Đúng là “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò”. Tuổi học trò chúng tôi nghịch lắm.
Thân nhất trong số bạn trai của tôi là Trần Hùng Cưu, cùng xóm. Gia đình Cưu bị quy địa chủ, bị tịch thu tài sản. Cưu thường phải nhịn ăn đi học. Tôi thương bạn, sáng nào cũng dậy sớm nấu cơm, rồi nắm một nắm cơm to giấu vào cặp mang cho Cưu ăn. Sợ bố u biết, tôi xới cơm lồng phồng lên cho đầy nồi. U tôi biết, nhưng bà lờ đi như không biết gì. Bà thường nhờ Cưu khi thì quét tước, lúc bổ củi giúp, rồi giữ Cưu cùng ăn cơm với cả nhà. Năm tôi vào cấp ba thì Cưu đi bộ đội. Năm 1969 tôi trọ học ở Đình Bảng (Bắc Ninh), một buổi trưa ngủ mơ thấy Cưu đứng trước mặt tôi nói: -Tao chết rồi”. Tỉnh dậy tôi còn bàng hoàng. Mấy năm sau mới có giấy báo tử của Cưu gửi về địa phương kèm thông báo Cưu được truy tặng Huân chương chiến công.
Cùng học cấp hai với tôi có chị Liên, người cùng xã. Tôi và chị rất quý nhau. Chị nhận tôi là em kết nghĩa. Bố chị là ông địa chủ Khuyến, bị bắn hồi cải cách. Bố tôi vốn có thời đi ở và làm thuê cho ông Khuyến. Hôm chính quyền xã tổ chức đấu tố ông Khuyến, đội cải cách cứ yêu cầu bố tôi lên đấu tố ông. Bố tôi kiên quyết không nghe. Ông nói:
- Ngày ấy không có địa chủ Khuyến thì không biết tôi có còn sống không. Nhờ ông Khuyến mà tôi có việc làm, có cái ăn mà sống đến giờ. Người ta cứ tố điêu cho ông. Tôi không thể làm việc thất đức như vậy.
Quả nhiên sau đó có công văn của tỉnh gửi về ân xá cho ông Khuyến. Tiếc là công văn về không kịp.
Từ khi lên cấp ba, chúng tôi phải học ở Xuân Thuỷ, cách nhà tôi tới 6 km. Sáng sáng bọn trẻ Đông Thành tập trung ở nhà tôi, khi đủ mặt mới đi bộ tới lớp. Dì Ngát, dì Tý, Loan, Ngọc, Thuý là 5 cô gái học với tôi suốt ba năm cấp ba. Bọn con trai có Nghĩa gù, Chiến béo, Bũng, Phái, Giác, Tuấn, Hiếu, Đỗ Tý. Hết  năm lớp 8 thì Chiến đi bộ đội, sau chuyển ngành làm cán bộ tổ chức Bệnh viện Giao Thuỷ. Giác hy sinh ở miền Nam. Hết lớp 10 thì Tuấn, Hiếu đi làm ở xưởng đóng tàu thuyền Nam Định. Hiện nay Hiếu về quê nuôi gà công nghiệp. Tuấn mất vì bệnh ung thư. Bũng đi bộ đội, rồi chuyển ngành về Xuân Thuỷ. Bũng từng giữ chức Phó chủ tịch huyện Xuân Trường. Phái đi bộ đội, đóng lon Trung tá thì mất vì ung thư. Nghĩa học xong Tổng hợp văn thì về Viện Ngôn ngữ, rồi đỗ Tiến sĩ, lấy vợ Hà Nội. Đỗ Tý vào Đại học Bách khoa, ra trường làm tới Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty cơ khí xây dựng Hà Nội. Vợ Tý là Hà cùng học cấp ba, nguyên kỹ sư nông nghiệp Sở Nông nghiệp Nam Định nghỉ hưu sớm theo chồng về Hà Nội. Năm 2015 Tý mất đột ngột. Tôi vào Đại học thư viện. Dì Tý,  dì Ngát tôi và Loan, Ngọc đều vào Sư phạm, đi dạy học. Dì Tý dạy Địa lý cấp ba Giao Thuỷ, dì Ngát dạy cấp hai Nam Điền (Nam Trực), Loan dạy văn cấp ba Xuân Trường B, Ngọc dạy văn cấp ba Hải Hậu A. Riêng Thuý đi Đại học nông nghiệp, ra trường đi miền núi mãi sau mới chuyển về được Giao Thuỷ.
Ngoài số bạn học cùng xã, tôi còn chơi thân với Đường (Xuân Nghĩa), Hiểu, Hà (Xuân Kiên). Vì bố là địa chủ nên Đường không được đi đại học, ở nhà làm ruộng. Hiểu học xong lớp 10 cũng ở nhà làm nghề thợ mộc. Hà đi đại học nông nghiệp về công tác ở Sở Nông nghiệp Nam Định, rồi lấy Đỗ Tý.
Năm lớp 10, tôi được chọn vào đội tuyển giỏi văn của trường. Các vòng thi từ trường, miền tới vòng sơ tuyển cấp tỉnh, tôi đều đứng thứ nhất, thứ nhì. Đến vòng chung khảo tỉnh thì tôi bị loại vì đề văn hỏi về văn học dân gian, chúng tôi chưa được thày dạy văn bồi dưỡng. Thày dạy văn tôi là thày Bùi Hoàng Kim. Ông thuộc dạng người sống thiên về nội tâm, giàu tình cảm. Ông thường hay đi thăm các gia đình học sinh và sống chan hoà, giản dị. Chúng tôi rất quý ông còn vì ông yêu văn nghệ. Ông thường chủ trì các tiết mục của lớp tôi dự thi với trường. Ông khen tôi thổi sáo khá hay. Trong học bạ của tôi ông còn ghi rõ là “Có năng khiếu sáo trúc”. Năm 1967 ông dẫn tôi cùng đoàn văn nghệ của trường đi Hội diễn văn nghệ do Ty giáo dục tổ chức ở Lý Nhân. Tiết mục sáo trúc của tôi được giấy khen. Năm 1998, ông mất ở Nam Định.
Năm lớp 10, chúng tôi phải trọ học ở Xuân Thuỷ. Tôi và Đỗ Tý trọ chung nhà. Hàng tuần chúng tôi về nhà lấy gạo, củi đưa lên nơi trọ. Có lần u tôi đội bó rơm lớn, tay dắt cô Hà lên chơi với tôi. Mỗi tuần u tôi cho tôi 6 bơ gạo (khoảng 4 - 5 kg). Củi và thức ăn mặn mang ở nhà đi dùng cả tuần. Chúng tôi chỉ phải mua rau hàng ngày. Một bận về đột xuất, bắt gặp cả nhà tôi ăn độn toàn củ chóc và khoai, tôi giật mình. Hoá ra tôi vô tâm nhận sự quan tâm hết lòng của u tôi. Dì Mùi bảo nhỏ cho tôi biết là cán bộ phòng thuế tịch thu gánh hàng sắt của nhà tôi vì bố U tôi trốn thuế. Bố tôi phải bỏ đi than tàng kiếm sống cả năm trời. Đỗ Tý bàn với tôi, mỗi tuần mỗi người chỉ ăn ba bơ gạo, để giảm bớt gánh nặng cho u tôi.
Năm 1968, chúng tôi thi tốt nghiệp, đề lịch sử coi như không tính vì đề ra có vấn đề. Tý và tôi đều là học sinh giỏi nên cả hai được nhà trường cho làm lý lịch xét đi học nước ngoài. Tý là con gia đình liệt sĩ nên xã cho đủ hai lý lịch và đồng ý cho đi nước ngoài. Tôi bị ông Vinh phó chủ tịch xã phê vào lý lịch là “Mẹ buôn gian bán lậu, gia đình chưa có ai tham gia bộ đội nên không đồng ý cho đi đại học”. Năm ấy nhà nước ta xét tuyển đại học mà không tổ chức thi. Khi có kết quả thi tốt nghiệp thì Tý bị điểm toán thấp nên phải học trong nước. Người ta xếp Tý vào Đại học Bách khoa. Tôi toàn điểm 4 và 5 nhưng lại không được chính quyền đồng ý cho đi học nước ngoài. Ngày ấy chủ nghĩa lý lịch còn nặng nề lắm. Chờ đến hết tháng 10 - 1968 mà chẳng thấy được gọi đi học trường nào, tôi buồn rũ rượi. Bố tôi đạp xe 60 cây số lên tận Lý Nhân (nơi cơ quan tỉnh sơ tán bấy giờ) tìm gặp ông anh vợ (anh bà vợ cả của bố tôi) là bác Lê Văn Lễ làm Phó ty Văn hoá nhờ giúp đỡ. Bác Lễ sang hỏi ban tuyển sinh. Cán bộ ban tuyển sinh nể bác nhưng tìm mãi không thấy tên tôi ở trường nào, họ mới lục tìm trong đống hồ sơ không cho đi học thì thấy hồ sơ của tôi. Nhờ chuyện này mà bố tôi biết xã phê lý lịch cho tôi như kể trên. Bác Lễ đảm bảo lý lịch nhà tôi là thành phần tốt và đề nghị Ban tuyển sinh xắp xếp cho tôi đi học. Người ở Ban tuyển sinh bảo chỉ còn Đại học nông nghiệp và Cao đẳng thư viện là đang tuyển người. Bác Lễ quyết định cho tôi đi học thư viện. Sự kiện này quyết định cuộc đời tôi gắn bó với nghề thư viện sau này. Bác Lễ hứa khi tôi học xong sẽ nhận tôi về làm việc với bác. Nhưng tôi phải bỏ dở học để đi bộ đội. Hơn chục năm sau tôi mới chuyển ngành về Hà Nam Ninh thì bác Lễ đã nghỉ hưu và mất.
(Tác giả Trần Mỹ Giống cùng cháu đích tôn)
Tháng 11 - 1968, có giấy gọi tôi nhập học. U tôi chạy vạy vất vả để lo cho tôi có các tư trang cần thiết. Hồi ấy, tôi chưa từng có một cái quần Tây và áo sơ mi trắng. Ba bộ quần áo cũ của tôi đều là quần giải rút, áo tứ thân nhuộm nâu. Năm ấy Trần Phú Câu là bạn học cùng xóm có lệnh đi bộ đội, Câu đã nhượng lại cho tôi cái quần Tây cạp liền ka ki với giá rẻ. Tôi mừng như bắt được vàng. U tôi mua thêm cho tôi cái mũ lá. Thế là đủ tư trang nhập học. Nhân có xe com măng ca của ông Việt Hùng - người cùng thôn làm Cục trưởng cục đường bộ về chơi, U con tôi xin đi nhờ lên Hà Nội. Ngày ấy đường xá đâu có tốt như bây giờ, phương tiện giao thông lại vô cùng khó khăn, nên được ông Việt Hùng đồng ý cho đi nhờ, U con tôi mừng lắm. Xe xuất phát từ 6 giờ chiều, mãi nửa đêm mới tới Hà Nội. Tôi say xe lả lướt, nôn suốt dọc đường. Ông Việt Hùng nhiệt tình giữ u con tôi nghỉ lại nhà ông. Sáng hôm sau, từ tinh mơ, u con tôi đã đi bộ ra bến Nứa, định đi ô tô sang Yên Viên bắt tàu hoả đi Bắc Giang, nhưng xếp hàng tới chiều vẫn không mua được vé xe, u con tôi quyết định đi bộ 12 km sang ga Yên Viên. Tại ga Yên Viên, u con tôi xếp hàng mất hai ngày mới mua được vé đi Bắc Giang. Trong khi chờ tàu ở Yên Viên, tôi gặp chị Yến (người Nam Trực), Toàn, Yến, Chơi và cái Vinh (người Thái Bình) cùng vào đại học thư viện với tôi. Thằng Toàn ít hơn tôi một tuổi, có bố dẫn đi, trông nó như trẻ con. Chúng tôi nhập hội với nhau cùng đi Bắc Giang. Tới ga Bắc Giang, trời vừa sáng. Cả bọn lại dắt díu đi bộ dọc theo đê sông Thương, gần 20 km mới tới Hồng Phong, Yên Dũng - Nơi trường thư viện sơ tán. Chúng tôi được cán bộ nhà trường bố trí ở khu nhà khách, chờ phân bổ vào ở nhờ nhà dân. Sáng hôm sau, U tôi  cùng một số phụ huynh khác đi bộ ra ga Bắc Giang về quê. U tôi dặn dò tôi từng ly từng tý, rồi dúi cho tôi 70 đồng. Bấy giờ 70 đồng là số tiền không nhỏ, hơn cả tháng lương của trưởng phòng cấp huyện. U tôi về rồi, tôi buồn ngơ ngẩn.
(Tác giả Trần Mỹ Giống cùng 5 cháu nội, ngoại)
Tôi được phân công cùng Châu (người Thanh Hoá) và Bút (thành phố Nam Định) ở nhờ nhà bác Phong. Hai vợ chồng bác đông con nên nhà rất nghèo. Ngôi nhà của bác lợp lá lúp xúp trên sườn đồi bạch đàn. Ba thằng chúng tôi ngủ chung một chõng tre, cùng một tổ học tập. Châu giọng trọ trẹ, tính thẳng thắn, không biết cách nói khéo, tính lại chi li vì Châu đã lấy vợ nên phải lo kinh tế gia đình. Tôi chưa có kinh nghiệm sống nên không thích Châu. Trái lại với Châu, Bút rất khéo nói, phong cách hào hoa kiểu thành thị nên tôi rất thân với Bút. Hai chúng tôi như hình với bóng, ăn chung, tiêu tiền chung, ngủ chung, dùng chung va li. Còn Châu thì một mình thui thủi, lặng lẽ. Sau này ra công tác, khi biết tin Châu mất đột ngột ở Thanh Hoá, tôi cứ ân hận mãi về sự lạnh nhạt của mình với Châu trong năm học thứ nhất.
Tháng đầu tiên nhập học, chúng tôi lao động xây dựng trường. Ngày hai bữa trưa và tối, chúng tôi luân phiên nhau trực nhật: đi lấy cơm cho cả tổ, ngày chủ nhật giúp nhà bếp nấu cơm. Đang ăn sáng và trưa, lại được ăn no, giờ ăn trưa và tối, lại chỉ có một nắm mì hấp và lưng bát cơm, tôi luôn trong tình trạng đói. Có hôm trực nhật gánh cơm qua đồi bị ngã, lại phải nhịn ăn. Tôi và Bút ăn quà hàng ngày. Lúc đầu chỉ có 1 hào 1 quả trứng, sau tăng giá lên ba hào. Bọn học sinh tức khí, nửa đêm ra đốt quán của mấy người hàng quà. Tính tôi hào phóng, sau một tháng bao bạn bè ăn quà hết cả 70 đồng u tôi cho. Thương bọn học sinh đói, bác Phong thường nấu cơm độn thêm nhiều sắn mời chúng tôi ăn.
Lớp tôi có 30 nam, 30 nữ. Tuy cũng bè phái, cũng có lúc giận nhau, nhưng bao trùm tất cả là rất yêu quý nhau. Bút rất thích Hải vì Hải xinh gái nhất nhì lớp. Tôi thường viết thư, làm thơ hộ Bút gửi tán Hải. Một lần sau khi đọc bài thơ tôi viết hộ Bút gửi tỏ tình với Hải, ví Hải như hoa, Hải đã trả lời Bút bằng một bài thơ lục bát, đại ý nói mình là hoa hồng đầy hương sắc và kiêu hãnh chứ đâu phải loại hoa muống vô vị, đừng có động vào mà gai đâm chảy máu tay.
Năm 1983 tôi chuyển ngành về Thư viện tỉnh Hà Nam Ninh. Khi đó Hải và Bút đã lấy nhau và đã có hai con. Một lần sang thăm Thư viện Nam Định, cậu Toàn phó giám đốc Thư viện Thái Bình, bạn học cùng lớp đùa hỏi Hải:
- Bây giờ bà có còn là hoa hồng nữa không?
Hải cười:
- Tôi ra hoa muống rồi.
Trong số bạn nữ ở lớp có mấy người tỏ ra thích tôi, nhưng tôi lại chỉ thích có mình Khế. Hồi ấy, Khế gầy và xanh xao ốm yếu. Gặp Khế lần đầu, tôi linh cảm cuộc đời mình sẽ gắn bó với Khế. Chúng tôi bắt đầu gần gũi nhau, đi chơi với nhau thường xuyên hơn. Sau một tháng lao động, tôi đã quyết định ngỏ lời yêu với Khế. Và thế là hai chúng tôi chìm đắm trong hạnh phúc và chịu bao thiệt thòi đau khổ. Chuyện yêu nhau, tôi chẳng hề che giấu ai. Cô Nga chủ nhiệm lớp gọi tôi lên gặp và ra điều kiện:
- Nếu cậu muốn học, thì thôi yêu. Nếu còn yêu đương vi phạm kỷ luật nhà trường thì sẽ bị đuổi học.
Tôi cãi lại cô:
- Em không thấy có luật nào nhà nước cấm chúng em yêu đương. Cô muốn đuổi thì đuổi, em không thể không yêu.  
Cô Nga chỉ còn biết lắc đầu thất vọng. Cô chỉ đạo lớp họp hai tối liền để kiểm điểm chúng tôi. Các vị cán bộ lớp, phân đoàn trưởng, Ban chấp hành chi đoàn, tổ trưởng học tập được quán triệt tư tưởng trước, đã thi nhau phân tích “tác hại của chuyện yêu đương” và thiên về đổ lỗi cho tôi. Khế thẳng thắn tuyên bố:
- Tôi yêu anh Giống. Cảm ơn các đồng chí đã nói hộ tôi lời yêu.
Tôi như được tiếp thêm sức mạnh và quyết học giỏi để... cho bọn nó biết mặt. Ý nghĩ sẽ sống trọn đời với Khế càng rõ rệt trong đầu. Kết quả là ba năm tôi bị hạnh kiểm D và C. Vì thế, dù tôi toàn điểm khá giỏi nhưng vẫn không được công nhận là học sinh tiên tiến. Sau này, dở năm thứ tư, khi tôi đi bộ đội, cái án hạnh kiểm C mới được xoá bỏ. Chuyện tiên phong phá vỡ kỷ luật nhà trường của chúng tôi thành chuyện xôn xao cả trường. Tôi hay làm thơ tặng Khế, thơ bị lọt ra ngoài, nhiều người thuộc và còn nhớ đến bây giờ. Khi đã là ông, là bà, gặp nhau, bạn bè nhắc lại chuyện xưa của chúng tôi như là một kỷ niệm đẹp. Lê Thanh Tình - Hiệu phó Đại học Văn hóa, một lần về Nam Định công tác đã đến thăm tôi. Ôn lại chuyện ngày xưa, Tình đọc câu thơ của tôi:
- …“Tên chua như Khế thế mà vẫn say”…
Tôi và chị Yến (người Nam Trực) kết nghĩa chị em với nhau. Khi chị về nhà tôi chơi, thấy chị ăn mặc xuềnh xoàng, U tôi mua tặng chị hai mét vải may áo. Tình cảm của chị và tôi ngày càng thân thiết. Tôi thực sự quý chị như em trai quý chị gái. Một buổi sáng, từ tinh mơ, Khế hớt hải báo tin cho tôi biết:
- Chị Yến làm sao ấy. Chị cứ chửi em cướp em trai của chị ấy. Anh đến ngay xem sao.
Tôi hoang mang theo chân Khế tới nhà trọ của Khế và chị Yến. Vào nhà, thấy chị Yến phờ phạc, xanh xao, đang ngồi bó gối trên giường, ánh mắt thất thần, tôi lặng lẽ ngồi xuống bên chị. Chị ôm chặt tôi vào lòng, miệng cứ lầm bầm “em yêu của chị”. Tôi chỉ biết ngồi im trước sự ngạc nhiên của những người xung quanh. Lúc sau chị Yến mới nằm xuống nghỉ. Các bạn cùng lớp đưa chị Yến đi bệnh xá. Sau gần một tháng nằm bệnh xá, chị Yến khỏi tâm thần. Cậu Yến người Thái Bình tỏ tình với chị. Chị nhận yêu Yến. Nhưng thằng Yến chỉ lợi dụng chị mà không thực sự yêu chị. Đến mãi sau này, khi gặp lại thằng Yến đã là Phó Giám đốc Sở Văn hoá Thái Bình, tôi vẫn còn ghét nó. Chị Yến về công tác ở Thanh Hoá, lấy chồng ở đó. Năm 1985, tôi chuyển ngành về công tác tại thư viện Hà Nam Ninh.  Một lần đi công tác ở Thanh Hoá tôi đã đến thăm chị. Gặp tôi, chị mừng rỡ như chị gái gặp em trai ruột vậy. Chị kêu các con chị gọi tôi là cậu. Thấy áo đại cán của tôi có cái cúc sắp đứt, chị bắt tôi đưa chị đơm lại. Cử chỉ âu yếm của chị làm tôi cảm động. Tôi cảm nhận được tình cảm chân thành của chị. Dịp về thăm quê, chị tạt qua thành phố Nam Định thăm vợ chồng tôi. Chị cứ thương vợ chồng tôi túng bấn. Chị để mấy bơ gạo nếp cho các con tôi. Chắc là gạo các cụ ở quê  cho chị.
Vợ chồng bác Phong chủ nhà tôi trọ rất quý tôi và Khế. Hai bác thường vun vào cho hạnh phúc của chúng tôi. Tôi thực lòng biết ơn hai bác. Lần về thăm nhà đầu tiên, tôi nghĩ mãi không biết mua gì làm quà cho hai bác. U tôi mua đôi chiếu cói đẹp, bảo: “Vùng núi thì chiếu cói là quý”. Quả nhiên, hai bác rất mừng khi nhận đôi chiếu tôi biếu. Thấy hai bác vui, tôi cũng vui lắm. Hoá ra, đem lại niềm vui cho người khác thì mình cũng hạnh phúc thật.
Hết năm thứ nhất, chúng tôi chuyển trường về thôn Long Vĩ, làng Đình Bảng thuộc Bắc Ninh. Từ đó đến nay tôi chưa có dịp gặp lại bác Phong, nhưng tôi vẫn nhớ về hai bác.
Năm 1969, Cường người Nam Định và Đê người Hải Dương trúng bộ đội. Tôi không trúng tuyển bộ đội đợt này vì chỉ nặng có 38 kg. Sau này tôi có gặp Đê ở chiến trường Quảng Trị trên đường hành quân. Khi tôi chuyển ngành về trường thì Đê cũng ra quân, học tiếp và về công tác ở Hải Dương một thời gian rồi về hưu non. Còn Cường thì chỉ nghe nói ra quân công tác ở thư viện huyện Mỹ Lộc (Nam Định) mấy năm rồi theo vợ vào Nam.
Bố tôi nghe tin tôi có thể phải đi bộ đội, ông đã đi bằng xe đạp từ nhà lên Hà Đông tìm gặp anh Tuất con bác Liêm đang công tác ở nhà máy cơ khí, rủ anh cùng sang Bắc Ninh thăm tôi. U tôi gửi cho tôi bánh quà, bắt bố tôi mang theo cả hai con gà nữa. Được biết chắc chắn tôi không đắt bộ đội, bố tôi mới yên tâm đạp xe về. Ngày tôi trả phép năm thứ nhất, bố tôi đèo tôi bằng cái xe đạp trâu Liên Xô lên Nam Định, rồi đi tàu hoả lên Hà Nội. Từ Hà Nội bố tôi lại chở tôi bằng xe đạp lên tận Yên Dũng.
Sang năm thứ hai, lớp tôi rộ lên phong trào yêu đương. Cậu Trần Lý yêu Xuyên, anh Phan Tứ yêu Hoàng Lý, Bổng yêu Vinh, Tình yêu Thành... Các đôi yêu nhau ngày ấy, có đôi thành công, có đôi không thành. Các đôi đã cưới được nhau như vợ chồng tôi là Tứ - Lý, Trẩm - Lan, Bút – Hải, Bổng - Vinh. Cũng như tôi ngày ấy, các đôi lần lượt được đưa ra toà án lớp xét xử. Trong các buổi kiểm điểm tôi không phát biểu gì. Những người phát biểu không còn cái hăng hái như ngày kiểm điểm tôi và Khế, vì họ là sinh viên thường. Những người bị kiểm điểm lúc này lại toàn là cán bộ lớp, cán bộ đoàn đã từng chỉ trích tôi gay gắt trước đây. Tuy vẫn bị hạnh kiểm xấu, nhưng chẳng ai coi chuyện yêu đương là đáng trách cả. Dư luận nhà trường gọi lớp tôi là lớp “K xấu” thay vì phải gọi đúng tên là K6. Vợ chồng tôi thành những kẻ tiên phong “tử vì đạo” và được công nhận là đôi chung thuỷ và hạnh phúc nhất lớp.
Các đôi yêu nhau chúng tôi bày trò nấu ăn chung. Từng đôi sinh hoạt ăn uống như một gia đình riêng. Một lần anh Tứ rủ chúng tôi đi ăn trộm phên nứa che gạch của hợp tác xã về làm củi đun. Bị nhân dân phát hiện, nhà trường kỷ luật, anh Tứ nhận hết tội về mình. Khi tôi đi bộ đội, anh Tứ được hoãn. Anh cho tôi địa chỉ bà chị ở 35 Đinh Tiên Hoàng, thị xã Ninh Bình để khi tôi cần giúp đỡ thì tìm tới. Sau này tôi về công tác ở Thư viện Hà Nam Ninh, anh Tứ có dịp đi công tác Thái Bình đã tạt qua thăm vợ chồng tôi. Anh Tứ từng là cán bộ phong trào Sở Văn hóa Hà Nội, chuyển làm Giám đốc Quốc Tử Giám Hà Nội thay anh Lộc (cán bộ Thư viện Hà Nam Ninh chuyển công tác lên Hà Nội) nghỉ hưu. Thời gian như bóng câu qua cửa sổ. Hơn bốn mươi năm ngoảnh lại lớp Đại học ngày ấy, các bạn Lê Thanh Tình, Trẩm, Châu, Khải, Yến, Lý, Hiền,… đã thành người thiên cổ.
Năm 1970 chúng tôi về Hà Nội. Năm học thứ ba qua đi với tôi vẫn cái án hạnh kiểm xấu và không được tiên tiến dù toàn điểm khá giỏi. Tôi cũng lo ra công tác sẽ gặp khó khăn vì hạnh kiểm kém, nhưng rồi tôi lại cho qua tất cả vì luôn tự tin là mình không sai trái. Sang năm thứ tư, thi kết thúc 8 môn học cuối cùng, có ba người đạt điểm vượt xa so với cả lớp là chị Liễu 65 điểm, anh Chương và tôi đều 63 điểm. Hầu hết còn lại đạt trên dưới 40, 50 điểm. Tôi hy vọng với điểm cao như thế hẳn sẽ có tương lai. Nhưng chưa kịp vào thời gian thực tập thì tôi trúng bộ đội, và vì thế không được cấp bằng đặc cách như bọn bạn đi bộ đội sau tôi ba tháng. Sự kiện đi bộ đội là bước ngoặt lịch sử làm thay đổi toàn diện con người tôi và cuộc đời tôi.


 GÁC BÚT NGHIÊN THEO VIỆC BINH ĐAO
Thế là sau ba lần khám tuyển, mặc dù chỉ nặng có 39 kg và 3 lạng, bác sĩ khám tuyển ghi tròn là 40 kg, tôi trúng bộ đội. Những năm 1970 - 1972 đi bộ đội vào Nam chiến đấu rất ít hy vọng có ngày trở về, vì cuộc chiến vào hồi ác liệt chưa từng thấy. Tôi không thấy vui, cũng chẳng buồn đến rã rời như một số người khác cùng trúng bộ đội đợt này. Đối với tôi, đi bộ đội như là một việc tất nhiên phải thế.
Lớp K6 Đại học Thư viện năm thứ 4 chúng tôi có cả chục người được gọi nhập ngũ đợt này, nhưng cuối cùng chỉ ba người nhận nhiệm vụ. Đó là Nguyễn Văn Thị, quê Hưng Yên, rất giỏi tiếng Nga, người nhỏ thó. Thị bị thương trên đường tiến vào Quảng Trị, phải ra Bắc rồi về học tiếp. Sau Thị làm Giám đốc Thư viện tỉnh Hưng Yên, rồi đi xuất khẩu lao động, về nước học thạc sĩ thư viện, lại làm giám đốc thư viện và nghỉ hưu. Người thứ hai là Nguyễn Văn Đủ, quê Thái Bình. Đủ hiền lành, tốt tính. Đủ bị thương ở Ái Tử (Quảng Trị), ra Bắc học lại rồi về Thư viện tỉnh Thái Bình. Là thương binh, bí thư chi bộ, nhưng bị người ta kèn cựa vùi dập, Đủ phải bỏ nghề về quê. Người thứ ba là tôi, kẻ được bạn bè quen gọi là “Giống còm”, từng ba năm liền bị hạnh kiểm D hoặc C và không được công nhận là Học sinh tiên tiến mặc dù điểm thi và kiểm tra các môn toàn khá giỏi, chỉ vì cái tội yêu đương. Chỉ khi tôi có lệnh nhập ngũ, cái án hạnh kiểm D dành cho tội yêu đương mới được xóa bỏ.
Số người trong danh sách phải đi bộ đội cùng đợt với tôi còn lại đã được hoãn, miễn với các lý do thật xác đáng: người có điện bố chết, kẻ có giấy của y sĩ chứng nhận là liệt dương, đứa hạnh phúc tan vỡ vì kẻ ở người đi...
Cả trường có 10 người lên đường. Ngoài ba thằng K6 chúng tôi, còn có Đặng Hoàng Song (K5), Lê Văn Thạch (K7), Cúc quê Đình Bảng (Bắc Ninh) lớp trung cấp thư viện 4, Bảo, Dũng, Hậu lớp trung cấp văn hoá quần chúng, và một cậu nữa tôi không nhớ tên. Khi vào chiến trường, Đặng Hoàng Song được điều xuống đơn vị chiến đấu và hy sinh. Lê Văn Thạch được đề bạt Trung đội phó Trung đội vận tải. Mấy tháng sau có tin Thạch bị kỷ luật cho ra Bắc, học tiếp đại học. Cúc vào chiến trường, đột ngột có lệnh ra Bắc. Sau này khi về học tiếp đại học, tôi nghe nói cả nhà Cúc bị bom chết hết. Cúc ra Bắc về Đoàn quân nhạc thổi kèn. Sau Cúc xuất ngũ và lấy vợ ở quê... Số bạn cùng trường đi bộ đội với tôi còn lại đến nay tôi không được tin gì.
Đêm 5 - 9 - 1971 trường tổ chức liên hoan tiễn chúng tôi. Mọi người phát biểu cảm tưởng và hứa hẹn với những lời có cánh. Đến lượt tôi, tôi chỉ nói một câu:
- Tôi đi chiến đấu, dù chết cũng không đảo ngũ.
Lời phát biểu cộc lốc của tôi làm mọi người bất ngờ. Tôi nhận được nhiều ánh mắt đồng cảm của bạn bè và của cả những người tôi chưa từng quen biết. Một vị khách tự nguyện đến đưa tiễn chúng tôi là chồng chị Dung cùng lớp tôi, phát biểu :
- ... Chúc Giống lập nhiều chiến công, viết lên những trang anh hùng ca. Và Khế sẽ là người giới thiệu những trang anh hùng ca ấy...
Không ngờ lời nói văn hoa bay bướm của anh làm tôi bị ám ảnh suốt những ngày chiến đấu ở Quảng Trị sau này. Có lẽ một phần nhờ câu nói đó mà tôi không có gan hèn nhát.
Cuộc liên hoan chia tay chúng tôi kéo dài đến khuya. Không ai muốn ra về trước. Sau buổi liên hoan, các chàng lính tương lai rủ nhau mang sách vở ra đốt. Chẳng hiểu sao ngày ấy chúng tôi lại làm thế. Có người bảo đốt sách để tỏ rõ quyết tâm đi chiến đấu. Tôi không nghĩ được như thế, thấy bạn rủ đốt thì đốt thôi. Thấy chúng tôi đốt sách, anh Hoàng Chương cùng lớp tôi xin lại tất cả vở ghi của tôi. Anh bảo vở của tôi ghi rất đầy đủ và đẹp, còn của anh thì ghi chẳng đâu vào đâu. (Lạ thật, tôi được mệnh danh là “vua ngủ gật” trên lớp mà vở lại ghi đủ và đẹp?). Tôi đi bộ đội thì không cần đến nữa, nhưng anh thì cần. Tôi tặng anh tất cả sách vở chưa kịp đốt của mình. Sau này, khi tôi rời quân ngũ về trường học tiếp, anh Chương đã là giảng viên dạy Mỹ học.
Đêm ấy, chúng tôi thức trắng. Khế lặng lẽ ngồi bên tôi, tranh thủ khâu cho tôi cái túi đựng đồ đánh răng. Tôi tiếc là không được học hết đại học, nhưng biết làm sao, trai thời loạn mà. Nghĩ đến những tháng năm tới phải xa Khế, tôi nôn nao trong lòng. Nói dại, nếu tôi không trở về được, Khế sẽ ra sao? Dường như hiểu những suy nghĩ của tôi, Khế thì thầm:
- Dù anh có làm sao thì em vẫn yêu, vẫn đợi.
Tôi ôm xiết Khế vào lòng, cảm nhận rõ hơi ấm và tình yêu của Khế. Chúng tôi cứ ngồi bên nhau như thế, không còn khái niệm thời gian. Khi Đủ gọi lên Hội trường tập trung, tôi bừng tỉnh.
Hôm ấy là ngày 6 - 9 - 1971.
Sáng sớm, bố tôi từ quê lên tiễn tôi. Để kịp sáng nay tiễn con trai lên đường, bố tôi phải đi từ chiều hôm trước, tới Nam Định thì đi tàu đêm. Trông thấy tôi, ông không nói gì, chỉ nhìn tôi bằng ánh mắt buồn sâu lắng. Lần đầu tiên tôi nhận ra rằng bố tôi rất yêu tôi. Anh Tuất con bác Liêm ở quê đang làm công nhân cơ khí trong Hà Đông và Đỗ Tý, bạn thân cùng học với tôi từ nhỏ, hiện là sinh viên năm thứ tư Đại học Bách khoa, cũng đến tiễn tôi.
Người tiễn chúng tôi khá đông. Tôi không nghe rõ những bài phát biểu của lãnh đạo trường, không nghe rõ những lời chúc tụng của bạn bè. Một thợ ảnh lăng xăng chụp chúng tôi. Không biết vì chụp hỏng, hay vì máy không có phim như có người bình luận mà không bao giờ chúng tôi được nhìn thấy tác phẩm của anh ta. Khi xếp đội hình để người ta chụp ảnh, thấy mắt anh Đặng Hoàng Song đỏ ngầu, gỉ mắt hoen trắng, tôi kéo tay áo lau cho anh. Anh Song ôm chặt hông tôi, người anh run bần bật như bị sốt rét. Đặng Hoàng Song vừa nhận bằng tốt nghiệp và quyết định giữ lại trường làm giảng viên, chuẩn bị cưới chị Lâm cùng lớp. Chưa được lên bục giảng lấy một lần, Đặng Hoàng Song đã nhận quyết định nhập ngũ.
Đến giờ xuất phát, 10 chiến sĩ tương lai chúng tôi lên xe com - măng - ca. Xe chuyển bánh. Cả lớp tôi vẫy tay. Đỗ Tý và anh Tuất nắm tay tôi thật chặt. Bố tôi nghẹn ngào:
- Con đi!
Tôi cố tạo nụ cười để bố tôi yên lòng:
- Bố giữ gìn sức khỏe chờ con trở về. Nhất định con sẽ về... Bố nói với u con như thế bố nhé!
Khế chạy theo xe, nước mắt tràn mi, cố níu tay tôi. Tôi thầm gọi trong lòng: "Khế ơi!" và căng mắt nhìn thu lấy hình ảnh những người thân cho tới khi không còn nhìn thấy gì nữa.
Xe qua Khâm Thiên, chợ Mơ rồi tới Lĩnh Nam. Phố xá ồn ào bỗng thấy thân quen xiết bao. Chúng tôi ai nấy im lặng suy tư. Tôi rụt rè đề nghị: "Hát lên!" cho... khí thế và cất giọng không tự tin lắm hát "Giải phóng miền Nam". Một người hát theo, hai người, rồi cả 10 người cùng hát. Những người đi đường dừng lại vẫy chào chúng tôi. Một cảm xúc dạt dào rất lạ dấy lên trong lòng...
Tới địa điểm giao quân, chúng tôi được biên chế thành một tiểu đội. Tiểu đội trưởng tên là Chít, người Vĩnh Linh, rất trẻ. Anh Song là Đảng viên, được phong chức Tiểu đội phó. Mỗi người được phát hai bộ quần áo, khăn mặt, giày vải và dép cao xu, ba lô, mũ và một số thứ khác trang bị cho cá nhân. Chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng khi mặc bộ quần áo rộng khác hẳn bình thường, cứ nhìn nhau không nín được cười.
Trong khi chờ tổ chức biên chế, chúng tôi học điều lệnh đội ngũ, xạ kích. Chưa quen với nếp sinh hoạt của người lính, tôi rất mệt, nhưng vẫn cố hết sức để theo kịp đồng đội. Trong tiểu đội, tôi là người gầy yếu nhất.
Nhớ lớp, nhớ người yêu đến cồn cào trong dạ. Có hôm, tôi cùng Đủ và Thị kéo nhau ra chỗ khuất ôm nhau khóc thút thít như trẻ con. Cuối tháng tổng kết, tôi được biểu dương vì có tinh thần cố gắng học tập, được đơn vị thưởng phép ngày chủ nhật. Tôi đi bộ về trường ngay sau khi sinh hoạt tối xong. Nửa đêm, cả phòng tập thể nữ thức dậy vui mừng đón tôi. Các bạn nữ dồn người nằm chung giường, dành cho tôi và Khế một giường. Suốt ngày hôm sau chúng tôi ở bên nhau. Mới xa lớp một tháng mà tưởng như đã một năm rồi. Bạn bè tíu tít hỏi han, chăm sóc. 5 giờ chiều tôi lại đi bộ về Lĩnh Nam (Thanh Trì) để kịp điểm danh buổi tối. Thời gian bên người thân đi nhanh như ngựa phi.
Tháng 10 - 1971 tổ chức biên chế xong, đơn vị hành quân về Yên Thế (Bắc Giang). Đại đội tôi đóng quân ở xóm Cầu Đá, xã Tân Tiến. Ngày ngày rèn luyện xạ kích, đội ngũ, tập đeo nặng đi bộ... Cùng đại đội tôi có họa sĩ Lê Duy Ứng rất hay hát bài hát về hoa chăm pa, sau đi chiến trường Ứng bị đạn vào mắt đã dùng máu vẽ chân dung Bác Hồ... Ngày chủ nhật, có lần chúng tôi rủ nhau thăm nhà văn Nguyên Hồng, nghe ông nói về văn chương.
U tôi và em Đằng lên thăm ba ngày. U tôi gầy yếu lắm, nhưng bà yêu tôi nhất trên đời nên bà đủ sức đi bộ hàng trăm cây số. Tôi đưa U và em Đằng vào thăm bác Vang, chị Mận và cô Giốc. Cô Giốc là con nuôi của bà nội tôi. Bác Vang và cô Giốc bỏ quê lên vùng kinh tế mới Yên Thế từ năm 1960.
Tháng 12 - 1971, tiểu đoàn 19 (sinh viên) thuộc Trung đoàn 101 Sư đoàn 325 chuyển quân về Quế Võ và kiện toàn tổ chức. Hầu hết quân số thuộc trường Lý luận nghiệp vụ văn hóa được điều về Trung đội vệ binh của Trung đoàn. Anh Đặng Hoàng Song K5 về làm tiểu đội phó vệ binh.
B trưởng Trung đội vệ binh là anh Từ, người Thanh Hoá, lớn tuổi. B phó là anh Lục người Tây Nguyên. Sau vào Quảng Trị anh Lục hy sinh trên đường công tác. B trưởng lên làm Phó Trưởng ban hành chính rồi hy sinh. Tiểu đội trưởng Nguyễn Đình Dần, người Thanh Hoá lên B trưởng. Tiểu đội trưởng Nguyễn Minh Châu người Thạch Hà (Hà Tĩnh) lên làm B phó. Tiểu đội phó Nguyễn Văn Sánh, người Hà Tĩnh lên Tiểu đội trưởng. Tôi cũng được đề bạt làm Tiểu đội trưởng. Nhưng đấy là sau này, còn bây giờ chúng tôi chuyên lo xe than, vác gạo, canh gác bảo vệ các thủ trưởng và cơ quan đầu não trung đoàn.
Tôi thường tâm sự với anh Ổn về chuyện tình yêu, chuyện học hành. Anh Ổn là thạc sĩ, giảng dạy ở Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, có bệnh đau dạ dày rất khổ. Nghe đâu người ta điều anh đi bộ đội vì anh yêu một cô học sinh và cô này có thai. Sau vào chiến trường, anh Ổn được điều về Sư đoàn bộ làm trong bộ phận cơ yếu hay cơ công gì đó...
Tết đầu tiên xa nhà, chúng tôi ở đồi bạch đàn. Đơn vị tắt bếp để toàn thể cán bộ, chiến sĩ vào dân ăn tết ba ngày. Tôi tình nguyện trông trại cho mọi người vào dân ăn tết. Nói không ai tin, ngày mồng một tết, tôi đói mềm cả người cho tới khi có hai cô gái làng tình cờ qua doanh trại tặng cái bánh chưng nhỏ.
Sau tết, tôi được cử đi học 1 tháng lớp “quản ca” do Tổng cục Chính trị tổ chức ở Bắc Giang. Chúng tôi được học nhạc lý, trình độ “ký âm pháp”. Kết thúc lớp, hai bài hát đơn ca báo cáo của tôi là “Tôi là Lê anh nuôi” và “Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng” được xếp loại khá. Sau này, hai bài đó trở thành “tủ” của tôi trong hội nghị và những đêm văn nghệ của đơn vị. Ngón “đệm sáo ngâm thơ” và độc tấu sáo trúc “Lý hoài nam” của tôi được sử dụng không biết bao nhiêu lần trong các đêm văn nghệ và những khi hành quân.
Trong thời gian tôi học lớp văn nghệ ở Bắc Giang, Khế lên thăm. Cả đêm chúng tôi không ngủ, chỉ ngồi bên nhau, giữa trời sương lạnh và im lặng. Sáng sớm hôm sau Khế ra tàu về Hà Nội kịp thi...


 VUI DUYÊN MỚI KHÔNG QUÊN NHIỆM VỤ
Trung đoàn đi dã ngoại về Chí Linh (Hải Dương). Trung đội vệ binh đóng quân trên đồi thông đền Côn Sơn, nơi ngày xưa Nguyễn Trãi từng ẩn dật.
Nghe phong phanh chúng tôi chuẩn bị đi vào Nam, bố u tôi lên Hà Nội xin phép cho Khế nghỉ học để cùng đi thăm tôi. Hai cụ đi bộ từ nhà lên thành phố Nam Định hơn ba chục cây số, đi tàu hỏa lên Hà Nội, vào trường văn hóa xin phép cho Khế nghỉ học đi cùng. Ba người đi ô tô khách lên Bắc Ninh, lại đi xe khách về Phả Lại rồi đi xe đạp ôm về Sao Đỏ, từ Sao Đỏ thì đi bộ vào Côn Sơn.
Vừa tới đơn vị, bố u tôi chưa kịp uống hớp nước đã bỏ Khế lại cho tôi rồi chủ động đòi gặp bằng được thủ trưởng trung đoàn. Anh em vệ binh tình nguyện dẫn bố u tôi lên gặp tham mưu trưởng trung đoàn. Khi gặp tham mưu trưởng trung đoàn, hai cụ tha thiết đề nghị thủ trưởng trung đoàn cho phép tôi về cưới vợ trước khi đi chiến đấu, để gia đình có người “nối giõi tông đường”.
Bộ phận hành chính đơn vị bố trí cho Khế và bố u tôi nghỉ nhờ trong nhà dân một đêm. Sáng sớm ba người lại đi bộ ra Sao Đỏ để về Hà Nội. Tôi rất muốn tiễn bố u tôi ra Sao Đỏ, nhưng công việc đơn vị không cho phép. Nhìn u tôi gầy quắt queo, chân bước liêu xiêu trên đường đồi, lòng tôi như thắt lại.
Một tuần sau, Đại úy Tham mưu trưởng, người miền Nam (tôi không nhớ tên) cho gọi tôi. Tôi lên gặp ông mà lòng hoang mang không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Ông ngồi cạnh cái bàn con, chăm chú ghi ghi chép chép lên cuốn sổ tay bìa bọc nhựa giả da. Nhìn mặt ông nghiêm trang, da đen sắt, gầy lộ xương, tôi có cảm giác ông rất khó gần. Chờ ông viết xong, bỏ bút xuống bàn, tôi mới lên tiếng:
- Báo cáo thủ trưởng, em có mặt ạ!
Ông vẫy tay:
- Vào đi! Ngồi xuống đây – Vừa nói ông vừa kéo cái ghế đẩu từ gầm bàn ra mời tôi ngồi. Ông nói giọng Bắc rất chuẩn, có lẽ ông ở Bắc đã lâu.
Tôi rụt rè ngồi ghé lên ghế, lí nhí thưa:
- Dạ!
Ông bắt đầu hỏi tôi như thẩm vấn tội phạm:
- Đồng chí có mấy anh em?
Tôi hơi ngạc nhiên, sao thủ trưởng lại hỏi về chuyện gia đình tôi vậy nhỉ? Tưởng ông giao cho nhiệm vụ gì, hay là chấn chỉnh tư tưởng tôi vì gần đây tôi có tư tưởng diễn biến không an tâm... Nghĩ vậy, nhưng tôi vẫn cố giữ giọng bình thường trả lời ông:
- Dạ! Bố mẹ em có 5 người con ạ!
- Mấy trai?
- Dạ! Bốn ạ!
- Mấy người đã xây dựng gia đình?
- Dạ! Chưa có ai ạ!
- Đồng chí là thứ mấy?
- Dạ! Em là con trưởng ạ!
- Người yêu đồng chí làm gì? Bao nhiêu tuổi?
- Dạ! Cô ấy đang thi tốt nghiệp đại học ạ! Cô ấy 23 tuổi rồi ạ!
- Có đẹp không?
Tôi tưởng nghe không rõ, nên hỏi lại:
- Dạ! Thủ trưởng bảo sao ạ?
Ông nói rõ từng tiếng:
- Cô - ấy - có - đẹp - không?
- Dạ! Với em thì cô ấy đẹp nhất trên đời ạ!
Tôi mạnh dạn lấy từ túi áo ngực tấm ảnh chụp chung tôi và Khế ngày tôi mới nhập ngũ cho ông xem. Ông nhìn chăm chú một lát rồi đưa lại cho tôi, bảo:
- Trông cô bé già dặn hơn đồng chí. Không nên để cô ấy đợi lâu hơn... Thôi đồng chí về đi!
Tôi đứng dậy, giơ tay lên ngang tai chào ông:
- Dạ! Xin phép thủ trưởng, em về ạ!
Hai ngày sau, trưởng ban hành chính gọi tôi sang lều bạt của anh, đưa cho tôi giấy nghỉ phép 15 ngày và bảo:
- Đồng chí về thu xếp giao lại súng đạn cho trung đội, cầm tờ giấy này sang quân nhu lấy ba tút thuốc Đrao và về giải quyết việc gia đình. Đúng hạn phải lên đơn vị ngay. Do điều kiện đơn vị không cử người về dự đám cưới của đồng chí được, thay mặt ban hành chính và trung đội vệ binh, tôi chúc mừng hạnh phúc đồng chí.
Nói rồi ông đưa cho tôi một gói gồm 5 tút thuốc lá Trường Sơn. Tôi mừng rú lên vì bất ngờ, nói lời cảm ơn líu cả lưỡi. Khi tôi về lán trung đội vệ binh, mọi người đã biết tin, râm ran chúc mừng, dặn dò tôi. Cậu liên lạc bảo:
- Tham mưu trưởng bảo anh thu xếp cho gọn, rồi ra xe đơn vị đi nhờ về Hà Nội. Đúng 16 giờ xe chạy.
Tôi vội xuống quân nhu nhận thuốc lá đơn vị tặng rồi theo xe về Hà Nội. Suốt chặng đường về Hà Nội, tôi vẫn còn không dám tin mình được về cưới vợ trong lúc đơn vị chuẩn bị gấp rút để sẵn sàng đi B. Tôi định bụng hôm trả phép nhất định phải nói lời cảm ơn tham mưu trưởng. Nhưng thật tiếc, dự định ấy không thực hiện được, vì khi tôi trả phép tham mưu trưởng đã đi tiền trạm vào Nam, sau đó ông chuyển đi đơn vị nào tôi không biết nữa.
Thời gian này lớp K6 đang ôn thi. Thấy tôi về đột ngột đòi cưới, Khế không dám tin, cứ cho là tôi nói đùa. Tôi làm mặt giận:
- Em không tin, không cho anh cưới thì anh ra tàu đi luôn.
Nói rồi tôi đeo ba lô phăm phăm đi ra ga Hàng Cỏ. Khi tới ga, tôi quay nhìn về phía phố Khâm Thiên, thấy Nguyễn Xuân Đào - bạn cùng lớp tôi, gò lưng đạp xe về phía ga. Đào không khó khăn gì để phát hiện ra tôi.  Đào bảo:
- Lên xe, tao đèo về! Cái Khế nó đang khóc! Lớp sẽ tổ chức cho mày!
Nhìn cái chân thọt của Đào, tôi bảo:
- Ừ, để tao lai.
- Không được! Ngồi lên đi! Tao lai được.
Khế phải bỏ ôn để lo việc cưới, vì thời gian nghỉ phép của tôi rất ngắn. Sáng hôm sau tôi và Khế lên gặp cô Nguyễn Thị Thuận (trưởng khoa, sau này khi tôi về học tiếp thì cô Thuận đã là Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức Bộ Văn hóa), báo cáo sự việc và xin phép cho Khế nghỉ học về cưới. Khi biết ý định của chúng tôi, cô Nguyễn Thị Thuận băn khoăn:
- Các em đã suy nghĩ kỹ chưa? Cưới rồi, ngộ nhỡ em hy sinh thì Khế sẽ nhỡ nhàng... Cô khuyên hai em không nên cưới vào lúc này, để Khế tập trung thi tốt nghiệp cho tốt, để Giống đi chiến đấu không vướng bận thê nhi…
Tôi không biết nói gì, ngồi im nghe cô nói. Nhưng Khế đã quyết:
- Thưa cô, chúng em đã nghĩ kỹ rồi. Chúng em yêu nhau gần bốn năm, đã phải chịu đựng thiệt thòi vì kỷ luật của nhà trường. Chúng em quyết tâm đi đến hôn nhân cô ạ. Hai gia đình chúng em cũng mong như vậy.
Cô Thuận lắc lắc đầu, rồi lại gật gật đầu và lặng lẽ viết giấy giới thiệu và giấy chứng nhận chưa xây dựng gia đình để chúng tôi về quê đăng ký kết hôn và tổ chức lễ cưới.
Khế ở lại thi, đến ngày cưới mới về.
Tôi vội vàng ra tàu trưa về Nam Định. Thời chiến, đi tàu xe hết sức khó khăn. Tôi đứng vào hàng rồng rắn trước ga Hàng Cỏ để mua vé tàu chợ về Nam Định. Gần hai tiếng đồng hồ mới tới gần cửa bán vé thì họ lại tuyên bố hết vé. Tôi đành mua vé ngoài đắt gấp ba lần. Tàu chật như nêm, hàng hóa xếp chật lối đi, hơi người ngột ngạt. Tàu chạy chậm rề rề, ga nào cũng dừng, hơn 5 tiếng đồng hồ mới tới Nam Định. Xuống ga, tôi đi bộ một mạch ra phà Tân Đệ. Về tới nhà Khế ở xã Phú Chử (Thư Trì, Thái Bình) thì đã tối mịt. Cả nhà thấy tôi về đột ngột, tỏ ra ngạc nhiên. Dì út Chanh và dì Đèo vui ra mặt, hỏi han tôi tíu tít. Hai cụ không nói gì, lặng lẽ quan sát tôi. Chờ tôi ăn xong bữa, cụ ông bảo:
- Anh đi đường mệt rồi, con Đèo thu dọn giường cho anh nghỉ. Có gì mai nói.
Lúng túng mãi không biết mai trình bày với hai cụ ra sao, tôi thao thức đến gần sáng mới thiếp đi. Buổi sáng, tôi cứ ra ra vào vào, ngồi đứng không yên. Đầu óc tôi quay cuồng nghĩ cách thưa thế nào với hai cụ. Dì Chanh đào giun, rủ tôi ra ao câu cá. Tôi buột mồm bảo dì:
- Kỳ này anh về xin cưới chị Khế...
Dì Chanh kêu tướng lên:
- Mẹ ơi! Anh Giống bảo về cưới chị Khế đây này.
Mẹ đứng ở bên bậu cửa nhà cười bảo:
- Muốn cưới thì về mời bố mẹ sang đây!
Nghe thế, tôi vội bỏ cần câu lại bờ ao, đeo ba lô, nói với hai cụ:
- Con xin phép... bố mẹ, con về Nam Định...
Tôi đi như chạy gằn một mạch sang Nam Định. Qua phà Tân Đệ, lại đi bộ qua phà Đò Quan, vào bến xe xếp hàng mua vé đi Giao Thủy. Chiều tôi về tới nhà. Bố U tôi mừng rỡ chạy đôn đáo nhờ người giúp. Cũng may, thời chiến, việc cưới hỏi chẳng cầu kỳ như bây giờ. Hai ngày sau, đoàn ăn hỏi được thành lập. Trưởng đoàn là cụ Ránh, cụ vốn quen phát biểu trước tập thể. Cậu Hoà đại diện họ mẹ tôi. Bác Vượng đại diện họ nội tôi. Nguyễn Thế Đường (xã Xuân Nghĩa) thay mặt bạn bè tôi... Đoàn ăn hỏi đi bằng xe đạp, sau 5 giờ đồng hồ vượt hơn năm chục cây số, qua đò Bùi và hai phà (Đò Quan và Tân Đệ) có mặt ở nhà gái vào chiều ngày 16 - 2 - 1972. Họ nhà gái tổ chức đón tiếp chu đáo và bàn chuyện cưới cho chúng tôi. Trong lúc ngồi tiếp nhau, hai cụ thông gia liên tục “Rước ông”, “Mời ông” và “Cứ thế ông nhá”. Cụ bà nhắc nhở:
- Hai ông cứ thế là thế nào?
Hai cụ thông gia:
- Ừ nhỉ! Thế mấy giờ mai ta xuất phát được hả ông?
- Đường cũng khí xa, tám giờ sáng ta đi cho sớm, được không ông?
- Vâng, được ạ!
- Vậy cứ thế ông nhá.
Tôi như có lửa trong lòng, đứng ngồi không yên cho tới 9 giờ tối nghe tiếng Khế gọi trên đê. May quá, Khế về kịp. Có cả Nga và Tình thay mặt lớp K6 cùng về. Nga là bí thư chi đoàn, sau này làm Giám đốc Thư viện Hà Tây. Tình là lớp trưởng, được giữ lại trường, sau đỗ Tiến sĩ được đề bạt Hiệu phó Trường Đại học Văn hóa, rồi Vụ phó Vụ Thư viện.
Sáng 17 - 2 - 1972, đoàn đưa đón dâu đi hai chục xe đạp, mà xe lại đèo người, thành ra xuất phát đúng 8 giờ sáng mà mãi 3 giờ chiều mới về tới bến đò Bùi, Xuân Trường. Qua đò Bùi Chu thì gặp đoàn nhà trai đi đón khá đông. Đoàn đưa dâu và đoàn đón dâu hợp lại, bố trí đội hình, cờ dong trống mở rước dâu rùng rinh trên đoạn đường 4 km từ đò Bùi về Xuân Trung.
(Bạn văn, trái qua phải: Hồ Y, Trần Huy Thuận, Hải Như, Hoàng Ngọc Trúc, Trần Mỹ Giống)
Cái sân nhỏ và mẩu vườn trước nhà tôi được bắc rạp che kín. Rạp là hai lá buồm nâu dùng cho thuyền gỗ mượn của bà con trong làng, bắc trên những cây luồng và cột buồm. Cổng vào sân nhà được trang trí hoa lá như cổng chào của thiếu nhi trong dịp Tết Trung Thu. Trên giữa rạp là chiếc đèn kéo quân bằng giấy bóng màu với hình bộ đội, xe tăng quay xung quanh ngọn nến. Bốn sợi giấy cắt hình nối với nhau kéo từ đèn kéo quân vòng cung ra bốn góc rạp. Một cái phông xanh treo phía trước nhà, nổi bật hình hai con chim bồ câu đấu mỏ vào nhau được cắt bằng giấy trắng. Hàng chữ họ tên cô dâu chú rể và ngày tháng âm dương lịch cắt bằng giấy màu, nét to nhỏ như trẻ con tập viết được dán lên phông theo đường vòng cung. Chỉ có mỗi cái bàn gỗ để lọ hoa giấy làm bục cho đại biểu phát biểu và cho văn nghệ. Trên bàn còn có cái đài Lido làm micro, nối dây điện ra cái loa 10w treo trên cành xoan góc vườn. Sân và vườn xếp đầy ghế các loại: ghế ba nan, ghế đôn, ghế băng, ghế xa-lon gỗ... Hai bên là hai băng khẩu hiệu nền đỏ đã phai màu, chữ vàng cắt theo kiểu nửa platon nửa romăng: “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ”, “Đảng Lao Động Việt Nam muôn năm”...
Sau tràng pháo tép râm ran tung hoa giấy đỏ lên đầu đoàn đưa đón dâu, Ban tổ chức đám cưới do cánh chú Tuấn, anh Bính chịu trách nhiệm liền vào việc ngay. Cưới thời chiến đơn giản và mau lẹ. Tuyên bố lý do, đại diện hai nhà phát biểu, thay mặt chính quyền xã và thay mặt lớp K6 phát biểu, văn nghệ cây nhà lá vườn, cám ơn và kết thúc. Chú Tuấn trưởng trò đã tuyên bố kết thúc mít tinh, nhưng khách đông đứng tràn ra đường còn rềnh rang nửa tiếng sau mới giải tán. Cánh thanh niên làng, cả mấy cụ cao tuổi nữa, liên tục thay nhau lên hát, ngâm thơ, kể chuyện. Ông Trần Quốc Sử là chú rể lấy dì tôi, hát oang oang bài “Con trâu sắt”, vừa hát vừa đập tay xuống bàn đánh nhịp. Trần Văn Thành, bạn tôi, là bộ đội không quân về phép gặp đám cưới, bỏ ba lô xuống, lên hát bài “Phi đội ta xuất kích” ca ngợi không quân để chúc mừng tôi. Ông Trần Mỹ Vượng, bác ruột tôi vốn là đội trưởng đội văn nghệ xã nhiều năm, tự biên tự diễn theo điệu “Cây trúc xinh”, “Cô Khế xinh tang tình là cô Khế đẹp...” Giọng ông sang sảng, lời ca tinh nghịch làm khán giả liên tục rộ lên cười muốn vỡ rạp. Ai đó kêu lên:
- Mời cô dâu chú rể văn nghệ đáp lại hai họ nào!
Mọi người ào ào hưởng ứng. Mấy cậu thanh niên đẩy tôi lên cạnh bàn, chỉnh lại “loa đài” và giới thiệu chú rể hát tặng bà con hai bài... tự chọn! Bốc lên, dù rất mệt, tôi hát liền hai bài tủ: “Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng”, “Tôi là Lê Anh Nuôi”... Khi tôi hát “Tôi là Lê Anh Nuôi” mọi người hoan hô, vỗ tay náo nhiệt, yêu cầu tôi hát lại mấy lần...
Nhóm tiếp tân do cánh thanh niên nữ đảm nhiệm bưng trầu cau, thuốc lá Trường Sơn, nước chè tươi len lỏi mời khách. Cuối cùng thì cũng đến lúc cô dâu chú rể tay cầm thuốc lá Đrao mời tiễn khách ra về.
Thời ấy cưới hỏi thật đơn giản, tiết kiệm. Cô dâu không có áo dài, thì mượn của bạn cái áo vét đã cũ. Chú rể không có comlê caravat thì mặc nguyên bộ quân phục mùa hè đã phai màu. Hội hôn không nhạc vàng, nhạc xanh gì hết, cứ dân ca và nhạc đỏ mà chơi. Vậy mà vui đáo để.
Đoàn đón dâu mãi 6 giờ chiều mới được ăn cơm. Chú rể, cô dâu thu dọn tới 9 giờ tối mới được đi đăng ký kết hôn. Thời chiến nên xã linh động cho cưới trước, đăng ký sau.
Mợ Hòa có chín con, vừa trai vừa gái, được u tôi bố trí giải chiếu, soạn chăn màn cho tôi, “để cháu Khế cũng mắn như mợ”.
Đêm tân hôn, hai vợ chồng mệt bã người, gần nửa đêm mới được nghỉ, cả hai văng ra ngủ.
Ngay sáng hôm sau chúng tôi sang Thái Bình để “lại mặt”. Bố mẹ và các em rất vui, hỏi han nhiều chuyện. Trưa hôm sau chúng tôi lên Hà Nội để Khế kịp thi tốt nghiệp. Tàu hoả chậm rề rề. Vào tới trường thì đã 7 giờ rưỡi tối. Cả lớp đã tập trung, bày hoa, bánh kẹo và thuốc lá Trường Sơn chờ hai nhân vật chính. Lớp tổ chức cưới cho chúng tôi khá vui. Thày Rính, người Cổ Lễ (sau là Phó Tiến sĩ) còn mang cả đàn gió đến để đệm cho mọi người hát. Anh Nhân chủ trì văn nghệ, lại bài hát tủ của anh: Tầm vu. Tôi nhận được ở bạn bè những tình cảm đẹp mà đến giờ tôi vẫn còn nhớ như in cái cảm xúc của mình lúc ấy. Đây là lần đầu tiên Trường Lý luận Nghiệp vụ Bộ Văn hóa Hà Nội có chuyện lớp tổ chức cưới cho sinh viên. Nội quy của trường không cho sinh viên yêu nhau bị chính các thày cô phá lệ qua việc nhiệt tình ủng hộ đám cưới của chúng tôi. Có lẽ do tôi chuẩn bị đi chiến đấu mà mọi người ứng xử thế chăng?
Đêm ấy, lớp bố trí chúng tôi ngủ nhờ ở nhà giữ trẻ. Khế đến kỳ kinh nguyệt. Thế là chúng tôi chưa thể có con. Chúng tôi thức cả đêm. Sáng sớm, anh Tuất và Đỗ Tý đến cùng đưa tiễn tôi ra bến Nứa. Thật kì lạ là chính tôi lại tâm niệm “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ”...
Từ đây, tôi bắt đầu một cuộc sống đầy biến cố gian khổ ác liệt của người lính chiến.


TỪ CÔN SƠN ĐẾN THẠCH HÃN
Tôi trở về đơn vị đúng ngày quy định. Các anh chỉ huy trung đội rất lo tôi bỏ ngũ. Nay tôi trả phép đúng hạn, các anh mới yên tâm.
Bộ phận vệ binh vẫn hàng ngày canh gác, xe than, lấy củi. Chị Lâm lên thăm anh Đặng Hoàng Song. Chị Lâm cùng học khóa 5 Đại học Thư viện với anh Song. Hai người yêu nhau chưa kịp cưới thì anh Song nhập ngũ. Sau này anh Song hy sinh, chị Lâm đi lấy chồng. Năm 1985, khi tôi đã chuyển ngành về thư viện Hà Nam Ninh, tôi có vào thăm Thư viện tỉnh Thanh Hoá. Gặp chị, tôi mừng rỡ, nhưng không hiểu sao chị làm như không biết anh Song là ai.
Ngày đầu tháng 4 năm 1972, Khế bỏ lớp lên thăm tôi. Trưởng ban hành chính mượn cho chúng tôi một gian nhà trẻ của địa phương. Hôm sau có lệnh báo động chuẩn bị chiến đấu, tôi đưa Khế vào nghỉ nhờ nhà Tiền để sáng về Hà Nội. Tiền cùng lớp K6 với vợ chồng tôi, nhà cách Côn Sơn – nơi tôi đóng quân 5 km.
3 giờ sáng, lại báo động. Trung đội trưởng tập họp phổ biến nhiệm vụ và phân công công việc cho từng tiểu đội. Sốt ruột không chịu nổi, tôi tự ý bỏ đơn vị, chạy một mạch 5 km đường đồi tới nhà Tiền. Trong nhà đèn vẫn sáng. Khế đắp chiếu nằm trên chõng tre. Khi nghe tôi gọi nhỏ, Khế choàng dậy. Chúng tôi ôm chặt nhau chẳng nói được gì. Hai trái tim cùng đập loạn trên lồng ngực nhau. Chúng tôi cứ đứng lặng như thế giữa trời đêm đầy sao... Rồi như chợt tỉnh, tôi buông Khế ra và chạy như muốn đứt hơi trở về đơn vị.
5 giờ 30. Cả đơn vị đã nai nịt gọn gàng đang xếp hàng kiểm tra. Thấy tôi hớt hải quay về, mọi người như trút được gánh nặng. Anh Ổn, nguyên giáo viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, cùng tiểu đội, đã thu dọn ba lô và súng giúp tôi. Tôi như người mất hồn, ý nghĩ luôn xoay quanh về Khế.
Tin làm chúng tôi bàng hoàng: Anh Tại, tiểu đội trưởng anh nuôi của bếp trung đoàn, người Hải Dương, là Chiến sĩ thi đua nhiều năm liền đã bỏ về quê. Anh Tại đã ngoài ba mươi tuổi, một vợ ba con... Anh quá nặng gánh gia đình nên không thắng nổi bản thân? Có lẽ ai cũng thông cảm hoàn cảnh của anh Tại nên chẳng ai tỏ ra coi thường và chê trách anh ấy. Nhưng không biết ở quê họ sẽ xử lý anh Tại ra sao? Liệu anh Tại có bị xỉ nhục bằng cách đày ải lao động công ích và đeo biển “Ai cũng như tôi thì mất nước” – hình thức xử lý với bộ đội “B quay” rất phổ biến thời ấy không?
Tiếng hô của Trung đội trưởng “Chạy tại chỗ” cắt dòng suy nghĩ của tôi. Chúng tôi chạy tại chỗ chừng ba bốn phút. Tiếng chân giậm mặt đất rầm rập, tiếng súng đạn và trang bị va đập lách cách vang lên, nhưng không một ai cất tiếng nói. Trung đội trưởng Nguyễn Đình Dần hô dứt khoát:
- Nhằm ga Mỏ Trạng, hành tiến!
Chúng tôi lặng lẽ hành quân trong buổi sớm mùa hè thoang thoảng mùi thơm nhựa thông... Ý nghĩ tôi lại quay về Khế. Không biết lúc này Khế làm gì? Khế về Hà Nội bằng cách nào? Khế sẽ phải chờ đợi tôi bao nhiêu năm?…
Hành quân cứ mỗi giờ đồng hồ được nghỉ 15 phút giống như tiết học trong nhà trường. Trên vai tôi lỉnh kỉnh ba lô, súng đạn, bao gạo... trên ba chục ký mỗi lúc thêm đè nặng. Tôi thường bị tụt lại sau. Anh Lục, người Tây Nguyên, nguyên cán bộ quản lý một đơn vị “B quay”, được điều về làm Trung đội phó vệ binh. Lục to khỏe, da đen sắt, giọng hơi trọ trẹ nhưng lại rất dịu dàng. Lục tỏ ra rất thích tôi. Có lần Lục kể:
- Ông nội mình nguyên là Hiệu trưởng trường Võ thuật Việt Nam đấy. Mình học võ từ lúc 5 tuổi. Trước khi vào quân đội, mình là giảng viên Trường Đại học Bách khoa, dạy môn quân sự. Phụ trách đơn vị “B quay”, mình rất nghiêm khắc nên “bọn nó” ghét mình. Một bận mình tát tai cậu lính giả ốm không chịu đi lao động, thì bất ngờ một cậu khác cầm cái xẻng quân dụng ở phía sau chém lên đầu mình. Mình phản xạ tự nhiên, xoay người đá một phát, chẳng may làm gẫy hàm cậu ta. Thế là bị kỷ luật và được điều về đây…
(Bạn văn, trái qua phải: Trần Chính Nghĩa, Hoàng Ngọc Trúc, Đặng Sơn Nam, Trần Mỹ Giống, Chu Đình An)
Chẳng biết anh Lục nói có thật không, nhưng tôi thích nghe anh kể chuyện. Tôi cũng thường kể với Lục về chuyện học đại học, về thơ văn, về tình yêu... Có vẻ Lục nể phục tôi. Thấy tôi tỏ ra đuối sức, Lục mang đỡ tôi bao gạo.
Hành quân tới ga Mỏ Trạng. Đơn vị tạm nghỉ trong khuôn viên một công trường hay cơ quan mà tôi không nhớ rõ, chờ lệnh lên tàu. Đại úy trung đoàn phó Ngoan trực tiếp chỉ đạo trung đội vệ binh trong việc canh gác. Tôi không nhớ họ của ông. Chỉ nhớ tên ông là Cường, khi đi chiến trường thì đổi là Ngoan. Ông dặn chúng tôi:
- Không cho bất kỳ ai ra khỏi khu vực tạm dừng, nếu không có lệnh của tôi.
Nửa đêm, trung đoàn phó đi kiểm tra gác, lừ lừ tiến ra cổng. Cậu Toàn vệ binh đang phiên gác quát:
- Ai? Quay lại ngay! Không có lệnh của thủ trưởng Ngoan, không được ra ngoài. B quay hả?
Bố Ngoan – Cánh vệ binh chúng tôi thường gọi Trung đoàn phó như vậy - cầm một túi bánh mì chọc vào bụng mấy cậu lính gác:
- Ngoan đây! Mỗi thằng một cái ăn đi cho đỡ đói mà thức.
Ông Ngoan người Hải Dương, dáng người đậm, khuôn mặt to phúc hậu, da đen như nông dân, là thủ trưởng rất dễ gần. Bọn vệ binh rất thích được nghe ông nói chuyện. Chuyện trên giời dưới biển ông nói đều hấp dẫn chúng tôi. Chúng tôi coi ông như cha chú của mình. Lần đầu tôi được gặp ông là khi ông xuống kiểm tra Trung đội vệ bình. Thấy tôi đang cầm xem cuốn từ điển Anh - Việt, ông hỏi một câu bằng tiếng Pháp. Tôi không biết tiếng Pháp, nhưng nghe có mấy từ na ná tiếng Anh, tôi đoán ông hỏi: “Đọc từ điển tiếng Pháp hả?”. Tôi trả lời ông: “Dạ! Từ điển Anh - Việt ạ!”. Ông hỏi tôi về tên tuổi, quê quán, làm gì trước khi đi bộ đội... Từ không khí căng thẳng, chuyển sang tự nhiên, vui vẻ, bọn lính chúng tôi quây lấy ông. Sau này, khi đi công tác, ông rất hay chọn tôi đi bảo vệ. Trái lại bố Ngoan, cụ Chính ủy và Trung đoàn trưởng không mấy khi chọn mấy đứa còm cõi yếu ớt như tôi đi bảo vệ, thành ra tôi không dám gần và chẳng mấy nhớ về hai ông.
Có lệnh lên tàu. Trung đội vệ binh lên một toa riêng. Trong toa chỉ có hai hàng ghế băng gỗ gắn hai bên thành toa. Tàu chạy chậm nhưng vẫn lắc như lên đồng, mỗi lần dừng ở ga chờ rất lâu. Tàu tới ga Hà Nội thì đã sang chiều. Tàu dừng ở ga mấy tiếng nhưng không ai được xuống ga. Thị, Đủ và tôi căng mắt nhìn qua cửa sổ, hy vọng gặp một người quen. Không thấy ai quen. Còi báo tàu chuẩn bị xuất phát. Thị đưa vội cặp sách qua cửa sổ cho một cô gái lạ, nhờ chuyển về lớp K6. Tàu đêm. Chật chội. Nóng bức. Đoàn tàu già rệu rã lắc lư phát ra những tiếng cót két, thỉnh thoảng lại hụ hụ rồi rít lên hồi còi hơi. Mệt mỏi. Chúng tôi ôm súng ngủ gà ngủ gật. Tàu qua ga Nam Định. Tôi bừng tỉnh, nôn nao nhìn mọi người xa lạ dưới ánh đèn không đủ sáng mà thấy thân thiết vô cùng. Tạm biệt quê hương. Thương bố u vô hạn. Chú Đằng, em tôi, cũng được gọi nhập ngũ ở quê. Do tôi đã nhập ngũ nên xã hoãn chú lại. Ngày tôi nhập ngũ, u tôi lo cho tôi đến ngây dại cả người. Bà chặt tất cả chuối trong vườn “làm cỗ liên hoan cho thằng Giống đi bộ đội”. Sau này tôi được biết, trong thời gian tôi chiến đấu ở Quảng Trị, u tôi đã đi kêu cầu, cúng bái ở nhiều chùa và đốt cơ man là lính giấy để đi “bảo vệ” thằng con cả của bà. Những năm ấy đi chiến đấu là 9 phần hy sinh, chỉ có 1 phần sống. Nói dại, nếu tôi chết, hẳn bà khó sống được. Tôi tự nhủ: Phải sống, phải hy vọng dù chỉ rất mong manh.
Đến ga Quán Hành. Bắt đầu hành quân bộ. Đêm đi. Ngày nghỉ. Không khí chiến tranh nóng dần lên. Những đoàn xe tải ngụy trang cành lá xanh nối nhau vượt lên. Máy bay địch oanh kích trọng điểm. Pháo ta nhả đạn rực trời. Mỗi khi gặp thanh niên xung phong là cánh lính trẻ lại rộ lên nhận đồng hương, trêu ghẹo. Tôi thường mệt rũ trong những ngày hành quân mang nặng, chẳng buồn ngó ngàng đến các em tóc rụng, da xanh. Chúng tôi đã vượt trọng điểm ngã ba Đồng Lộc, sông Lam, sông Son... Đã dừng chân ở Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), tập kết ở Bãi Hà. Trong trí não già nua của tôi bây giờ không sao nhớ được chính xác những địa danh đã qua. Có lẽ do hậu quả nhiều lần sức ép bom B52 làm tôi suy nhược thần kinh kéo dài nhiều năm sau. Nhưng lạ thay, có những chuyện đến nay tôi vẫn nhớ như in trong khi phần lớn thì quên quên nhớ nhớ. Một lần chúng tôi canh gác bảo vệ Bộ chỉ huy trung đoàn khi ấy đang ở trong rừng miền tây, Thiếu úy Thái sẹo dẫn theo một lính liên lạc lên trung đoàn họp. Chúng tôi yêu cầu xuất trình giấy ra vào. Thái nổi cáu:
- Chúng mày có biết tao là ai không? Thái sẹo C trưởng trinh sát đây!
Cậu Toàn nổi máu quát lại:
- Mày có biết tao là ai không? Tao là anh nuôi đây!
Thái dọa:
- Oánh bỏ mẹ chúng mày bây giờ!
Trung đội trưởng Dần đi đốc gác thấy vậy nhảy ra hô to:
- Anh em! Xích cổ tay Thái lại!
Chắc chắn cuộc ẩu đả sẽ xảy ra nếu lúc đó không có bố Ngoan tình cờ đi qua can thiệp:
- Thái đấy à? Sao không mang giấy ra vào? Thôi các con để cho anh Thái vào họp đi...
Thái đi qua cạnh tôi, lừ mắt:
- Mày nhớ mặt Thái sẹo này nhé!
Chúng tôi gọi Thái là Thái sẹo và chính Thái cũng tự xưng cái tên ấy, vì mặt hắn nhiều sẹo. Thái tốt nghiệp sĩ quan trinh sát đặc công loại... kém. Nghe cánh lính trinh sát kháo nhau: Thái học giỏi, nhưng vẫn bị xếp loại kém vì một bận nhận nhiệm vụ đánh mục tiêu nhà cao tầng của nông trường Sông Bôi, Thái thấy một cô công nhân mặc đồ lót ngủ, liền... sờ đùi cô ta. Cô ta kêu toáng lên. Thái phải trốn vào bốt điện. Hai ngày sau, khi quân xanh rút hết Thái mới dám ra ngoài. Về trung đoàn 101 Thái được đề bạt Đại đội trưởng trinh sát, hàm thiếu úy. Trên đường đi B Thái lên trung úy tiểu đoàn phó. Vào chiến trường Thái lên thượng úy tiểu đoàn trưởng, rồi về làm tham mưu trưởng trung đoàn với hàm đại úy. Sau này khi tôi đi học sĩ quan lục quân thì Thái cũng đi học Học viện quân sự. Tôi không thể quên vụ va chạm với Thái sẹo bởi sau này tôi được điều xuống trực tiếp chiến đấu trong đội hình tiểu đoàn 1 của Thái sẹo. Khi tôi được gọi về trung đội vệ binh thì Thái sẹo cũng về làm Tham mưu trưởng trực tiếp quản lý chúng tôi.
Đơn vị vệ binh biến động tổ chức: Thị và Đủ về đại đội thông tin, phụ trách máy 15w. Tôi được phong binh nhất, được đề bạt làm Tiểu đội trưởng. Anh Đặng Hoàng Song xung phong xuống đơn vị chiến đấu, làm khẩu đội trưởng cối 60. Thạch K7 được đề bạt làm trung đội phó đại đội vận tải. Hậu, Dũng trung cấp văn hoá quần chúng cũng xuống đơn vị chiến đấu. Cúc trung cấp thư viện, người Bắc Ninh được điều ra Bắc, vì cả gia đình Cúc ở quê bị trúng bom Mỹ, không ai còn sống. Thế là 10 sinh viên trường lý luận nghiệp vụ Bộ văn hoá mỗi người một nơi, mỗi người một số phận. Nhiều người đến giờ tôi vẫn chưa có dịp gặp lại. Thế chỗ những người chuyển xuống đơn vị là những cậu lính má còn lông tơ.
Đơn vị có lệnh chuyển hướng hành quân theo đường miền tây. Tạm biệt những vùng cát bỏng chân. Chúng tôi hành quân theo đường mòn trong rừng núi. Hành quân đêm. Người sau bám sát người trước. Để giữ bí mật, cấm dùng đèn pin. Ai đó có sáng kiến bắt đom đóm nhốt trong lọ Pinixilin buộc vào ba lô để người sau định hướng. Những mệnh lệnh thường xuyên được truyền xuống:
- Cẩn thận mìn lá!
- Khu vực có biệt kích!
- Chuẩn bị qua suối!
- Phía sau vận động!
- Bám sát, đường khó đi!
Trèo đèo. Lội suối. Hai bàn chân tôi rát bỏng. Khi trượt ngã, lúc vừa đi vừa ngủ gà ngủ gật. Vắt, muỗi thi nhau làm thịt chúng tôi. Có lần tôi sốt 39 độ vẫn quyết bám sát đơn vị, không dám tụt lại sau. Súng đạn, ba lô tư trang nặng trĩu vai. Chúng tôi dùng những cây gậy Trường Sơn làm chỗ tựa mà vượt lên gian khổ.
Toàn đơn vị dừng lại khu tập kết Bãi Hà, chuẩn bị vượt tuyến. Từng tổ ba người căng bạt, mắc võng cạnh nhau ngủ. Nửa đêm bỗng giật mình vì súng AK nổ.
- Biệt kích à?
- Không. Một cán bộ trung đội kiểm tra gác, nói mật khẩu chậm, bị cậu lính trẻ hốt hoảng xả đạn trúng đùi. May không chết.
Lại trở về miền đông. Dừng ở thôn Thuỷ Ba Tây, chờ lệnh. Đêm hành quân vượt Bến Hải. Chúng tôi gói ba lô trang bị vào túi áo mưa lấy từ các bao gạo được thả trôi từ biển vào để làm phao bơi qua sông. Cả chục cây số nam Bến Hải toàn cỏ tranh. Lệnh truyền xuống: Đến Gio An (thuộc huyện Gio Linh, Quảng Trị) mới nghỉ. Giữa bạt ngàn cỏ tranh, cây cỏ lúp xúp, ẩn hiện mấy xác xe tăng địch đã cháy rụi, nòng pháo đen ngỏng lên trời. Bỗng có tiếng V010. Bụp! Pháo sáng ngay trên đầu. Tưởng trông rõ cả cái kim dưới đất. Lộ rồi. Tranh thủ vượt lên tránh vào khu vực có tre xanh. Không kích địch thả bom trúng đuôi đội hình hành quân của trung đoàn. Một số hy sinh và bị thương.
Làng Gio An còn vài nóc nhà, mái lợp tôn. Nhà nào cũng có hầm kèo chống pháo. Nghỉ lại một ngày. Khi đã chuẩn bị sẵn sàng bảo vệ phó chính uỷ Nguyễn Trung Nến, người Thanh Hoá lên đường thì có lệnh tôi cùng cậu Do ở lại làm giao liên đón tiểu đoàn pháo trực thuộc bên bờ Bắc về Gio An.
- Đến Gio An thì đi đâu?
- Sẽ có người đón.
Thế là hai chúng tôi buồn bã quay ra Bãi Hà. Chờ cả tuần không thấy đoàn pháo nào qua, sốt ruột quá. Có hai anh lính Hà Nội, vốn là cán bộ ở một trường đại học, hồi huấn luyện cùng đại đội với tôi, quay ra Bắc. Gặp ở Bãi Hà, hai anh thí thỏn tôi cùng quay cho có bạn.
- B quay ư? Nhưng em không có tiền.
- Không sao, các anh lo cho em về đến Nam Định. Đây cho em cái đồng hồ Liên Xô.
- Em sợ lắm.
- Còn hơn là chết. Cứ cho qua cái đẫn ác liệt này rồi anh em mình lại vào.
          - Em không dám.
- Tạm biệt
Chẳng biết rồi hai anh có ra tới Hà Nội được không?
Được biết đoàn pháo đã đi theo đường miền tây vào chiến trường rồi, Do và tôi vội quay vào tìm đơn vị. Chúng tôi cứ nhằm hướng Nam mà đi. Ngày đi. Đêm mắc võng nghỉ trên cành cao. Đói. Mệt. Sợ. Hay là ra Bắc? Ra mà chết trên đường thì... Cứ vào. Loanh quanh mãi trong rừng. Chúng tôi quyết định theo đường miền đông, nguy hiểm hơn nhưng đi đường đồng bằng đỡ khổ. Tìm vào được Gio An. Chẳng có ai đợi cả. Đang ngơ ngác thì bị tổ du kích địa phương bắt. Ba cô du kích đen nhưng trẻ măng.
- Có giấy tờ gì không?
- Chẳng có gì cả.
- Đơn vị nào?
- E101.
- Biệt kích giả bộ đội thì sao?
- Bộ đội Bắc mà.
- Tên gì?
- Giống.
- Tên lạ hoắc. Đói hả? Cơm nguội với muối, có ăn không?
- Có.
Ăn bốn bát liền.
- Ăn từ từ thôi, nghẹn đấy.
- Đã quá. Cả tuần toàn ăn rau rừng và thịt bò chết.
- Bò ở đâu?
- Trên rừng, bị bom chết cả đàn. Sao đau bụng thế này.
- Tham ăn quá đấy mà.
Sau này học trường sĩ quan lục quân, dã ngoại bị nôn ra máu, đi viện mới biết mình bị viêm loét dạ dày. Chắc là từ đận ấy.
Ba ngày sau, nhờ du kích về tỉnh đội hỏi giúp biết đơn vị đang ở Đông Hà, chúng tôi lên đường. Đi bộ qua Cồn Tiên, Dốc Miếu vừa được giải phóng. Những lô cốt nham nhở vết đạn, những hàng rào gai đủ kiểu bùng nhùng, dậu, vướng chân... bị bộc phá đánh tung từng đoạn. V010 lượn dai như đỉa suốt ngày. Pháo kích địch bắn cầm canh. Từng đợt không kích đối phương thả bom sau khi V010 bắn đạn khói chỉ điểm nơi chúng nghi có quân Việt cộng.
Cuối cùng thì chúng tôi cũng về tới đơn vị ở Đông Hà. Cả trung đội lần lượt ôm lấy chúng tôi mừng rỡ. Tôi như đứa con xa lâu ngày trở về nhà. Tôi không diễn đạt được cảm xúc của mình lúc ấy. Mi mắt tôi ướt nặng, không nói lên lời. Tôi hiểu rằng từ nay số phận tôi gắn chặt với những đồng đội của mình. Trung đội trưởng Dần nắm tay tôi:
- Nghỉ ngơi đi, mấy ngày nữa sẽ vượt Thạch Hãn. Sẽ rất ác liệt đấy.
Hai tháng hành quân từ núi Côn Sơn (Chí Linh) tới Quảng Trị, tôi đã vượt qua biết bao gian khổ. Sự gian khổ nhiều khi đến cơ cực đối với người gầy yếu “gió thổi bay” như tôi. Với ai đó thì “đường ra trận mùa này đẹp lắm”, chứ với tôi thì quả thực “đường ra trận mùa này... nhớ mãi!”
Con đường trước mặt mà tôi phải đi tiếp còn ác liệt bội phần. Đó là chiến trường thực thụ, là lò lửa khủng khiếp của bom đạn, đó là sự hy sinh, mất mát để giành lấy độc lập, tự do và cuộc sống hòa bình của dân tộc.


NHỮNG MẢNH KÝ ỨC VỀ ĐỒNG ĐỘI
Chính ủy Trung đoàn, cao tuổi, ra Bắc vì cụ bệnh suốt, thuốc Tây không khỏi, phải chuyển sang “thuốc Bắc”. Phó chỉnh ủy Nguyễn Trung Nến, người Thanh Hóa lên thay. Anh Lê Thanh Oai được bố trí lên Phó Chủ nhiệm Hậu cần nhưng không hiểu sao lại quay về làm Trưởng ban hành chính. Sau này tôi được biết: anh Oai văn hóa thấp, lại nóng tính và thẳng như ruột ngựa, chả biết kiêng nể ai. Vì thế anh Oai thì bị trả về chức cũ. Tôi được biết anh ở xã Mỹ Thắng, huyện Mỹ Lộc nhưng mãi đến đầu tháng 9 – 2012 tôi mới được gặp lại anh.
Phó ban hành chính Từ, người Thanh Hoá, một lần đi công tác, gặp pháo kích, phải trú vào hầm hàm ếch bên đường, cậu bảo vệ nhường anh Từ ngồi trong cho an toàn. Pháo kích dai dẳng. Anh Từ nằng nặc đòi đổi ra ngoài để duỗi chân cho đỡ mỏi. Vừa đổi chỗ thì anh dính pháo hy sinh. Lẽ ra đi công tác về hậu cứ phụ trách hậu cần là anh Oai, nhưng anh Từ xin được anh Oai nhường cho mình. Khi ấy anh Từ vừa được tin vợ đẻ con trai...
Trung đội phó Lục cùng cậu Hệ, người Hải Dương bị dính bom hy sinh trong một lần xuống đơn vị công tác. Tiểu đội trưởng Nguyễn Minh Châu, người Thạch Hà, Hà Tĩnh nhận chức Trung đội phó kiêm chính trị viên trung đội.
Công việc chủ yếu của vệ binh lúc này là canh gác bảo vệ cơ quan, bảo vệ thủ trưởng. Mỗi tiểu đội được trang bị thêm một B40 chống tăng. Việc đào hầm đã có đại đội công binh. Cũng không phải xe than kiếm củi như trước, nhưng thường phải cử người tham gia vác gạo được thả trôi ở biển vào.
Đầu tháng 8 - 1972 Trung đoàn bộ 101 tiến vào đóng quân dưới chân cao điểm 33 Bắc Cửa Việt. Thời gian này, cuộc chiến chống địch phản kích trong thành Quảng Trị vô cùng ác liệt. Quân số ta thương vong chuyển ra Bắc liên tục. Giữa tháng 9 - 1972 ta rút khỏi thành Quảng Trị, lui về co cụm ở bắc sông Thạch Hãn. Pháo địch từ biển thường xuyên nã vào đất liền. Máy bay địch quần đảo suốt ngày đêm làm thần kinh tôi luôn trong tình trạng căng thẳng.
Trận bom B52 lần thứ ba trúng đội hình trung đoàn, hầm chủ nhiệm hậu cần sập. Chủ nhiệm và liên lạc hy sinh. Tôi bị bom vùi kín, tự chui lên, khạc đất cát từ trong miệng, lại cầm súng làm nhiệm vụ như chẳng có chuyện gì xảy ra. Lần khác, tôi đang đứng gác canh máy bay địch, trung đội trưởng Dần bất ngờ kéo tôi vào hầm kèo chữ A. Chưa kịp hiểu ra chuyện gì thì nghe tiếng nổ như ngô rang trên đầu. Thì ra máy bay địch thả bom bi sát thương. Tôi thầm cảm ơn Dần đã cứu tôi trong tích tắc.
Tiểu đội tôi có 5 chiến sĩ. Ngủ nhờ ba hầm du kích. Tôi lớn tuổi nhất được phân công ngủ nhờ hầm hai cô du kích địa phương. Mấy tối đầu, ngại không giám vào nằm. Hầm chữ A rộng 1,2 m, ra vào va nhau. Tôi ôm khẩu AK ngủ ngồi ở cửa hầm. Mỗi khi pháo bắn gần, lại giật mình bật vào trong. Ngớt pháo, tôi lại ra cửa hầm. Tôi nơm nớp lo sợ bị trúng mảnh đạn. Mấy cô du kích hàng ngày cười nói như không, đêm ngủ ngon lành. Họ đã dạn bom đạn. Độ bốn năm đêm sau, hai cô cùng kéo nghiến tôi vào hầm, ấn tôi năm giữa. Tôi run bắn người. Sau rồi quen cũng ngủ được.
Tình cờ gặp Đê cùng lớp K6 khi hành quân. Mừng quá. Đê đi bộ đội trước tôi hai năm. Cậu ta là lính H12 cùng tham gia chiến dịch Quảng Trị. Sau chiến dịch Cửa Việt, Đê được về học tiếp và công tác ở Thư viện Hải Dương.
Có lệnh tiến sang bờ nam Cửa Việt. Tiểu đội tôi sang trước nhận vị trí cho trung đội và chuẩn bị công tác bảo vệ cơ quan. Trên đường vận động qua trảng cát ra bờ sông, bất ngờ bị pháo kích. Mấy cậu vận tải cáng thương binh từ tiền phương về sợ quá bỏ cáng chạy tìm nơi tránh pháo. Cậu thương binh lồm cồm bò dậy, cà nhắc nhảy theo. Hoá ra là Thị. Trời, Thị ơi! Pháo rát quá, không sao chạy tới chỗ Thị được. Pháo ngừng. Tải thương chạy như ma đuổi. Tôi đành quay lại chuẩn bị vượt sông. Sau này được biết Thị là thương binh hạng 2, học tiếp, rồi về Thư viện Trường Nguyễn Ái Quốc 2, lại đi lao động ở Liên Xô. Năm 1982, khi đã ra quân về học tiếp tôi mới có dịp gặp lại Thị. Cậu ta béo, tai hễnh hãng, học Thạc sĩ. Khi Hải Dương chia tỉnh, Thị về làm Giám đốc Thư viện Hưng Yên. Hai chúng tôi gặp nhau trong một hội nghị chuyên ngành thư viện do Bộ Văn hóa tổ chức, cùng ôm nhau bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm máu lửa ở Quảng Trị hồi 1972.
Chuẩn bị vượt sông. Chúng tôi dùng áo mưa gói quân tư trang làm phao bơi. Cửa sông Thạch Hãn khá rộng. Người không biết bơi cũng rất nguy hiểm. Rất nhiều đồng đội đã hy sinh khi bơi qua sông này, do địch pháo kích. Tôi tuy gầy yếu, nhưng biết bơi khá nên vượt sông không mấy khó khăn. Tôi vượt sông trước. Khi tôi sang bờ Nam nhìn lại, mấy đồng đội vẫn còn ở giữa dòng, có cậu mới ra được 1/3 sông. Nguyễn Minh Châu dáng thư sinh nhưng trẻ khỏe, bơi giỏi, đưa đồ đạc cho tôi giữ rồi lao xuống nước qua lại mấy lần dìu đồng đội. Thật may, lần vượt sông này không bị pháo địch.
Sang bờ nam, trụ lại trên cao điểm 28,8. Được tin anh Đặng Hoàng Song (Thư viện K5) bị dính bom hy sinh cùng cả khẩu đội cối anh chỉ huy. Buồn đến mất ngủ mấy đêm liền. Thương anh Song và lo cho số phận của mình.
Đêm đêm nhìn vòng cung pháo sáng, biết được đội hình địch và ta. Nghe rõ tiếng súng bắn thẳng trên chốt. Vệ binh canh gác cả ngày và đêm, có tình huống thì phải báo động. Đến phiên tôi gác ngày. Không hiểu sao nóng ruột thế, cứ vào ra không yên. Thắng, người thị xã Hải Dương sờ trán tôi, bảo:
- Anh sốt rồi. Người nóng hầm hập thế này, vào hầm mà nghỉ. Em gác thay cho.
Một chốc Thắng quay vào:
- Em đói quá, cho em mảnh lương khô.
Tôi đưa cho Thắng thanh lương khô 701. Thắng cầm thanh lương khô vừa bóc ăn vừa đi ra chốt gác.
Đột nhiên V010 bắn đạn chỉ điểm ngay khu trung đoàn bộ đóng quân. Không biết là nó phát hiện cái gì hay có chỉ điểm của địch. Pháo dồn dập. Thắng bị mảnh pháo vỡ đầu, gục xuống. Tôi bị sức ép hất ra xa. Thấy nóng ấm trên đầu và vai, tôi sờ đầu, tay nắm phải vật gì mềm và nóng, hoảng quá kêu lên:
- Tao bị rồi Hạnh ơi!
Hạnh kéo tôi vào hầm, kiểm tra thân thể tôi, bảo:
- Anh không bị vết nào đâu! Thắng bị rồi anh ạ. Chắc là óc Thắng văng vào đầu anh đấy!
Tôi bật khóc: “Thắng ơi!... Thắng ơi!... Thắng ơi!...”
Pháo ngớt, chúng tôi xúm vào khênh xác Thắng về hầm trú ẩn. Đơn vị làm thủ tục chôn cất Thắng rất đơn giản. Không có ván, chỉ có tăng và võng gói xác Thắng. Trung đội trưởng ghi trích ngang của Thắng vào mảnh bao thuốc lá, bỏ vào lọ philixilin đậy kín rồi nhét vào túi áo ngực Thắng. Tôi ngồi nán lại hồi lâu trước nấm mồ bé nhỏ sơ sài, nói thầm với Thắng: “Thắng ơi! Anh ngàn lần cảm ơn em đã nhận cái chết thay anh! Là phiên gác của anh, nhưng em... Ai ngờ...”
Trận bom B52 ngay sau đó làm biến đổi địa hình. Tôi không sao nhận ra được mộ Thắng ở chỗ nào nữa.
Trung đội trưởng Dần thông báo: Ông già trụ lại quê hương mà hàng ngày chúng tôi cơm bưng nước rót hầu hạ để làm công tác dân vận chính là tên chỉ điểm cho địch. Không tin được. Nhưng trong chiến tranh, mọi chuyện đều có thể xảy ra.
Tiểu đội tôi đổi về bảo vệ bộ chỉ huy trung đoàn, bàn giao công tác bảo vệ Bộ chỉ huy tiền phương cho tiểu đội Sánh. Trong một tối gác đêm hầm các chỉ huy trung đoàn, tôi được phân công gác hầm trung đoàn trưởng. Nguyễn Xuân Trắc, người Phú Thọ gác hầm chính uỷ. Tới hầm trung đoàn trưởng phải lội qua tràn ruộng, mà tôi thì đi giày vải nên cứ lúng túng, định quay về thay giép cao su. Thấy thế, Trắc bảo:
- Em đi giép, để em gác hầm trung đoàn trưởng cho, anh gác hầm chính uỷ.
- Ừ! Em đổi vị trí cho anh nhé!
Trắc lội thoăn thoắt qua tràn ruộng. Tới cửa hầm trung đoàn trưởng, Trắc quay lại cười và vẫy tay với tôi. Tôi chui vào hầm chính uỷ, ngồi ở cửa hầm vuông nơi dùng làm nơi họp của chính ủy chưa nóng chỗ thì B52 rải thảm. Tôi bị hơi bom thổi bay vào trong hầm kèo chữ A, khẩu AK mắc lại cửa hầm. Chính uỷ đang làm việc trong hầm chữ A, sờ khắp người tôi, lo lắng:
- Có sao không con?
- Dạ, con không sao ạ.
- Không sao là tốt rồi. Ra xem tình hình thế nào.
Tôi chui ra khỏi hầm. Quang cảnh địa hình sau 3 loạt bom B52 thay đổi lạ hoắc. Tôi không sao nhận biết được vị trí các hầm của ta ở đâu. Rộ lên tiếng người kêu cứu, tiếng bước chân vội vã của chiến sĩ, tiếng xẻng, cuốc hối hả đào bới, tiếng ra lệnh của các chỉ huy... Dần và Châu vừa tìm kiếm vừa gọi rối rít :
- Giống ơi! Giống ơi! Mày ở đâu?
- Trắc ơi! Mày ở đâu?
Tôi kêu lên :
- Tao ở đây!
Dần, Châu rồi cả trung đội vệ binh ùa lại. Dần hỏi:
- Trắc đâu?
- Tao không rõ. Nó đổi gác sang hầm Trung đoàn trưởng.
Châu định hướng và đo khoảng cách bằng bước chân.
- Chỗ này! Tất cả đào bới nhanh lên.
Cả trung đội vừa bới đất, vừa gọi Trắc và trung đoàn trưởng. Lại bới rộng ra xung quanh. Chúng tôi đào bới hết sức nhưng vẫn không tìm thấy hầm trung đoàn trưởng. Khi chính uỷ hết hy vọng, cho phép lính vệ binh nghỉ thì bỗng nhiên cùng với tiếng kêu cứu, đầu của công vụ trung đoàn trưởng thọc từ đất nhô lên. Chúng tôi lao tới tiếp tục công việc đào bới. Khi chúng tôi moi được những người trong hầm ra thì Trắc đã hy sinh. Trên người Trắc chỉ còn cái thắt lưng và cái bi đông nước. Trung đoàn trưởng bị sức ép nặng. Khi tỉnh lại, ông liên mồm chửi Mỹ nguỵ. Ông được đưa ngay ra bắc. Cậu lính công vụ cũng được đưa ra cùng ông. Tham mưu trưởng trung đoàn điều cậu Quỳnh gầy vệ binh đi theo phục vụ Trung đoàn trưởng. Cho đến giờ tôi cũng không có dịp gặp lại họ. Nghe tin trung đoàn trưởng và công vụ hy sinh trên đường ra Bắc.
Trung đoàn phó Ngoan lên nắm quyền Trung đoàn trưởng.
(Bạn văn, trái qua phải: Đồng Ngọc Hoa, Nguyễn Hồng Mao, Trần Mỹ Giống)
Gặp Dũng trung cấp văn hoá quần chúng về công tác ở Trung đoàn. Dũng đã là trợ lý tiểu đoàn. Dũng báo tin Đủ K6 về thông tin 15 w dính bom đã ra Bắc rồi. Thế là ba thằng K6 (Đại học Thư viện khóa 6) đến nay chỉ còn tôi ở lại chiến trường.
Anh cán bộ quân lực trung đoàn cho biết: Thạch K7 trung đội phó vận tải được ra bắc. Lý do thật khôi hài: Phiên Thạch ở hậu cứ, cố tình ngủ với du kích địa phương. Cô du kích khoe rầm lên. Đơn vị yêu cầu kiểm điểm.  Thạch nhận tất. Kỷ luật. Ra Bắc. Về trường học tiếp. Sau này tôi biết Thạch học xong đại học thì được về công tác ở văn phòng Chính phủ, rồi tốt nghiệp thạc sĩ khoá đầu tiên của trường Đại học Văn hoá. Còn tôi, nào Huân chương chiến công, nào dũng sĩ quyết thắng mà mãi năm 1980 mới được trở về học tiếp với cái giá từ chối quân hàm Thượng uý. Nhưng thôi, đấy là sau này. Mỗi người có số phận của mình.
Tháng 9 - 1972. Trung đoàn 101 của Sư đoàn 325 chúng tôi đã tham chiến nhiều trận, tổn thất nặng nề. Nghe đồn có lệnh cho E101 ra Bắc củng cố lực lượng, nhưng các thủ trưởng sợ mất “sao” nên cố xin ở lại tiếp tục chiến đấu. E101 thuộc F325 được điều trực thuộc Sư đoàn 320. Phó Tư lệnh F320 là trung tá Đào Dũng, người Hải Dương, trực tiếp chỉ huy E101 của F325. Khi về chỉ huy E101, việc đầu tiên ông làm là thăm trung đội vệ binh. Chẳng hiểu vì lý do gì, ông thường gọi đích danh tôi và Quỳnh (không phải cậu Quỳnh gầy) đi bảo vệ mỗi khi ông đi công tác. Ông thường hỏi han tình hình gia đình và tâm sự của chúng tôi, hay cho chúng tôi lương khô 702 và thuốc lá. Có bận qua suối, ông đeo giầy da nên cứ lúng túng sợ ướt giầy. Tôi xung phong cõng ông qua suối, nhưng Quỳnh bảo:
- Để em, anh gầy thế nhỡ ngã thủ trưởng thì...
Nói rồi Quỳnh khom lưng cõng thủ trưởng qua suối. Chuyện vệ binh cõng ông, năm 1978 gặp lại tôi, ông vẫn còn nhớ. Khi ấy tôi là Thiếu uý trợ lý tuyên huấn sư đoàn 338 đóng ở Đình Lập, Lạng Sơn. Ông được điều về làm tư lệnh trưởng F338. Gặp ông, tôi hỏi:
- Có phải thủ trưởng hồi 1972 chỉ huy E101 của F325?
Ông ngạc nhiên :
- Sao cậu biết?
- Dạ, em là vệ binh bảo vệ thủ trưởng ở Quảng Trị mà.
Ông mừng rỡ:
- Thế à? - rồi nhìn kỹ tôi: “Mày là thằng Giống còm, đúng không?”
          - Dạ đúng.
- Nhưng khi ấy mày mới là binh nhất.
- Còn thủ trưởng lúc đó đâu đã là Đại tá như bây giờ.
Ông xởi lởi:
- Mày yên tâm, tao sẽ chú ý đến mày.
Nhưng chưa đầy ba tháng sau, ông lại bị điều về làm Tư lệnh trưởng Đặc khu Quảng Ninh… Từ đấy tôi không có dịp gặp lại ông.


LÊN CHỐT
Chiến sự ngày càng vô cùng ác liệt. Con số thương vong tăng hàng ngày. Các đơn vị trực tiếp chiến đấu số bổ sung không bù kịp số thương vong. Nhiều trung đội chỉ còn dăm tay súng.
Trung đội vệ binh chúng tôi được lệnh chia quân luân phiên tăng cường cho đơn vị trực tiếp chiến đấu. Tôi được cử đi đợt đầu. Trung đoàn trưởng Ngoan động viên chúng tôi. Ông nhấn mạnh:
- Xuống đơn vị chiến đấu phải tỏ rõ được bản lĩnh của lính trung đoàn, lính cơ quan. Tranh thủ dùng phương pháp bắn tỉa tiêu hao sinh lực địch, gây cho địch tâm lý hoang mang lo sợ…
Tôi mang theo khẩu CKC lắp thêm máy ngắm, xuống tăng cường cho Tiểu đoàn 1. Liên lạc dẫn chúng tôi lên gặp tiểu đoàn trưởng. Khi gặp tiểu đoàn trưởng, tôi giật mình: hoá ra là Thái sẹo. Tôi lo lắng bất an nhớ lại vụ va chạm với Thái sẹo khi còn ở Bắc. Đó là lần ở bãi Hà, chúng tôi không cho Thái sẹo vào họp giao ban trung đoàn vì Thái không mang giấy ra vào. Lần ấy Thái dọa tôi: “Mày nhớ mặt Thái sẹo này nhé!”…
Bây giờ tôi về làm lính của Thái sẹo, coi chừng hắn trả thù thì nguy. Nghe lính kháo về Thái sẹo thật lắm chuyện kỳ. Thái sẹo có người anh ruột là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Trâu Điên nguỵ. Khi ở Bắc về Quảng Trị, Thái sẹo đem theo cậu cần vụ về nhà giỗ cha ở Triệu Phong. Hai anh em gặp nhau, không nói không rằng, tay luôn sờ bao súng. Thật trớ trêu, hai anh em ruột trở thành hai kẻ đứng đầu của hai đơn vị đối đầu nhau.
Sau này được trở về trung đội vệ binh, tôi lại dưới quyền Thái sẹo. Thái sẹo được phong đại uý, về làm Tham mưu trưởng trung đoàn. Đôi lần có thời cơ nghỉ ngơi, chúng tôi chơi tú lơ khơ với Thái sẹo. Khi chơi bài, Thái sẹo dường như không bao giờ nhớ mình là chỉ huy. Thái thường xuyên bị chúng tôi hùa nhau vẽ râu, đội mũ. Cáu quá, Thái sẹo văng tục:
- Đù mẹ!
Chúng tôi chớp lấy lý do đó:
- A, chửi làng hả? Phạt! Phạt! Phạt!...
Thái cuống lên:
- Không, tao không chửi làng.
- Không chửi làng thì chửi ai?
- Ờ... Tao chửi tao.
- Ha ha ha…
Có một lần, chúng tôi dùng thủ pháo ném xuống hố bom, vớt được cả rổ cá rô. Đánh vảy, ướp muối, chưa kịp kho. Nửa đêm Thái sẹo đi trinh sát về, đói bụng, bèn bốc cơm nguội ăn với cá rô. Sáng sau thấy cá vơi đi, Châu kêu:
- Cá chưa kho mà thằng nào đã ăn thế?
Thái sẹo văng tục, vừa chửi vừa móc họng để nôn ra.
Khi tôi được cử đi học sĩ quan lục quân thì Thái sẹo cũng đi học sĩ quan cao cấp – Học viện quân sự. Tôi tốt nghiệp sĩ quan lục quân lại được điều về Sư đoàn 338, mà không về E101 F325, thành ra không có dịp gặp lại Thái sẹo.
Trở lại chuyện gặp Thái sẹo, tôi cứ thấp thỏm lo Thái sẹo trả thù... Hình như Thái sẹo không nhớ, hoặc cố tình tỏ ra không nhớ chuyện xích mích với chúng tôi trước kia.
Thái sẹo nói say sưa:
- …Đồng chí xuống đơn vị tham gia giữ chốt An Tiêm. Nhiệm vụ giữ chốt rất nặng nề. Chốt là phải chốt chắc. Muốn chốt chắc, phải kết hợp với vận động tấn công. Phải biết chớp thời cơ tấn công tích cực, tấn công dũng mãnh, tấn công chớp nhoáng, tiêu diệt được hỏa lực và sinh lực địch. Phải giữ được chốt bằng mọi giá. Phát huy sức mạnh tổng hợp, cần phải hiệp đồng tác chiến nhịp nhàng giữa cá nhân với cá nhân, giữa đơn vị với đơn vị…
Nói rồi Thái sẹo gọi liên lạc dẫn tôi xuống đơn vị.
Chính trị viên đại đội giữ chốt An Tiêm người Nghĩa Hưng - Nam Định mà tôi không sao nhớ được tên, là chú cái Hồng cùng học đại học thư viện K6 với tôi. Khi biết tôi là bạn học của cháu mình, chính trị viên tỏ ra rất vui. Ông chuyện trò thân mật, dặn dò tôi rất kỹ về kinh nghiệm chiến đấu ở chốt. Sau khi ở chốt về, tôi không được gặp lại ông. Đến giờ tôi cũng không được biết ông ra sao…
Liên lạc dẫn tôi tới hầm chỉ huy thê đội giữ chốt. Đồng chí chỉ huy hỏi trong tiếng pháo rít không khí:
- Cậu tên gì?
- Tôi tên Giống.
- Cậu về tiểu đội một nhé!
Liên lạc đại đội dẫn tôi tới hầm trung đội báo cáo tình hình rồi đưa tôi lên tiểu đội. Trên đoạn đường đến vị trí chốt của tiểu đội, chúng tôi khi bò trườn, khi lom khom theo giao thông hào nông choèn. Tiếng đạn pháo bắn cầm canh rít trên đầu. Cối cá nhân của địch điểm đều đều “cắc”… “oành”, “cắc”… “oành” xuống trận địa ta. Từng tràng tiểu liên rộ lên, khi ở phía này, khi phía kia…
Tiểu đội tôi có 5 tay súng. Tiểu đội trưởng chỉ cho tôi vị trí và khu vực đảm nhiệm chiến đấu, nhìn tôi ái ngại:
- Cậu lẻo khoẻo quá! Cậu ấm sinh viên hả? Thế này nhé, trong khi chúng tớ lo công sự, hào giao thông, cậu cảnh giới tỉa địch…
Tôi bắt tay ngay vào việc đào sâu thêm hố chiến đấu của mình. Hàng ngày chúng tôi ra sức đào giao thông hào, củng cố hầm chiến đấu. Mỗi đêm một lần vận tải đưa lương khô, rau xào khô, cơm nắm lên chốt. Khi bộ phận vận tải trở ra thì tải thương binh về phía sau
Buổi tối, mỗi người được một nắm cơm ăn với ca-la-thầu (rau khô Trung Quốc), buổi chiều thì ăn một phong lương khô. Có hôm chúng tôi phải ăn cơm thấm máu của chiến sĩ vận tải. Nhiều lần vận tải bị pháo chặn, thương vong tổn thất lớn, nhưng anh em quyết không để chúng tôi đứt bữa.
Khi trời mưa, hầm ngập nước, chúng tôi thay nhau tát nước. Khi trời nắng, chúng tôi cắt phiên lo nước uống hàng ngày. Nước được lấy từ những hố bom. Mỗi bi-đông nước được bỏ vào hai viên thuốc “lọc nước” để tiệt trùng. Có lẽ do đặc tính con người ta thích nghi với hoàn cảnh để tồn tại nên chúng tôi không mấy khi bị đau bụng. Nhiều khi đi lấy nước, chúng tôi bị địch phát hiện. Chúng bắn xối xả và còn gọi cả pháo kích nữa. Không ít người đã thương vong trong khi đi lấy nước.
Đêm ngủ ngồi, không màn, quờ tay bắt được muỗi.
Chốt địch dàn hàng ngang đối diện với chúng tôi. Chốt gần nhất cách chúng tôi chừng 50 mét. Các tay súng phát huy khả năng bắn tỉa. Đêm đêm hai bên tổ chức tập kích nhau. Có ngày nổ ra ba bốn trận lớn nhỏ. Chỉ một thay đổi nhỏ trên mặt đất như mảnh dù pháo sáng hôm qua rơi xuống, hôm nay không thấy đâu, là địch pháo kích, phóng M72, rót M79 vào những nơi chúng nghi có Việt cộng. Không ngày nào là không phải sửa chữa hầm hào do pháo địch cày xới. Ở chốt ít khi phải chịu đựng bom. Chỉ khi địch chuẩn bị tấn công, chúng rời chốt, lùi về sau, máy bay mới đánh bom. Pháo mặt đất của ta thỉnh thoảng dập sang trận địa đối phương. Mỗi lần pháo ta bắn, chúng tôi như được tiếp thêm sức mạnh.
Điều kiện ăn ở, sinh hoạt của chúng tôi như loài chuột. Suốt thời gian ở chốt, chúng tôi không rửa mặt, không tắm giặt. Mùi hôi từ người chúng tôi ban đầu rất khó chịu, sau quen mũi. Pháo địch cùng những trận chiến liên miên làm thần kinh chúng tôi luôn trong trạng thái căng thẳng. Mỗi người một vị trí chiến đấu, đảm bảo một khu vực được phân công. Thời gian gặp nhau rất hiếm.
Nhìn thấy bóng người loáng qua loáng lại bên chốt địch. Tôi nổ súng. Phát hiện vị trí chúng tôi qua khói súng, địch phóng tới một quả M72. Đạn nổ ngay trước mặt tôi, may có mô đất che đỡ. Tôi buộc giây vào các tấm tôn, từ xa giật giây cho phát ra tiếng kêu, lừa cho địch nổ súng thì bắn trả. Sau này ban chính trị trung đoàn gọi đó là sáng kiến đem phổ biến cho toàn đơn vị. Tôi bắn vào loại khá nên hiệu quả cao. Hồi huấn luyện, môn xạ kích tôi thường đạt loại giỏi. Chỉ cần năm bảy giây phát hiện địch trong khoảng cách ba trăm mét trở lại là tôi có thể điểm xạ “bách phát bách trúng”. Mỗi khi nghe tiếng AK điểm xạ 2 phát một “tằng, tằng” giòn giã của tôi, đồng đội đoán chắc một địch đã trúng đạn. Cái tên “Chiến sĩ bắn tỉa” được anh em tự phát gọi thay tên tôi. Anh em lính mới nhìn tôi với ánh mắt tin tưởng và cảm phục. Lính mới vào rồi thương vong, tôi không còn kịp biết tên họ. Có lần, một cậu lính trẻ măng hỏi biết tôi có vợ quê Thư Trì (Thái Bình), cậu ta reo lên: “Em ở Thư Trì đây”. Tôi định bụng khi có dịp sẽ hỏi cậu ta về tình hình ở quê vợ, nhưng ngay đêm ấy đi tập kích, cậu ấy hy sinh.
Suốt thời gian ở chốt, tôi không hề bị thương. Trong khi đó, cán bộ đại đội, trung đội thay đổi luôn vì thương vong. Số chiến sĩ tiểu đội tôi cũng đã thay liên tục. Tôi luôn phải gồng mình che dấu nỗi sợ chết. Khi địch tấn công, người tôi run bắn lên, da cứ giật giật. Nhưng khi đã nổ súng, cái sợ biến đâu mất. Tôi quan sát, nhận định và hành động như máy. Chúng tôi rải băng đạn, thủ pháo, lựu đạn và súng ở nhiều vị trí dọc giao thông hào. Khi bị tấn công, chúng tôi vận động đến vị trí nào cũng có sẵn vũ khí đánh chặn địch.
Tôi không còn nhớ được bao nhiêu trận trong thời gian giữ chốt An Tiêm. Hình ảnh đồng đội còn lưu đậm trong kí ức tôi là những khuôn mặt khô khốc, đen xạm khói đạn, mắt bắt ánh sáng đèn dù lấp lóa, răng trắng ởn, tóc bết vào thái dương và trán… Đôi khi bắt gặp khuôn mặt tái xám, ánh mắt thất thần của một đồng đội không vượt qua được nỗi sợ chết. Có lần tôi tâm sự với một cậu người xứ Thanh:
- Tao cưới vợ trước khi đi B nên rất sợ chết. Hiện nay chúng ta chiến đấu với quân cộng hòa là chính. Giặc Mỹ chỉ để lại cố vấn và máy bay đánh bom. Giá mà quân Thiệu và quân Giáp tìm cách đàm phán chung sống hòa bình thì hay biết bao, bởi ta và lính cộng hòa đều là người Việt Nam mà. Sao lại cứ “gà cùng một mẹ” nện nhau hoài làm biết bao thanh niên phải chết…
Cậu lính người xứ Thanh nổi đóa:
- Đồ vô chính phủ. Ý thức giai cấp hỏng. Giảm sút tinh thần chiến đấu sẽ bạc nhược đầu hàng địch hoặc B quay cho mà xem. Đã ra chốt, mày không bắn nó, nó cũng bắn mày. Không còn cách nào khác là phải chiến đấu hết sức thì mới có hy vọng được sống trở về… Tao là tao cứ kiên quyết chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Nghe hắn nói, tôi như pháo tịt ngòi. Chợt nhớ chuyện thằng Trịnh (tôi không nhớ chính xác họ tên cậu ta) bỏ chốt. Lần ấy bọn rằn ri tấn công chiếm chốt. Chúng quét AR15 như mưa về phía chúng tôi. Thằng chỉ huy cầm súng ngắn, miệng khi thì thổi còi, khi thì hò hét “Dô lên! Dô lên!” đốc thúc lính tấn công. Trái ngược với địch, quân ta khi tấn công thằng nào là đảng viên, là chỉ huy phải xông lên trước.
Đang theo dõi địch, chợt nghe tiếng thằng xứ Thanh gằn lên: “Quay lại, không tao bắn!” Tôi quay nhìn, thấy thằng Trịnh đang bò trườn rời khỏi chốt. Nghe tiếng thằng xứ Thanh, Trịnh quay lại nhìn, hai mắt nó trắng dã thất thần. Vài giây, nó lại trườn thoăn thoắt như rắn. Tôi định bảo thằng xứ Thanh thôi kệ nó, nhưng loạt tiểu liên cực nhanh của địch sạt qua tai buộc tôi phải quay lại chống trả. Không có thời gian ngắm bắn. Thấy bóng địch là roẹt luôn một loạt AK. Nghe tiếng Ak điểm xạ 2 hoặc 3 phát một là biết ngay đó là lính đã dày kinh nghiệm chiến đấu. Cậu nào non tay thì xả cả tràng dài. Địch gần, chúng tôi ném lựu đạn. Chúng tôi vận động từ vị trí này đến vị trí khác. Mọi ý nghĩ, xử lý tình huống đều chớp nhoáng như không suy nghĩ gì cả.
Địch bị chúng tôi đánh bật trở lại. Chúng lui về củng cố lực lượng chuẩn bị đợt tiến công mới. Giữa hai đợt tiến công, địch gọi pháo “vua chiến trường” nã vào chốt chúng tôi. Tiếng nổ rung chuyển đất. Mảnh đạn văng như mưa rát bỏng không gian. Mặt đất bị cày xới tung lên nhiều lần. Hầm hào bị đánh sập. Mặt đất nham nhở hố pháo. Mùi thuốc đạn khét lẹt. Pháo dừng bắn. Chúng tôi chui từ đất lên…
Đột nhiên không gian im ắng lạ. Tai tôi ong ong. Hai mu bàn tay đen nhẻm, lòng bàn tay rát bỏng vì nắm vào phần sắt của khẩu AK báng gập. Mồ hôi cay mắt. Mấy giọt rớt xuống trúng nòng AK sủi lên rồi biến mất. Màu quần áo biến thành màu đất và khói súng. Khẩu AK thứ ba bị trúng mảnh đạn, phải thay khẩu khác. Tôi theo dõi địch và phát huy sở trường bắn tỉa. Ngày và đêm ở chốt dường như không rõ ràng, rạch ròi như ở hậu cứ. Đêm đêm chốt được đèn dù soi sáng như ban ngày. Địch không mấy khi tấn công chiếm chốt vào ban đêm. Nhưng đêm là khoảng thời gian của những trận tập kích. Khoảng lặng hiếm hoi báo hiệu một trận chiến mới sắp diễn ra. Dường như chúng tôi đã quá quen với tình huống đó…
Một hôm cậu liên lạc đại đội bò tới chốt, bảo tôi:
- Anh Giống ơi! Chính trị viên phó bảo em truyền đạt cho anh biết: anh phụ trách tiểu đội thay thế tiểu đội trưởng hy sinh hôm qua.
Tôi vặc liên lạc:
- Cậu về bảo chính trị viên phó xuống giao nhiệm vụ trực tiếp tôi mới nhận.
          Liên lạc nháy mắt:
- Em chỉ biết truyền đạt lệnh của chính trị viên phó, làm hay không tuỳ anh. Thôi em về chỗ chính trị viên phó đây.
Nghe anh em xì xèo tay chính trị viên phó mới lên này nhát như thỏ. Từ hôm lên chốt, hắn nằm bẹp trong hầm, đi ỉa vào loong bắt liên lạc đổ. Hơn một tháng chiến đấu giữ chốt, số cán bộ tiểu đội và trung đội hy sinh hoặc bị thương hầu hết, thay liên tục, thành ra chẳng ai muốn nhận chức chỉ huy cơ sở. Làm cán bộ tiểu đội, trung đội là phải đi trinh sát, rồi dẫn quân đi đánh, xung trận phải lên đầu.
Đầu tháng 11 - 1972 địch mở cuộc hành quân “Sóng thần 9” tấn công Nham Biều, Ái Tử. Từ trước đó, tháng chín và mười, tại chốt chúng tôi giữ, địch liên tục thay quân luân phiên tấn công hòng chiếm lại chốt. Quân số chúng tôi đã thiếu lại luôn biến động vì thương vong hàng ngày.
Một hôm, liên lạc truyền đạt lệnh của Ban chỉ huy C là 19 giờ tối sẽ thay chốt để về hậu cứ củng cố lực lượng. Buổi sáng bỗng yên ắng lạ. Tôi nằm ngửa nhìn trời và tự cho phép mình xả hơi. Nhưng đến chiều trực thăng quần đảo và bắn đại liên, thả cối xuống chốt. Khi trực thăng rút, pháo kích lại dồn dập. Cả khẩu đội cối 60 của đại đội ở phía sau bị trúng pháo hy sinh. Địa hình biến đổi sau trận pháo.
Tôi không sao vượt qua được nỗi sợ hãi trước trận chiến, dù đã đánh nhiều trận. Thoáng thấy bóng một bộ rằn ri, tôi lia đại một loạt AK. Loạt AK của chính mình đã làm tôi tự tin và không còn co giật da nữa…
Khi trận chiến tạm dừng, tôi mò lại các vị trí của tiểu đội. Cậu lính người Thanh Hoá hy sinh. Cậu ấy đã thực hiện đúng quyết tâm của mình: Chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Cậu Quỳnh bị đạn cối cá nhân rót trúng ngực. Vết thương lộ xương, máu vẫn ri rỉ. Mặt cậu ta ám đen khói đạn, răng trắng ởn, hai mắt lấp loá ánh đèn dù. Quỳnh yếu ớt:
- Anh cho em ra với.
Tôi bảo:
- Cứ nằm đây chờ tao đi xem thế nào đã…
Mò tới hầm chỉ huy, tôi gọi nhỏ:
- Thủ trưởng ơi! Thủ trưởng ơi!
Trong hầm có tiếng lục xục rồi “Đù mẹ” và vụt ra một quả mỏ vịt. Tôi phản xạ lăn vào ngách hào. Tôi quay lại chỗ Quỳnh.
- Hầm chỉ huy bị chiếm rồi. Chắc mọi người đã rút ra. Mình cũng ra thôi Quỳnh ạ.
Quỳnh bảo:
- Anh lấy võng kéo em.
Tôi đặt Quỳnh vào võng, kéo Quỳnh rời khỏi chốt. Tôi cứ nhằm hướng không có pháo sáng mà đi. Vòng cung pháo sáng chính là ranh giới vị trí chốt đối lập giữa ta và địch. Quẹt phải mảnh tôn. Lập tức “cắc”… “oành”, địch bắn cối cá nhân. Tôi lăn xuống hố pháo. Mũ cối bị mảnh đạn văng đi. Loanh quanh mãi vẫn chưa ra được đường 4. Bất ngờ có tiếng quát nhỏ:
- Các bố làm lộ hết bây giờ. Ra hay vào?
- Ra.
- Đi lối này.
Một cậu lính công binh, trên người mặc độc cái sơ líp, đầu bọc túi vải trắng chỉ hướng cho chúng tôi ra đường 4 để về tiểu đoàn quân y. Cánh công binh đang thực hiện nhiệm vụ đánh bom phóng loại vũ khí mới, chắc là để mở màn cho trận tiến công trên toàn tuyến phòng thủ Thạch Hãn.
Gần tới đường 4, chúng tôi gặp nhóm vận tải đang trên đường vào chốt lấy thương binh liệt sĩ. Hai cậu vận tải cáng Quỳnh về tiểu đoàn quân y. Tôi cũng đi theo. Người tôi bỗng nóng hầm hập, run bắn. Ở chốt mãi không sao, bây giờ về tuyến sau lại sốt. Một cậu lính quân y bảo người tôi hôi thối quá và cho tôi bộ quần áo cũ để thay. Trước khi thiếp đi tôi còn kịp nhìn rõ những ánh chớp sáng choá bầu trời… Từ phía vòng cung pháo sáng nơi tôi vừa ở đó về vang lên ba tiếng nổ long trời. Đó là hiệu lệnh quân ta bắt đầu một cuộc tấn công mới.
Sau hai ngày sốt ly bì, ngủ mê mệt, tôi khoẻ lại. Quỳnh đã được chuyển ra Bắc. Từ đó đến nay tôi vẫn không có thông tin về Quỳnh. Trên đường về ban chỉ huy tiểu đoàn báo cáo, tôi cứ lo lo có khi bị kỷ luật vì tội tự ý bỏ chốt cũng nên. Không hiểu tình hình ban chỉ huy đại đội ra sao, có còn ai không hay hy sinh hết rồi?
Thái sẹo đã về làm Tham mưu trưởng trung đoàn. Tiểu đoàn trưởng mới truyền đạt mệnh lệnh của Tham mưu trưởng trung đoàn cho gọi tôi về trung đội vệ binh. Tôi như trút được gánh nặng lo bị kỷ luật. Tôi hỏi tiểu đoàn trưởng về ban chỉ huy đại đội, ông làm như không nghe thấy câu hỏi của tôi. Ông lặng lẽ đưa cho tôi mảnh giấy xé từ cuốn sổ tay ông vừa viết vội và ký tên. Trong mảnh giấy ông xác nhận thành tích chiến đấu của tôi và lời nhận xét rất tốt đẹp.
Khi tôi về tới trung đoàn bộ thì các đồng đội xuống đơn vị cùng đợt với tôi còn sống đã về trung đoàn bộ từ tuần trước. B trưởng Dần, B phó Châu và A trưởng Sánh ôm tôi lắc mạnh, mắt ngân ngấn nước. Tôi cũng không sao cầm được nước mắt. Một cảm giác lạ lùng, gai gai lan toả trong người. Sau này tôi hỏi Dần:
- Tao hay trêu ghẹo và đả kích làm mày có lúc nổi cáu lên, mà sao mày lại khóc khi tao trở về?
Dần bảo:
- Trên chốt ác liệt lắm, tao lo mày gầy còm yếu sức, lo mày bị thương. Nghe báo cáo mày chiến đấu dũng cảm, lập thành tích, được biểu dương... Mày về, tao mừng quá. Có mày về rồi, khoản công tác văn nghệ tao yên tâm.
Vậy là hành động của tôi đã được truyền về trung đoàn bộ từ trước…
Buổi tối, tham mưu trưởng Thái sẹo cho gọi tôi lên gặp. Thái sẹo cho tôi biết đơn vị thay chốt dính pháo trên đường, tổn thất nặng nề, phải rút ra ngoài củng cố rồi mới vào đánh chiếm lại chốt.
Tin lan truyền trong lính: quân cảnh vừa bắt được 5 thằng B quay của trung đoàn ở Bãi Hà, trong đó có một thằng C viên phó, một thằng B trưởng...
Trung đội vệ binh chúng tôi xuống chiến đấu cũng tổn thất nặng nề. Cứ mười người đi, chỉ bốn người trở về. Mấy tuần sau, Chính uỷ Nguyễn Trung Nến trịnh trọng thông báo trong cuộc họp giao ban:
- Trung đội vệ binh được đề nghị tặng thưởng huân chương chiến công giải phóng hạng ba. Có 5 cá nhân được tặng danh hiệu dũng sĩ quyết thắng cấp ba và cấp hai, ba người được tặng Huân chương chiến công giải phóng hạng ba.
Ông tự hào nhấn mạnh:
- Lần đầu tiên trong lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam có một đơn vị vệ binh được tặng Huân chương chiến công giải phóng trong chiến đấu.
Cá nhân tôi được tặng Huân chương chiến công giải phóng hạng Ba và Danh hiệu dũng sĩ quyết thắng cấp 2.
Chúng tôi vốn rất quý trọng chính ủy. Ông cư xử với lính như cha chú đối với con cháu. Sau này trên đường ra Bắc học Sĩ quan lục quân, tôi cùng Nguyễn Văn Sánh về vùng quê biển Thanh Hóa thăm gia đình ông. Nhà ông đơn sơ, nghèo lắm! Vợ ông và cô con gái vừa tốt nghiệp đại học sư phạm tiếp chúng tôi như đối với người thân yêu. Từ đó đến nay tôi chưa có dịp được gặp lại ông.
Biết tôi viết chữ đẹp, Ban tham mưu trưng tập lên chép báo cáo của Trung đoàn và danh sách chiến sĩ hy sinh. Con số thứ tự trong danh sách hy sinh, theo trí nhớ của tôi, lên tới trên bảy trăm người, đa phần quê Nam Định và Thái Bình.
Trải qua những ngày tháng chiến đấu khốc liệt, tôi còn được sống, thật là một kì tích. Tôi tự hỏi: do số hay do may mắn mà tôi không hề hấn gì sau hàng tháng chiến đấu liên tục trong máu lửa trên tuyến đầu của phòng tuyến Thạch Hãn?
Và tôi mãi mãi nhớ ơn những đồng đội đã ngã xuống cho tôi được sống trở về…


TRẬN CỬA VIỆT
Tháng 1 - 1973, tin ta thắng lợi ở hội nghị Paris làm chúng tôi rất phấn khởi, mong đình chiến sớm được thực hiện. Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được chính thức ký kết. Lính ta ôm nhau hoan hô vui mừng. Chỉ huy, lãnh đạo trung đoàn tỏ ý lo lắng tư tưởng hoà bình chủ nghĩa sẽ làm ta mất cảnh giác.
Quân cộng hòa tuyên truyền kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ”, “Kiện toàn an ninh lãnh thổ”, “Bình định đặc biệt”.  Địch tổ chức tấn công liên tục cướp đất. D2 của E101 rải quân từ Tám Cát về Cửa Việt phải chiến đấu vô cùng ác liệt. Trước sức tấn công điên cuồng của địch, Tiểu đoàn 2 tổn thất nặng nề. Trung đoàn bổ sung quân không kịp với số hy sinh. Cuộc chiến đấu giành đất giữa ta và địch diễn ra ác liệt suốt đêm 27 - 1 - 1973.
Bộ chỉ huy mặt trận nhận định địch sẽ tấn công chiếm cao điểm 33 bên bờ bắc Thạch Hãn làm điểm tựa uy hiếp toàn mặt trận Cửa Việt. Phần lớn các đơn vị tăng, pháo, cối, chủ lực triển khai chiếm lĩnh khu vực Bắc Cửa Việt. Trung đội vệ binh chúng tôi ở cùng bộ chỉ huy tiền phương đóng trên cao điểm 28,8 bờ Nam Cửa Việt. Đêm 27 - 1 - 1973 địch tập trung xe tăng, pháo binh, bộ binh tấn công từ biển lên, từ đường quốc lộ Một thọc ra, từ phía tây tràn xuống... tiến tới sát bờ Nam cửa Việt. Lực lượng chốt bờ Nam của ta quá mỏng, không cản được bước tiến của địch. Quân ta ở bờ Bắc lại không sang kịp. Có ba xe thiết giáp 28 tấn kịp bơi qua sông, được lệnh tấn công ngay. Nhưng trước số đông xe tăng địch, xe thiết giáp của ta không phát huy được uy lực. Trên xe chỉ có súng 12 ly 7, không thể diệt được tăng địch. Có lẽ thiết giáp ta tấn công chỉ nhằm củng cố tinh thần cho bộ binh. Trên cao điểm 28,8 nhìn rõ xe tăng địch lù lù tiến. Các chiến sĩ ta chiến đấu ngoan cường trên trảng cát. Một chiến sĩ xông lên, quỳ xuống, chĩa B40 chống tăng vào chiếc xe tăng địch gần nhất. Nhưng mãi không thấy súng nổ. Chiến sĩ đã hy sinh trong tư thế quỳ bắn. Chính uỷ Nguyễn Trung Nến theo dõi trực tiếp cuộc chiến đang diễn ra trên cảng nguỵ, nhìn các chiến sĩ ta hy sinh ông bật khóc vì đau xót, vì cảm thấy mình bất lực.
Có lệnh tất cả sĩ quan và lính vệ binh trung đoàn cầm súng chiến đấu trực tiếp. Tiểu đội vệ binh của tôi được lệnh tiến vào tham gia giữ khu cảng. Lực lượng chủ yếu của ta ở đây đã thương vong nặng nề. Chúng tôi tiến vào vị trí chiến đâu chỉ với lựu đạn và súng AK. Trung úy Lê Thanh Oai – Trưởng Ban 5, người bé nhỏ, mắt long sòng sọc, tay vung vẩy khẩu K59, trực tiếp đốc thúc và chỉ huy vệ binh chiến đấu. Nhìn dáng vẻ kiên cường dũng cảm và có phần… ác liệt của ông, tôi kìm được cái cảm giác sợ chết đến run giật da thường thấy trước khi lâm trận và lấy lại được bình tĩnh. 
Toàn mặt trận đạn nổ như ngô rang suốt đêm. Phía Nam, đạn vạch đường bắn thẳng lên trời. Lạ nhỉ, sao lại có đạn bắn lên trời? Làm gì có máy bay? Sau này tôi được biết có một trung uý tiểu đoàn trưởng của ta đã liên lạc với địch cùng ở tại chỗ, không chiếm đất, không đánh nhau, hai bên cùng bắn lên trời. Nghe đâu vị trung uý này bị kỷ luật.
Xe tăng địch như cua dọc bờ biển tiến vào. Tôi lia một loạt AK vào chiếc tăng gần nhất. Đạn AK như gãi ghẻ xe tăng, không hiệu quả. Tăng vẫn lù lù tiến tới. Hình như bộ binh địch cũng không ham đánh. Cảm giác thời gian dài như vô tận. Cuối cùng thì 7 giờ sáng, giờ ngừng bắn cũng tới. Không gian bỗng im bặt tiếng súng. Tai tôi ong ong. Rồi bất ngờ bật lên tiếng reo hò, cả của ta, cả của địch. Tôi đứng dậy nhìn. Xe tăng địch xen kẽ với quân ta. Các chiến sĩ ta giơ cao súng tiểu liên, vẫy cờ xanh đỏ. Lính cộng hòa đưa thuốc lá Rubi ra mời quân giải phóng. Mấy cậu lính đơn vị bạn bắt tay, trao đổi lương khô lấy thuốc lá của đối phương. Trông cảnh ấy, cứ như là hai bên vốn là anh em, chưa từng đánh nhau bao giờ vậy. Hình ảnh ấy như câu tự vấn cứ xoáy vào não nhiều năm sau này làm tôi day dứt khôn nguôi… Tâm trạng ấy dồn nén làm tôi bật ra hai câu thơ:
Mải mê đuổi bóng bắt hình
Tóc sương chợt ngộ ra mình ngu ngơ
Bộ chỉ huy lệnh cho tiểu đội vệ binh rút về trung đoàn bộ. Thay thế chúng tôi là cả đại đội trinh sát vào tiếp quản. Địch và ta xen kẽ nhau. Theo quy định, sau giờ ngừng bắn, bên nào ở đâu là đất thuộc quyền quản lý của bên đó. Tại khu cảng, ta và địch đều không nhường nhau. Ngày 28, 29 - 1 - 1973, chúng tôi được lệnh vượt sông Thạch Hãn, sang bờ bắc tham gia đón và dẫn quân tiếp viện sang bờ nam. Riêng bộ binh ta tăng cường sang bờ nam tới 19 tiểu đoàn. Linh tính cho tôi biết, cuộc chiến chưa dừng lại. Quả như thế thật. Đêm 31 - 1 - 1973, quân ta dốc toàn lực mở trận phản kích bất ngờ và giành thắng lợi lớn, chiếm lại đất. Địch lên tiếng phản đối, tố cáo ta vi phạm hiệp định.
Hơn bốn mươi năm sau gặp lại anh Lê Thanh Oai, ôn lại trận Cửa Việt, tôi hỏi:
- Ngày ấy bác thể lực rất nhỏ mà sao trông bác lẫm liệt thế? Em thì sợ run lên trước khi lâm trận. Trông dáng vẻ oai phong, đằng đằng dũng khí của bác, em lấy lại tự tin và bất chấp hy sinh…
Anh Lê Thanh Oai thật thà:
- Khi ấy đốc thúc các em tiến lên chặn địch, anh biết là với trang bị AK và lựu đạn, anh em mình khó mà thắng được đại bác, xe tăng của nó. Nhưng tình thế mình không diệt nó thì nó diệt mình, chỉ còn cách là xông lên giáp chiến. May mà sắp đến giờ đình chiến, nó dừng lại, chứ nó cứ tiến lên chắc anh em mình hy sinh cả rồi.
Nhớ về đồng đội hy sinh như Phó ban hành chính Từ (người Thanh Hóa), Trung đội phó vệ binh Lục (người Tây Nguyên), chiến sĩ Hệ (Hải Dương), Trắc (Phú Thọ), Thắng (Thị xã Hải Dương)… chúng tôi bùi ngùi lặng đi.
Năm 2013, trong buổi giao lưu với chiến sĩ bảo vệ thành cổ Quang Trị của Đài truyền hình Nam Định, tôi có trả lời phỏng vấn của phóng viên… Xin trích một phần cuộc phỏng vấn này:
Phóng viên (PV):
- Thưa bác Trần Mỹ Giống, được biết bác từng chiến đấu bảo vệ cửa Việt năm 1972 – 1973, xin bác cho biết tầm quan trọng của cảng Cửa Việt, tương quan lực lượng giữa ta và địch, diễn biến trận Cửa Việt năm xưa!
Trần Mỹ Giống:
- Khi trận Cửa Việt diễn ra vào đầu năm 1973, tôi là lính vệ binh trung đoàn 101 sư đoàn 325. Đơn vị tôi được giao nhiệm vụ chủ lực bảo vệ Cửa Việt. Xin tóm tắt theo báo cáo tổng kết trận chiến này của đơn vị ngày ấy: 
Cửa Việt có vị trí hết sức quan trọng trong cuộc chiến giữa ta và địch.
Đối với ta, Cửa Việt là bàn đạp phát triển tấn công mở rộng vùng giải phóng về phía Nam, là căn cứ trung chuyển hậu cần trọng yếu cho các đơn vị đóng ở phía Đông phòng tuyến Thạch Hãn. Mất Cửa Việt, ta khó giữ được phòng tuyến Thạch Hãn và nguy cơ mất cả mặt trận Quảng Trị.
Đối với địch, đánh chiếm được Cửa Việt sẽ làm chủ khu cảng quan trọng, tạo ra các chốt giữ cửa sông Thạch Hãn, tạo thành bàn đạp có giá trị quân sự quan trọng, có thể phối hợp lục quân - hải quân để tấn công chiếm lại phần đất ở Bắc Thạch Hãn, đẩy đối phương vào tình thế rất khó khăn trong tiếp vận hậu cần cho Quảng Trị.
Do Cửa Việt có tầm quan trọng như vậy nên cả ta và địch đều quyết tâm giành giật bằng được Cửa Việt. Cuộc chiến trở nên vô cùng ác liệt.
Ngày 21/1/1973 quân Việt Nam cộng hòa mở trận Tangocyti tấn công Cửa Việt.
Lực lượng địch tham gia trận này có: 1 lữ đoàn đặc nhiệm, 2 lữ đoàn thủy quân lục chiến, 2 tiểu đoàn bảo an binh, 3 thiết đoàn xe tăng, 4 tiểu đoàn pháo, 4 tàu đổ bộ, 5 tàu khu trục, 1 sư đoàn không quân có B-52 của không lực Hoa Kỳ yểm hộ.
Lực lượng của ta có E95 của F325, E64 của F320B tổ chức 3 tuyến phòng ngự chặn địch.
Đêm 25/1/1973, quân địch nổ súng tấn công, sử dụng 80 phi vụ B52 rải thảm, bắn hơn 60.000 viên đạn pháo xuống trận địa quân ta. Lữ đoàn đặc nhiệm địch luồn lách qua các chốt chặn của ta, đến nửa đêm 27 – 1 chúng tiếp cận được cảng Cửa Việt.
Trung đoàn 101 thuộc F325 của chúng tôi khi đó đang ở Gia Hội, được tăng cường 5 xe tăng, vận động tiến công đánh vào sườn Lữ đoàn đặc nhiệm ở Đông Hòa, Vĩnh Hòa, bắn cháy 8 xe tăng nhưng vẫn không ngăn được Lữ đặc nhiệm tiến về cảng Cửa Việt, hình thành 3 cụm quân vây bọc cảng.
Rạng sáng ngày 28/1, Bộ tư lệnh B5 tiếp tục điều 5 tiểu đoàn từ các trung đoàn 27, 48, 64 (sư 320B), 271 (độc lập), 38 (Quân khu IV) tăng viện cho các lực lượng giữ Cửa Việt. Đến trưa 28/1, điều tiếp Trung đoàn 24 (sư 304) và 1 đại đội xe tăng (thuộc trung đoàn 203) tấn công phía sau cánh quân của lữ đặc nhiệm địch.

Ngày 30/1 quân ta nổ súng tấn công nhưng bị địch đẩy lùi. Ngày 31/1, quân ta tổ chức tổng công kích đồng loạt vào 5 cụm quân của địch. 8h 30' sáng 31/1, ba cụm quân địch ở cảng bị diệt, hai cụm quân còn lại rút về Mỹ Thủy. Tuyến phòng thủ Vĩnh Hòa, Thanh Hội, Long Quang, Chợ Sãi của B5 được khôi phục. Cuộc hành quân Tangocyti của địch đã bị đập tan.


HỌC SĨ QUAN LỤC QUÂN
Sau trận Cửa Việt, Trung đoàn trưởng Ngoan về Sư đoàn bộ 325 nhận chức Tham mưu trưởng. Ngày 23 - 2 - 1973, chính uỷ trung đoàn gọi tôi, Châu, Sánh lên nhận nhiệm vụ mới: Nguyễn Minh Châu đi học Sỹ quan ở Học viện chính trị đóng tại Vĩnh Phú. Nguyễn Văn Sánh và tôi về học Trường sỹ quan lục quân ở Sơn Tây. Nhận nhiệm vụ mới, tôi nửa vui nửa buồn. Vui vì được ra Bắc có dịp về nhà. Buồn vì đã học sĩ quan chắc phải phục vụ quân đội lâu dài, mơ ước học tiếp đại học của tôi không biết đến bao giờ mới thành hiện thực.
Chúng tôi bàn giao vũ khí trang bị cho đơn vị, chỉ mang theo tư trang cá nhân. Nửa đêm, cả trung đội tập họp chia tay chúng tôi. Mọi người cùng thức đến 3 giờ sáng, giờ chúng tôi xuất phát. Những ngày sống chết có nhau, chia sẻ ngọt bùi, yêu quý nhau như ruột thịt làm chúng tôi bịn rịn không muốn rời nhau.
Khi lên xe tải có mui bịt kín, tôi thấy đã có khoảng ba chục đồng đội từ các đơn vị cơ sở cùng đi học. Xe chở chúng tôi ra tới cầu Hiền Lương thì dừng lại. Chúng tôi xuống xe đi bộ. Tới hậu cứ Bãi Hà, cán bộ quân lực thanh toán cho chúng tôi phụ cấp tiêu vặt suốt những tháng chiến đấu ở Quảng Trị, trao cho chúng tôi giấy tờ nhập học. Chúng tôi nghỉ lại Bãi Hà một đêm. Tôi trằn trọc không sao ngủ được, nằm nghe tiếng suối róc rách, tiếng côn trùng ri rỉ, tiếng lá rừng xào xạc mà buồn vui khó tả. Sáng hôm sau Châu, Sánh và tôi bắt đầu cuộc hành trình đi bộ từ Bãi Hà ra Bắc. Tôi mời Châu và Sánh cùng về chơi nhà tôi trước khi mỗi đứa một nơi. Hai đứa nhận lời. Ba chúng tôi đi bộ mấy ngày liền ra Đồng Hới. Đêm ngủ nhờ trong dân. Mấy ngày vất vưởng mới mua được vé xe ra Vinh. Ngày ấy đi xe khách rất khó khăn. Tôi say nôn suốt dọc đường. Đến Vinh, lại cả ngày xếp hàng mua vé tàu. Tới Thanh Hoá, Châu đi tiếp cho kịp ngày nhập trường ở Vĩnh Phú, còn tôi và Sánh xuống ga vào thăm gia đình chính uỷ Nguyễn Trung Nến ở một xã miền biển (tôi không nhớ tên xã) thuộc huyện Tĩnh Gia. Chẳng có gì làm quà, chỉ là báo tin chính uỷ vẫn còn sống cho gia đình mừng thôi. Cô con gái và bà mẹ ở trong căn nhà nghèo nàn. Bà mẹ quý chúng tôi như con. Nghỉ một ngày, chúng tôi ra tàu về Nam Định. Lại một ngày một đêm xếp hàng ở bến xe Đò Quan Nam Định mới mua được vé xe Giao Thuỷ.
Về tới nhà lúc 10 giờ sáng. Vẫn hàng dậu đài bi vàng rực tơ hồng, u tôi thường lấy lá nấu nước xông cho tôi mỗi khi tôi bị cảm. Vẫn ngôi nhà thấp bé lợp bổi giản dị, nơi anh em tôi được sinh ra và sống trọn tuổi thơ ở đó. Dòng sông nhỏ bên nhà chảy quanh làng, nơi chúng tôi hụp lặn nô đùa, vẫn trong xanh hiền hòa...
Sánh giữ tôi lại để vào nhà trước cho u tôi bất ngờ. Tới ngõ, thấy bà nội tôi đang lom khom quét sân. Bà tôi đã 80 tuổi, mắt loà rồi. Nghe tiếng Sánh hỏi nhà anh Giống, tiếng khu Bốn trọ trẹ, bà tôi dừng quét, buồn bã:
- Ai hỏi thằng Giống đấy? Nó đi bộ đội hy sinh rồi còn đâu.
Nghe bà tôi nói thế, tôi sững người. Tôi chạy vào sân, ôm lấy bà thảng thốt:
          - Bà ơi, cháu về rồi đây mà.
Bà tôi quăng cái chổi đi rồi rờ rẫm lên mặt, lên lưng tôi. Khi đã nhận ra đúng cháu mình, bà reo lên, nước mắt đặc quánh chảy trên má nhăn nheo:
- Ôi, đúng là thằng Giống về rồi. Anh Thuỵ ra mà xem con anh về đây này.
          Bố tôi đứng lặng bên bậu cửa, hai tay níu chặt thành cửa như chực ngã. Ông không nói nên lời. Tôi cứ nhìn quanh không thấy vợ tôi đâu. Bố tôi bảo:
          - Vợ con đang ở quê ngoại. Để bố đi đón nó về.
Nói rồi bố tôi lấy xe đạp đi Thái Bình đón con dâu.
- Thằng Giống đâu? Thằng Giống đâu? Ôi, thằng Giống đã về rồi đâu…
          U tôi đang đi chợ, nghe tin tôi về, bà bỏ tất cả hàng lại, chạy vội về nhà. Đôi chân u tôi khẳng khiu như díu lại, bước xiêu bước vẹo, người gầy da bọc xương. Tóc u tôi bạc trắng, lưa thưa. Ngày trước, tóc u tôi dài qua gót chân. Mỗi bận chải tóc, u tôi thường phải đứng lên ghế. Anh em tôi cứ quấn vào phủ tóc u lên mặt. Vậy mà mới hai năm tôi nhập ngũ và đi chiến trường, u tôi già đi nhanh quá. Chỉ có ánh mắt sâu thẳm của u chan chứa tình yêu con cái là vẫn thế. Tôi ôm lấy u tôi, sung sướng nghẹn ngào. Chợt u tôi chửi ầm lên:
- Mẹ cha những đứa độc mồm, nó lại bảo thằng Giống nhà tôi hy sinh rồi. Trời có mắt. Nhà tôi ăn hiền ở lành nên thằng Giống được thần phật phù hộ. Tôi biết mà, con tôi không thể chết được mà...
Tôi mặc cho u tôi chửi thoả thích. Tôi biết tính u tôi, có chuyện gì là không để trong bụng được, cứ phải nói ra mới thoả lòng. Hồi trẻ, do đẻ mấy anh tôi toàn chết yểu, u tôi hoá điên hơn ba năm mới khỏi. Từ đấy, cứ động không vừa ý điều gì là U tôi chửi rủa, chửi có bài có bản, chửi văn hoa, chửi có vần như vè như thơ, lại kèm động tác vũ điệu hẳn hoi. Có thế U tôi mới bình tĩnh lại được. U tôi sinh ra đồng bóng. Thỉnh thoảng bị kích động thần kinh, u tôi lại nhập đồng. U tôi thuộc làu làu Truyện Kiều, Nhị Độ Mai. U tôi hay làm thơ, phần nhiều là thơ đả kích thói tham nhũng của các vị chức sắc trong làng. Thế mà nhiều người thuộc thơ của u tôi mới lạ chứ. U tôi rất tốt bụng. Chẳng giàu có gì, nhưng u tôi thường nhịn miệng để giúp người nghèo. Dân làng rất quý mến u tôi.
Thời kháng chiến, u tôi nuôi giấu cán bộ và nhiều con nuôi, lớn lên cho đi du kích. Sau năm 1975, tình cờ một anh cán bộ đi công tác qua làng, đánh rơi ba lô, u tôi nhặt được đem trả lại nguyên vẹn. Anh cán bộ cảm động ở lại chơi một ngày. Biết chuyện u tôi có người con nuôi đi du kích bên Thái Bình rồi không có tin tức gì, anh cán bộ hứa sẽ tìm giúp. Tưởng anh nói chơi, nhưng sau đấy vài tháng anh báo cho u tôi là đã tìm thấy mộ liệt sĩ Đức, con nuôi u tôi. Ông Đức là em con chú con bác với ông nội tôi. Bố tôi phải gọi ông bằng chú xưng cháu. Vì cha mẹ ông mất sớm, khi ông mới 5 tuổi nên bố u tôi đón ông về nuôi, khi lớn cho đi du kích. Năm 1952 ông hy sinh ở Kiến Xương, Thái Bình. Nhận được tin, bố tôi lai u tôi bằng cái xe trâu Liên Xô sang Thái Bình thăm mộ ông Đức. Sau này cũng nhờ có người em nuôi là cán bộ ở huyện làm giúp, bố mẹ tôi được hưởng chế độ thân nhân liệt sĩ.
Tôi trở về làm u tôi như trẻ lại. U tôi tất bật lo cơm nước. U tôi thể hiện tình yêu con và bạn của con bằng những bữa ăn nhiều món ngon do chính tay u nấu nướng. Mấy đứa em tôi đi học về reo mừng.
Châu đi Vĩnh Phú nhập trường xong thì xin nghỉ ba ngày về nhà tôi ngay. Đến chiều thì Châu cũng hỏi thăm được tới nơi. Chú Giang, em thứ ba của tôi dẫn hai anh Châu và Sánh đi thăm quan nhà thờ Phú Nhai, chùa Trung, đi xem chợ Trung... Châu và Sánh cứ nắc nỏm "nhà thờ Phú Nhai to", "chùa Trung đẹp thật"...
Bố tôi sang Thái Bình đón vợ tôi về luôn trong ngày. Vợ tôi vẫn gầy, rỏng rớt y hồi sinh viên. Chúng tôi ôm chặt nhau, không nói nên lời. Khi chưa gặp vợ, tôi có biết bao điều muốn nói, nhưng gặp rồi thì chẳng nói được gì. Lần này hy vọng chúng tôi sẽ có con. U tôi thắp hương rì rầm khấn vái cho vợ chồng tôi. Hẳn lời cầu khẩn của u tôi làm cho thần phật cảm động, vợ tôi nghén con Thanh, đứa con gái đầu lòng của chúng tôi mà tôi yêu quý hơn tất cả trên đời.
Khế thi tốt nghiệp xong, chưa được bố trí công tác, ở nhà chồng chăn bò, làm ruộng, sống trong lo âu phấp phỏng. Một cậu cùng đơn vị, quê ở Thọ Nghiệp, bị thương nặng được ra Bắc, báo tin cho u tôi biết là tôi đã hy sinh. Cậu ta nói có nhặt được cái sáo khắc tên tôi ở trên chốt. Khế vừa về Thái Bình được hai ngày cho khuây khoả thì tôi trở về.
Ba ngày ở nhà loáng cái qua đi. Chúng tôi từ biệt gia đình để lên trường. Đến Hà Nội, Châu đi Vĩnh Phú, còn tôi và Sánh đi Sơn Tây. Làm thủ tục nhập học xong, Sánh phải về ngay lớp đào tạo sĩ quan trẻ. Chia tay nhau, chúng tôi đều nghĩ sẽ còn được gặp nhau đều đều, ai ngờ từ đó đến nay chúng tôi chưa một lần gặp lại. Tôi có gửi thư mấy bận về quê Châu và Sánh, nhưng không có hồi âm. Đến nay tôi vẫn không rõ hai đứa có còn không, hay hy sinh trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, hay biên giới Tây Nam rồi. Đã hơn bốn mươi năm qua, hình ảnh hai đứa vẫn đậm nét trong ký ức của tôi.
*
Tôi được ban quân lực trường trưng dụng viết danh sách trích ngang học viên vì chữ tôi đẹp. Tới đầu tháng 5 - 1973 tôi mới xong việc và nhận lệnh đi Lương Sơn (Hoà Bình) nhập lớp đào tạo sĩ quan ngắn hạn. Ban chỉ huy Tiểu đoàn xếp tôi vào Tiểu đội 1, Trung đội 1, Đại đội đào tạo sĩ quan lục quân khoá 35, thời gian một năm (Từ tháng 5 - 1973 đến tháng 5 - 1974). Trung đội trưởng - trung uý Nguyễn Tiến Tề đã ngoài ba mươi tuổi, dẫn chúng tôi lên một quả đồi tranh, chỉ vị trí đóng quân. Toàn đơn vị bắt đầu một tuần làm doanh trại. Chúng tôi chia nhau, người vào rừng chặt gỗ nứa, người cắt cỏ tranh bện thành tấm để lợp mái nhà, người san nền... Sau một tuần công việc cũng đã hoàn thành. Doanh trại của trung đội tôi là một ngôi nhà tranh rộng, dài như nhà kho, hai bên là các dãy giường nứa, chân giường là các cột gỗ chôn xuống đất, ván giường là nứa đan thành liếp. Từng tổ ba người, từng tiểu đội được bố trí vào vị trí nhất định. Súng đạn, bát đũa, bàn chải đánh răng, mũ, áo... tất cả đều có giá để theo quy định. Hiệu lệnh ăn cơm, báo thức, báo động, báo họp, báo luyện tập... đều dùng cái kẻng là vỏ một quả bom Mỹ. Một ngày bình thường của chúng tôi như sau:
5 giờ báo thức, tập thể dục tập thể; 5 giờ 30 vệ sinh cá nhân; 5 giờ 45 ăn sáng; 6 giờ 30 nghe đọc báo; 7 giờ bắt đầu học tập hoặc tập luyện; 11 giờ 30 nghỉ ăn trưa đến 12 giờ; 12 giờ 15 ngủ trưa; 13 giờ 15 báo thức, vệ sinh cá nhân; 13 giờ 30 học tập; 17 giờ 30 chơi thể thao đến 18 giờ thì ăn tối; 19 giờ sinh hoạt tối; 21 giờ nghe đọc truyện hoặc bản tin trên loa của đại đội; 21 giờ 30 đi ngủ; 22 giờ trực ban đi kiểm tra.
Chúng tôi học nhiều môn quân sự như công tác tham mưu, chỉ huy hiệp đồng tác chiến, chiến thuật quân sự, tính năng tác dụng và sử dụng các loại vũ khí, công tác chính trị, công tác Đảng... Thời gian và công việc luyện tập của chúng tôi rất căng thẳng và nặng. Người ta gọi trường chúng tôi là trường “luộc quân” mà. Tôi gầy yếu nhất đại đội, nhưng cố theo kịp mọi người. Khả năng văn nghệ và làm báo của tôi được sử dụng triệt để. Những đêm liên hoan giao lưu với nhân dân địa phương, tiết mục độc tấu sáo trúc (bài Anh vẫn hành quân, Lý hoài nam, Trên đường chiến thắng) và đơn ca (hai bài "tủ" là Anh quân bưu vui tính, Tôi là Lê anh nuôi) của tôi là một trong những tiết mục được hoan nghênh nhất, thường phải biểu diễn lại hai ba lần.
Cuối tháng 5 - 1973, u tôi dẫn con dâu lên thăm con trai. Nhà khách đơn vị bên ngoài doanh trại, là nhà tranh vách đất, được ngăn ra từng buồng nhỏ. Người nhà của lính được đón tiếp chu đáo, được mượn chăn màn và các dụng cụ sinh hoạt, được cấp suất ăn hàng ngày theo chế độ. U tôi mừng rỡ cho tôi biết là bà sắp có cháu nội rồi. Khế báo tin đã có giấy gọi đi nhận công tác ở tỉnh Ninh Bình. Hàng ngày tôi vẫn phải đi học tập, chỉ buổi tối mới được ra khỏi doanh trại sau sinh hoạt tối. Tôi thức tới khuya để chuyện trò với u. Đêm, tôi sờ bụng Khế cảm thấy con tôi đang lớn. Tôi sung sướng không tả nổi. Thầm trong lòng, tôi mong có con trai. Đời người lính chiến, biết thế nào…
Ngày 22 - 6 - 1973 âm lịch, tôi có điện báo bố vợ mất. Đơn vị không giải quyết cho tôi đi phép. Tôi buồn bã và suy nghĩ mung lung đến đãng trí. Khi tổ chức chi đoàn đại hội, tôi quên cả hô chào cờ, chính trị viên phải luôn nhắc nhở. Chính trị viên, đại đội trưởng, trung đội trưởng thay nhau làm công tác tư tưởng, động viên nhưng tôi không sao nguôi ngoai được. Bố vợ tôi bề ngoài trông rất nghiêm, nhưng ông rất yêu con cái. Ngày tôi về lần đầu, ông bà giữ con gái, không cho tôi ra ruộng hái dâu cùng Khế. Nghỉ hè năm thứ nhất, tôi sang nhà chơi định cùng Khế đi xe đạp lên trường. Đáng lẽ ngủ luôn ở nhà Khế, tôi lại bỏ sang thành phố Nam Định. Sáng sau chờ đến 9 giờ không thấy Khế, tôi sốt ruột đạp xe sang nhà. Tới Quán Chuột, gặp ông cũng đang đạp xe về. Ông bảo:
(Tác giả Trần Mỹ Giống cùng con gái lớn năm 1976)
- Cái Khế vừa đi rồi, anh đuổi theo cùng nó lên trường đi.
Tôi chỉ kịp đáp một tiếng “Vâng ạ” rồi phóng theo hướng Hà Nội. Qua thành phố ba cây số thì gặp Khế. Bữa ấy chúng tôi đạp xe đến tối. Kỳ nghỉ ấy, nước sông Hồng lên to ngập lụt lớn, ông cụ phải thân hành đưa cô con gái rượu qua phà Tân Đệ.
Khế kể, khi ông sắp mất, Khế đang có mang con Thanh. Lúc Khế ngồi bên ông, ông cứ hỏi:
- Đứa bé gái nào nó ngồi bên mày thế?
Khế ngạc nhiên và bảo:
- Chẳng có ai ngoài con.
Nhưng ông nhất quyết là có đứa trẻ con ngồi bên cạnh Khế. Sau này Khế đẻ con Thanh, mọi người mới giật mình: Thì ra ông đã nhìn thấy cháu ngoại ngay khi nó còn trong bụng mẹ.
(Tác giả Trần Mỹ Giống cùng con gái lớn năm 2018)
Tháng 10 - 1973, đại đội tôi xảy ra chuyện. Số là một cậu lính để cái đài National ở doanh trại, cùng toàn đơn vị ra thao trường tập bắn đêm, khi về thì không thấy cái đài. Ban chỉ huy đại đội lập danh sách những người xin phép ra ngoài trong buổi tập, yêu cầu tự giác nhận và trả lại đài cho đồng đội, vì chỉ có người trong đơn vị mới biết và mới ra vào được doanh trại. Trường hợp người dân vào ăn trộm bị loại trừ. Cả 7 người trong nghi án đều không nhận. Bắt viết tường trình tới ba lần không kết quả, ban chỉ huy tuyên bố sẽ kỷ luật cả 7 người. Tháng sau, có quyết định trả 7 người về đơn vị cũ với lý do “không đủ tiêu chuẩn học sĩ quan”. Tôi thương những đồng chí bị kỷ luật nhưng không biết làm thế nào. Quả thật, kỷ luật ở đây vô cùng khắc nghiệt. Không ngờ đến lúc chính tôi cũng rơi vào số phận tương tự. Sau này tình cờ tôi gặp hai trong số bị kỷ luật: Một người trở về làm nông dân quê ở Vĩnh Phú, một người tên là Thắng về sản xuất bánh nướng ở phố Hoàng Văn Thụ thành phố Nam Định. Gặp tôi, các bạn mừng rỡ như gặp người ruột thịt, cùng ôn lại những kỷ niệm về trường sĩ quan lục quân. Dường như chuyện xử lý bất công của ban chỉ huy ngày ấy không làm họ tức giận, họ chỉ nhớ những kỷ niệm đẹp mà thôi.
Khoảng cuối năm 1973, chi bộ đại đội đề nghị trên xét kết nạp tôi vào đảng, nhưng việc không thành vì sau đó không lâu tôi bị kỷ luật. Chúng tôi vào đợt dã ngoại dài ngày. Một lần đeo 35 kg gạch, mang theo khẩu CKC và 3 quả lựu đạn gang, hành quân vượt núi, tôi bỗng nôn thốc nôn tháo, máu ướt đẫm ngực và ngất xỉu. Trung đội trưởng Tề và Đại đội phó Náo trực tiếp đưa tôi xuống núi, ra đường số 6, bắt xe tải về Sơn Tây, giao cho một cậu lính đưa tôi đi Bệnh xá của trường. Được các bác sĩ hết lòng cứu chữa, tôi khoẻ lại. Tôi được xác định là bị viêm loét dạ dày và hành tá tràng. Thể trạng tôi lúc này có 36 kg nên phải an dưỡng sau một thời gian mới có thể mổ. Nhưng khi tôi hồi phục sức khoẻ, khám lại, các vết loét đã ổn định, không cần thiết phải mổ nữa. Tôi xin ra viện.
Đi xe khách về tới Hà Nội, đáng lẽ đi Hoà Bình thì tôi lại nhảy tàu về Nam Định. Linh tính cho tôi biết có sự kiện lớn đã diễn ra đối với tôi. Tới Nam Định, không còn xe về Giao Thuỷ, tôi đi bộ liền 3 tiếng sang nhà bố mẹ vợ. Tới nhà, thấy giữa nhà có đống lửa củi xương đay, tôi ngờ ngợ có chuyện bất bình thường. Trông thấy tôi, bà ngoại vui vẻ báo tin luôn:
- Vợ anh đã đẻ con gái rồi.
Bà đưa cháu qua đống lửa cho tôi. Con bé đỏ hỏn, luôn kéo tay lên mút. Ôi! Mình vẫn cứ tâm niệm có con trai. Như đọc được suy nghĩ của tôi, bà ngoại bảo:
- Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng.
Tôi ôm xiết con bé vào lòng, ôm luôn cả vợ. Vợ tôi bảo :
- Khai sinh cho con tên là Thanh.
Từ đây, Trần Thị Thanh là cái tên thương mến và đẹp nhất đối với tôi. Khế xanh xao, yếu ớt, vẫn gầy như trước. Tôi không sao nói được ra lời rằng tôi yêu Khế vô cùng. Gần đến ngày sinh, Khế xin nghỉ phép về nhà, đến Nam Định thấy đau bụng liền về nhà mẹ đẻ cho gần. Về nhà rồi đi trạm xá xã đẻ. Đó là ngày 12 - 1 - 1974. Hai ngày sau tôi có mặt ở nhà và quyết định bỏ đơn vị 7 ngày để gần vợ con.
Tưởng đơn vị không biết ngày tôi ra viện, tôi chữa ngày xuất viện cho hợp lý. Nhưng hoá ra khi tôi ra viện, bệnh xá đã điện về báo cho đơn vị biết. Đó là quy định chung để quản lý chiến sĩ. Lên đơn vị sau một tuần yên ổn, tôi bị chính trị viên gọi lên và gợi ý nhận khuyết điểm, làm kiểm điểm. Tôi hoảng lên, phen này bị đuổi về đơn vị thì còn mặt mũi nào. Tôi kiểm điểm tới ba lần, thành khẩn nói đúng sự thật. Tiểu đội, trung đội, rồi chi đoàn lần lượt tổ chức sinh hoạt kiểm điểm tôi để giáo dục chung. Mọi người phê phán nghiêm khắc, phân tích sai phạm của tôi, nhưng hầu hết đều yêu quý tôi và đều thừa nhận tôi là chiến sĩ tốt, có nhiều đóng góp cho đơn vị nhất là kết quả học tập và văn nghệ. Cuối cùng tôi bị cảnh cáo trước tiểu đoàn. Cuối khoá tôi bị xếp vào loại yếu của Đại đội, chỉ phong hàm Chuẩn uý cùng 10 người khác, trong khi tất cả là Thiếu uý và có một số Trung uý. Phạm Văn Đỡ cùng tiểu đoàn với tôi, là anh hùng nên được trao hàm Thượng uý. Anh em tỏ ra ái ngại cho tôi thiệt thòi, nhưng tôi lại lấy làm mừng vì mức kỷ luật như thế còn là nhẹ hơn nhiều những trường hợp khác.
Tháng 5 - 1974. Tổng kết khoá học xong chúng tôi được nghỉ 7 ngày thăm nhà trước khi nhận nhiệm vụ mới. Tôi về thăm bố u một ngày, hôm sau đi Thái Bình thắp hương bố vợ rồi vào ngay Ninh Bình thăm vợ con. Thư viện Ninh Bình sơ tán ở động Thiên Tôn cách thị xã 8 km. Xuống xe ở thị xã Ninh Bình, tôi đi bộ một mạch tới động Thiên Tôn. Ông Hồng đang bế con Thanh liền giơ con bé cho tôi. Con bé cười toét miệng. Tôi ôm xiết con bé, hôn hít khắp người làm nó cười như nắc nẻ. Hồi chưa hết sài, con Thanh quấy khóc suốt đêm tới ba tháng mới thôi. Các chú bộ đội thuộc tỉnh đội Ninh Bình đóng bên cạnh thư viện thường sang “xem con chàn chạt nó thế nào mà khóc ghê thế?”. Khế thường cho con Thanh nằm úp trên ngực mà dỗ nó, thành ra nó quen, hễ đặt nó xuống là nó khóc. Có lần con bé đái dầm ướt đẫm ngực bố. Tôi nằm thật im, cảm nhận dòng nước đái nóng hổi của con chảy xuống bụng, sợ làm con bé giật mình đái không hết.
Hai mẹ con Khế ở trong gian nhà lá 6 mét vuông. Bà ngoại thuê một người đi giúp việc cho Khế. Tất cả trông vào đồng lương tập sự nên mẹ con Khế gặp rất nhiều khó khăn. Ngày ấy người ta quản lý lương thực rất chặt. Ra đường khó kiếm được bánh trái vì có lệnh cấm. Khế đưa bố con tôi đi chụp hình. Hết phép, tôi tạm biệt vợ con đi Lương Sơn Hoà Bình để nhận nhiệm vụ với tấm ảnh vợ con trong túi áo ngực. Không biết nhiệm vụ tới của tôi là vào Nam hay ở Bắc?


THAM GIA CUỘC CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ BIÊN GIỚI TỔ QUỐC
Khi tôi trở lại đơn vị ở Lương Sơn thì phần lớn số học viên đã được đơn vị cũ đón về. Tôi trong số hơn một chục học viên “yếu kém” về trình độ hoặc ý thức tổ chức kỷ luật của đại đội, hàm chuẩn uý, được điều về đơn vị huấn luyện - Sư đoàn 338 đóng tại Thậm Thình - Vĩnh Phú. Cuối tháng 6 - 1974 chúng tôi tới sư đoàn bộ. Tôi được điều về làm trung đội trưởng B1, C10, D9, E102 đang làm nhiệm vụ xây dựng đường tàu bắc công trình cầu Thăng Long. Trung đội phó B1 đang phụ trách đơn vị, người Hưng Yên, đã 38 tuổi, thượng sĩ Đông Dương. Chúng tôi gọi những người lính giữ hàm Thượng sĩ lâu năm, không phát triển là thượng sĩ Đông Dương. Khi tôi về nhận chức B trưởng thì anh lại trở lại vị trí phó cho tôi. Anh trút nỗi bực dọc vì không được phát triển lên tôi bằng cách thờ ơ với công việc, mặc tôi xoay xở. Có khi anh còn nhè lúc tôi khuyết điểm mà hết lời phê phán tôi trước tập thể. Tôi nể và thương anh vì đi bộ đội đã nhiều năm, chiến đấu trong Nam, sang Lào mãi mà vẫn kẹt ở Thượng sĩ. Dần dà rồi anh cũng nhận ra sai lầm của mình và nhiệt tình giúp tôi trong quản lý đơn vị.
Tháng 10 - 1974 chúng tôi đóng quân ở xã Kim Lỗ, huyện Đông Anh và tham gia xây dựng cầu Thăng Long, công việc chủ yếu là đắp đường tàu. Đại đội trưởng là anh Nguyễn Thanh Biền người Thanh Hoá, chính trị viên trưởng là anh Bùi Đình Cử người ở cầu Khuốt (Ninh Bình). Trung đội tôi luôn dẫn đầu về năng suất và kỷ luật. Lúc đầu giao mức 0,6 m3 người / ngày, sau tăng dần lên 2 m3 người / ngày mà chúng tôi vẫn luôn vượt định mức. Cuối năm tôi được cấp giấy khen.
Ngày 2 - 10 - 1975 tôi được kết nạp vào Đảng, thời gian dự bị 9 tháng. Chuyển Đảng chính thức vào ngày 2 - 7 - 1976. Là người chỉ huy đơn vị trong quân đội nhân dân Việt Nam, vào Đảng là tất yếu. Nhiều khi tôi tự ái: Mình là cấp trưởng lại bị cấp phó truyền đạt nghị quyết chi bộ thì nó thế nào ấy. Điều đó cũng là động lực giúp tôi phấn đấu…
Cuối năm Khế gửi con Thanh về ông bà nội để lên thăm tôi. Đơn vị bố trí cho vợ chồng tôi ở nhờ nhà trẻ xã Kim Lỗ, huyện Đông Anh (Hà Nội). Mấy ngày hạnh phúc trôi đi nhanh chóng, tôi lại bị cuốn vào lao động. Mấy chuyện không quên xảy ra trong đơn vị tôi ngày ở xã Kim Lỗ. Chính trị viên Bùi đình Cử lấy vợ nơi đóng quân, cưới ở quê. Nhân về phép thăm vợ con ở động Thiên Tôn, Ninh Bình đúng dịp Cử cưới vợ, tôi thay mặt đơn vị tới mừng. Đại đội trưởng Nguyễn Thanh Biền cưới vợ người cùng quê công tác ở Công ty cầu Thăng Long. Cháu bà chủ nhà tôi trọ ngã xuống ao. Hôm ấy tôi sốt nằm ở nhà đã kịp vớt cháu bé hai tuổi đưa đi cấp cứu ở Bệnh viện huyện Đông Anh.
Tháng 8 - 1976 Khế sinh thằng Hưng ở quê nội. Tôi không được về thăm đứa con thứ hai khi nó mới ra đời vì phải nhận nhiệm vụ về sư đoàn bộ làm trợ lý câu lạc bộ thay anh Phan Đức Luận chuyển ngành về quê. Sau anh Luận làm Giám đốc Sở văn hoá thông tin kiêm Chủ tịch hội văn học nghệ thuật Kon Tum. Năm 2000 anh qua Sở Văn hoá Thông tin Nam Định, tôi có gặp lại anh, rất mừng. Trưởng ban tuyên huấn là chú Thiêm, ở xã Xuân Bắc cách nhà tôi 1 km. Sau chú về hưu và mất ở quê.
Bộ phận nhà văn hoá tôi phụ trách gồm 2 đội chiếu phim (một 35 ly và một 16 ly), hai đội văn nghệ (một chuyên nghiệp và một bán chuyên nghiệp), thư viện, kho hàng hoá câu lạc bộ. Tôi về làm bộ mặt nhà văn hoá sư đoàn khởi sắc. Hoạt động chiếu phim sôi nổi hẳn, văn nghệ đoạt nhiều giải cao, hệ thống thư viện từ sư đoàn tới cơ sở vào nề nếp. Tôi mở nhiều lớp nghiệp vụ thư viện, thanh nhạc, sân khấu, nhiếp ảnh. Thư viện sư đoàn 338 được nhiều đơn vị bạn về học tập. Những chiến sĩ mà tôi không thể quên: chiến sĩ gái Nguyễn Thị Kiểu ở Kinh Môn Hải Dương giữ thư viện, được vào Đảng và sau xây dựng gia đình với cậu Dũng phụ trách máy nổ cùng trong câu lạc bộ của chúng tôi, quê Chí Linh. Dũng lái xe phim đội 16 ly quê ở Phủ Lý. Trần Phú Lộc cùng quê tôi lái xe phim đội 35 ly. Nguyễn Hoà thuyết minh phim người Hà Nội, còn gọi là Hoà Voi (vì Hoà hay hát bài Con Voi). Hiện nay Hòa là nhà phê bình văn học, công tác ở Nhà văn hoá quân đội, rồi Tạp chí Văn nghệ quân đôi, sau chuyển ngành làm ở báo Nhân dân. Nông Văn Tài lính thợ chữa đài, sau là Đại tá Tư lệnh phó Đoàn 338. Những cán bộ cùng Ban tuyên huấn với tôi có Nguyễn Quý Chiến quê Hồng Quang (Nam Trực) sau này là đại tá công tác ở Cục địch vận Tổng cục chính trị, Đào Trọng Mừng trợ lý giáo dục sau là đại tá Phó Cục trưởng Cục chính trị, Lê Văn Bôn trợ lý tuyên huấn, sau là Đại tá Tiến sĩ triết học, Phạm Trá trợ lý tuyên truyền, anh Nguyễn Thanh Cầm thay chú Thiêm làm trưởng ban Tuyên huấn F338 cũng đã nghỉ hưu... Nhìn lại chiến sĩ dưới quyền và bạn bè cùng ban ngày ấy nay đều đã trưởng thành cả, riêng mình chậm tiến nhất.
Từ khi làm trợ lý ban tuyên huấn sư đoàn 338, tôi có nhiều dịp về thăm vợ con. Hàng năm hai, ba lần tôi về Nam Định kết hợp mua văn hoá phẩm, dụng cụ câu lạc bộ về cấp cho các đơn vị cơ sở. Cuối năm 1976 sát nhập Nam Hà với Ninh Bình, vợ tôi được chuyển về Nam Định. Ba mẹ con ở trong gian nhà 8m2 lợp giấy dầu, mùa đông lạnh, mùa hè nóng, chật chội không thể tả. Tôi thương vợ con nhưng không biết làm thế nào. Các con tôi cứ vô tư lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn của bố mẹ. Con Thanh đẹp như công chúa nhỏ. Lần chú Giang đưa nó lên đơn vị tôi ở Thậm Thình, nó ở với bố 1 tháng, cả đơn vị yêu quý chăm sóc nó. Tôi đi công tác một tuần, gửi nó sang các cô thông tin. Khi về, đón nó, tôi hôn nó, nó bảo :
- Ra ngõ đã rồi bố hẵng hôn con kẻo các cô trông thấy.
Còn thằng Hưng béo, ngây thơ đến lạ.
Năm 1978, mãi không thấy được phong quân hàm trong khi những bạn cùng lứa đã hai lần lên sao, có người vượt cấp, tôi thắc mắc với ban cán bộ thì hoá ra người ta cứ yên tâm tôi là quân nhân chuyên nghiệp. Lúc này họ mới vội vàng đề nghị phong tôi lên thiếu uý.
Giữa năm 1978, tôi đang nghỉ phép ở Nam Định thì nhận điện báo về thẳng Tổng cục Kinh tế học lớp bảo tàng - truyền thống, thời gian ba tháng. Cuối năm 1978 chúng tôi chuyển quân lên Đình Lập (thuộc Hà Bắc, sau cắt về Lạng Sơn) chuẩn bị chống Tàu. Cần nói là trong năm 1978 tôi bị chuyển đi chuyển lại giữa Ban Tuyên huấn với Ban Cán bộ. Từ Ban Tuyến huấn sang Ban Cán bộ chưa nóng chỗ, người ta lại chuyển tôi về Ban Tuyên huấn vì người thay tôi phụ trách câu lạc bộ đã không biết làm thế nào điều hành công việc, và lính tráng cũng coi thường không chấp hành. Trong thời gian công tác ở Ban Tuyên huấn, tôi đã sưu tầm được một số tư liệu, sự kiện làm cơ sở cho việc biên soạn lịch sử F338. Khi tôi chuyển ngành đã bàn giao lại toàn bộ tài liệu cho người thay thế tôi.
Tháng 2 - 1979, đơn vị tôi tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới. Cuộc chiến diễn ra quyết liệt trên toàn khu vực sư đoàn đảm nhiệm. Một số trợ lý sư đoàn đã phải xuống đơn vị trực tiếp chỉ huy chiến đấu, thay những đồng chí hy sinh. Cách nơi đang diễn ra cuộc chiến đấu không xa, mọi sinh hoạt vẫn sôi động. Dân công hoả tuyến, bộ đội phục vụ chiến đấu nườm nượp xuôi ngược, tiếng cười vẫn vang lên đây đó.
Mọi hoạt động của nhà văn hoá được duy trì như thời bình. Hai đội văn nghệ, hai đội chiếu phim thay phiên lần lượt tiếp cận chốt phục vụ chiến sĩ. Tôi đã chuẩn bị tư tưởng sẵn sàng xuống đơn vị chiến đấu khi có lệnh điều động, nhưng chưa có dịp xuống đơn vị thì cuộc chiến đột ngột kết thúc.


CHUYỂN NGÀNH
Sau cuộc chiến tranh biên giới, sư đoàn củng cố tổ chức. Những cán bộ giữ chức vụ nào hoàn thành tốt nhiệm vụ sau hai năm sẽ được đề bạt quân hàm tương đương với chức vụ đó. Tôi tin là mình sẽ được phong hàm phù hợp với chức trợ lý cấp sư đoàn, nhưng chờ mãi đến tháng 10 - 1980 vẫn không thấy gì, trong lúc đó hầu hết các trợ lý khác đã nhận quân hàm mới. Tôi cảm thấy lòng buồn khôn tả.
Ban chi uỷ tăng cường một uỷ viên mới. Anh Cầm, trưởng ban tuyên huấn động viên tôi vào ban chi uỷ, nhưng tôi không bụng dạ nào nữa. Anh Cầm, anh Mừng chỉ còn biết lắc đầu và để tôi tự quyết định đời mình.
Tôi trực tiếp hỏi Phó tư lệnh phụ trách chính trị Nhất Trí về việc tôi không được phong hàm theo chức. Ông thực thà cho tôi biết lý do tôi bị ban lãnh đạo sư đoàn gạch tên trong danh sách đề nghị phong hàm theo chức là “sức khoẻ yếu, chưa qua trường đào tạo sĩ quan, chưa trực tiếp chiến đấu, tác phong còn gia đình chủ nghĩa”. Nghe ông nói vậy, tôi bèn đem tất cả giấy tờ liên quan trình ông:
- Không trực tiếp chiến đấu thì sao nhà nước lại cấp cho tôi Huân chương chiến công giải phóng, dũng sĩ quyết thắng? Không qua trường lớp thì bằng tốt nghiệp sĩ quan lục quân này là thế nào? Tác phong gia đình chủ nghĩa thì đã sao khi mà đơn vị liên tục được đánh giá là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, và tại sao lại cấp giấy khen hàng năm cho tôi do chính Phó tư lệnh Nguyễn Đức Đệ ký? Sức khoẻ tôi yếu ư, đúng thế. Vì sức khoẻ mà không phát triển được thì cho tôi được hưởng chính sách...
Kiên nhẫn nghe tôi nói một thôi một hồi, xem kỹ các giấy tờ của tôi xong, ông Trí bảo:
- Tôi cũng người Hà Nam Ninh, cùng quê với đồng chí. Tôi rất tiếc là do mới về nhận chức nên không nắm được tình hình, mọi việc ban lãnh đạo quyết định thực ra đều do Chính uỷ Nguyễn Đức Đệ đề xuất. Thay mặt ban lãnh đạo sư đoàn, tôi xin lỗi đồng chí vì sự sơ xuất này. Tôi hứa sẽ đề bạt đồng chí vào năm sau.
Nhưng tôi không còn đủ kiên nhẫn chờ đợi. Ngay sau lần gặp Phó Tư lệnh Nhất Trí, tôi báo cáo trưởng ban tuyến huấn sư đoàn xin ra quân. Một cậu bạn trong Ban cán bộ rỉ tai cho biết vài câu chuyện.
Biết uẩn khúc của sự việc, tôi càng quyết tâm xin ra quân. Nghĩ kỹ, tôi không giận ai cả, mà lại thấy vui vì nhờ chuyện va vấp của tôi mà tôi được trở lại trường đại học.
Tháng 12 - 1980  Sư đoàn đã quyết định cho tôi ra quân.
*
Sau khi liên hoan chia tay với ban tuyên huấn và bộ phận văn nghệ, câu lạc bộ, tôi ra bắt xe tải về Hà Nội. Bất ngờ, một trợ lý nhà văn hoá quân khu xuống sư đoàn xin tôi về làm trợ lý. Anh lấy làm tiếc vì tôi đã có quyết định ra quân. Anh vớt vát:
- Được biết năng lực của đồng chí từ lâu, lãnh đạo nhà văn hoá quân khu muốn lấy đồng chí về làm trợ lý. Nếu đồng chí đồng ý, chúng tôi sẽ can thiệp với Bộ tư lệnh xin đổi quyết định. Trước mắt sẽ đề nghị quân khu phong thượng uý cho đồng chí vì đó là quyền hạn cao nhất của quân khu, còn có gì sang năm sẽ giải quyết tiếp.
Tôi cám ơn anh cán bộ quân khu và dứt khoát ra quân. Chúng tôi đi nhờ xe tải của đơn vị về Thái Nguyên. Từ Thái Nguyên tôi đi xe khách về Hà Nội và vào luôn Trường Cao đẳng văn hoá. Gặp Tình, Du, Chương, Liễu là các bạn cùng lớp K6 ngày nào, nay họ đều là cán bộ giáo viên của trường. Tất cả đều nhiệt tình đón tiếp tôi.
Hăm hở ra quân, nhưng hoá ra từ trong sâu thẳm đáy lòng, tôi gắn bó với môi trường quân đội biết nhường nào. Nhiều năm sau này tôi vẫn luôn hoài niệm về những ngày tháng gian khổ đáng nhớ trong quân ngũ.
 Tôi trằn trọc cả đêm và suy nghĩ miên man. Những khốn khó trong đời sống thời bao cấp thì tôi có thể mường tượng được. Nhưng khi ấy tôi không hề nghĩ rằng hai chục năm sau tôi trở thành một nhà nghiên cứu trung thực với nhiều bài viết in trên báo chí và là tác giả và đồng tác giả vài chục đầu sách nghiên cứu… Khi ấy tôi cũng không hề dám nghĩ mình sẽ là hội viên của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh. Tôi từ bỏ cơ hội làm Giám đốc Thư viện tỉnh mới chia tách với suất đất vài chục cây vàng để có thời gian cho công tác nghiên cứu… Khi ấy tôi cũng không nghĩ rằng mình sẽ là thư viện viên chính và giáo viên thỉnh giảng lâu năm của trường văn hóa nghệ thuật, góp phần đào tạo nhiều cán bộ thư viện tương lai. Sau này khi đã nghỉ hưu, tôi càng hiểu giá trị của những năm tháng sống trong quân ngũ. Những thành quả mà tôi có được chính là nhờ tính kỷ luật, quyết tâm vượt mọi gian nguy để hoàn thành nhiệm vụ đã hình thành trong thời kỳ mặc áo lính. Nếu như thời đi học là thời gian tôi sống vô tư trong sáng nhất cuộc đời, thì những năm tháng trong quân đội là thời gian sống đẹp nhất, đáng tự hào nhất và cũng nhiều trăn trở nhất của tôi.
Một bước ngoặt mới trong cuộc đời, một thời kỳ mới đầy khó khăn, đau khổ và hạnh phúc, những thử thách cam go trong cuộc sống đời thường khác xa với cuộc sống trong quân đội, sự đấu tranh trong tư tưởng để rũ bỏ tất cả ham muốn phù phiếm mà vượt lên thanh thản đang chờ đón tôi... Hạnh phúc và đau khổ dường như là chị em sinh đôi luôn song hành với mỗi con người.
        
(Hết Tập 1)


-------------
LÝ LỊCH NGHỆ THUẬT
Họ và tên: TRẦN MỸ GIỐNG
Bút danh ký trên các bài đăng báo tạp chí: Trần Mỹ Giống, Trần Giống, Mỹ Giống, Trần Ngọc Minh, Đinh Thị Khế, Trần Hoàng, Trần Thanh Minh, Trực Ngôn, Trần Tuấn Phương v.v...
Năm Sinh: 1950.
Quê quán: Xóm Đông Thành, xã Xuân Trung, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Nơi ở: thành phố Nam Định.
Hội viên Hội VHNT Nam Định.
Hội viên Hội Khoa học Lịch sử Nam Định.
Hồi nhỏ học trường cấp 1 và 2 xã Xuân Phương, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định và Trường cấp 3 huyện Xuân Trường.
1968 – 1971 học Đại học Thư viện Trường Trung cấp Lý luận Nghiệp vụ Bộ Văn hóa Hà Nội.
6-9-1971 nhập ngũ c10 d19 e101 f325.  
5-1972 đến 2-1973 thuộc b23 e101 f325 chiến đấu ở Quảng Trị.
3-1973 đến 5-1974 học khóa 35 Trường Sĩ quan Lục quân Việt Nam.
6-1974 đến 12-1980 làm B trưởng c10 e102 f338 rồi Trợ lý Ban tuyên huấn f338, phục vụ chiến đấu bảo vệ Lạng Sơn chống giặc Trung Quốc.
1-1981 đến 5-1983 chuyển ngành học Đại học Văn hóa Hà Nội.
6-1983 đến 12-2009 công tác tại Thư viện tỉnh Nam Định.
1-2010 nghỉ hưu.

Khen thưởng:
- Huân chương chiến công giải phóng hạng Ba.
- Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng Ba.
- Danh hiệu Dũng sĩ Quyết thắng cấp Hai.
- Huy chương Vì sự nghiệp Văn hóa.

Giải thưởng:
- Giải Ba giải thưởng VHNT Lương Thế Vinh (2006-2010).
- Giải Khuyến khích cuộc thi Sáng mãi phẩm chất bộ đội cụ Hồ.

Tác phẩm đã xuất bản:
- Tác giả Hán - Nôm Nam Định (Hội VHNT Nam Định, 2008)
- Các nhà khoa bảng Nam Định (Nxb. Quân đội nhân dân, 2017)
- Các nhà khoa bảng Nam Định (Hội VHNT Nam Định, 2009)
- Thư mục nhân vật Nam Định (Thư viện tỉnh Nam Định, 2010)

Đồng tác giả:
- Anh hùng dân tộc, thiên tài quân sự Trần Quốc Tuấn và quê hương Nam Định (Nxb. Quân đội, 2000)
- Danh nhân văn hóa Nam Định - T1. (Sở VHTT Nam Định, 2000)
- Danh nhân Nam Định thế kỷ XX được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (Sở VHTT Nam Định, 2001).
- Dấu ấn thời gian (Hội VHNT Nam Định, 2007)
- Lược khảo tác gia văn học Nam Định (Nxb. Văn học,1997)
- 1000 năm Thiên Trường Nam Định - Thăng Long Hà Nội: Thơ (Nxb. Hội Nhà văn, 2010)
- Những người giữ lửa tình yêu với sách: Ký (Nxb. Văn hóa dân tộc, 2004 - 2005. - Tập 1 và tập 2)
- Nói chuyện giới thiệu sách. (Thư viện tỉnh Nam Định, 2010)
- Thi sĩ Nguyễn Bính hồn thơ Việt (Hội VHNT Nam Định, 2008)
- Thơ Nam Định 5 năm đầu thế kỷ: 2001 - 2005 (Nxb. Hội Nhà văn, 2006)
- Tiến sĩ Vũ Huy Trác (Sở VHTT Nam Định, 2008)
- Trạng nguyên Đào Sư Tích đời và thơ văn (Nxb. Văn hóa Thông tin, 2010)
- Trạng nguyên đất học Nam Trực (Phòng VHTT Nam Trực, 2009)
- Tuyển tập văn học nghệ thuật Nam Định thế kỷ XX (Nxb. Văn hóa Thông tin, 2005)
- Văn hóa Nam Trực cội nguồn và di sản (2000)
v.v...
Hàng trăm bài viết và công trình nghiên cứu đăng báo và tạp chí...

Mời thư giãn với nhạc phẩm
HÁT MÃI KHÚC QUÂN HÀNH của Diệp Minh Tuyền:
*
TRẦN MỸ GIỐNG
Địa chỉ: Số nhà 13/ 398, đường Trường Chinh,
             phường Vị Xuyên, thành phố Nam Định.
Email: tranmygiong@yahoo.com.vn
Điện thoại: 0919.811.050





…………………………………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 27.04.2019. 
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
         .

0 comments:

Đăng nhận xét