BÀN VỀ TỨ
HÓA
TRONG TỬ VI
Ý NGHĨ VÀ HIỆU LỰC CỦA CÁC SAO TỨ HÓA
Hóa Lộc
Hóa Lộc thuộc Thổ, là thần phúc đức, hỉ gặp Lộc Tồn. Nhập miếu ở Dần Thân,
tác dụng tốt đẹp rất lớn, lạc hãm ở cung Tý Ngọ Mão Dậu, tác dụng tốt đẹp khá
nhỏ. Nhập Mệnh, là người hiền hòa, giỏi xã giao, nhân duyên tốt, tính tình hào
phóng, vui vẻ hài hước, ở ngoài được người khác yêu mến, cả đời hưởng phúc. Hỉ
nhập Mệnh, Thân, Quan, Tài, Di cung, chủ phú quý, thứ đến là nhập cung Phúc
Đức, Điền Trạch.
Bất kể chính tinh nào hóa Lộc, tác dụng thuận lợi tăng gấp nhiều lần, đặc
biệt hỉ Thái Dương, Vũ Khúc, Liêm Trinh, Thái Âm, Tham Lang, Phá Quân Hóa Lộc.
Hóa Lộc thủ Mệnh Thân và quan lộc cung, Khoa Quyền tương phùng, tất làm quan
to, kinh doanh cũng có thể trở thành phú ông.
Hóa Lộc thủ Thân Mệnh, Quan Lộc cung, Khoa Quyền tương phùng, tất là quan
lớn, có thể kiếm được nhiều tiền, một đời hay gặp may mắn ngoài dự kiến và sự
giúp đỡ của quý nhân.
Hóa Lộc và Lộc Tồn giáp Mệnh cung, là cách “Song Lộc giáp Mệnh”, chủ phú
quý.
Mệnh có Hóa Lộc, mà cung ám hợp của Mệnh có Lộc Tồn, “Minh Lộc ám Lộc”, đại
cát, là điềm càng tốt đẹp hơn. Mệnh cung có Lộc Tồn, mà cung ám hợp có Hóa Lộc
cũng vậy.
Hóa Lộc là tư sản lưu động, mà Lộc Tồn là tư sản cố định, Hóa Lộc hỉ đồng
cung hay hội chiếu với Lộc Tồn, Thiên Mã, là cách “Lộc Mã giao trì”, “Song Lộc
triều viên”, cực kì tốt đẹp, đại phú hoặc đại quý.
Hóa Lộc ở cung Tý Ngọ cư Thiên Di, chủ người văn chương cái thế, là cách
“Đối diện triều thiên”, Thái Dương ở Tý Ngọ Hóa Lộc là hợp cách.
Hóa Lộc đồng cung với Địa Không, Địa Kiếp, không chủ tiền tài, có phát cũng
chỉ hư hoa hào nhoáng, vì tiền bạc mà vất vả. Hoặc Hóa Lộc hãm ở Tý Ngọ Mão Dậu
kiến sát tinh, cũng bất lợi. Sách viết: “Phát bất chủ tài, lộc chủ triền vu
nhược địa”.
Bản cung và tam hợp cung có Hóa Lộc, nhưng bị Hóa Kỵ xung phá, là cách “Lộc
phùng xung phá”, tốt cũng biến thành xấu, tất gặp tổn thất ngoài dự kiến, trèo
cao té đau.
Hóa Lộc tối kỵ hung tinh xung phá, như đồng cung hội chiếu với Dương Đà Hỏa
Linh, cách cục mất đi cái dẹp, tốt mã dẻ cùi, cũng không phú quý, hoặc vì phú
quý mà rước hung họa.
Hóa Quyền
Hóa Quyền thuộc Mộc, là thần nắm quyền sinh sát, nhập miếu ở cung Sửu,
không có hãm địa. Nhập Mệnh cung, chủ người tính tình ngoan cố, coi trọng quy
tắc đạo đức, hành sự ổn trọng, tính nguyên tắc cao, có năng lực thống trị lãnh
đạo rất tốt, kiên cường bất khuất, chuyện gì cũng không dễ dàng chấp nhận thất
bại, tính tình kì quái, đi đến đâu cũng được mọi người kính trọng khâm phục, dễ
được người khác tán thưởng. Hỉ nhập Mệnh Thân cung, Di cung, Quan Lộc, Tài Bạch
cung, chủ có quyền thế. Hỉ hội Vũ Khúc, Cự Môn, tất làm đại sự. Sao này ở Mệnh,
chuyên chủ quyền thế.
Nữ mệnh Mệnh có Hóa Quyền, trong ngoài vừa ý, hội cát tinh có thể là bậc
quý phu nhân.
Hóa Quyền thủ Thân Mệnh, Khoa Lộc tương phùng, là quan tướng, đại phú đại
quý.
Hóa Quyền nhập cung Mệnh, cung Quan Lộc và có Cự Môn hay Vũ Khúc hội chiếu,
tất nắm đại quyền, hoặc thống lĩnh trăm ngàn binh lính, võ chức quý hiển.
Hóa Quyền nhập Mệnh Thân, đồng cung với Hóa Khoa, tất văn chương đứng đầu,
mọi người đều khâm phục kính nể, có danh tiếng trong giới văn nghệ, học thuật.
Hóa Quyền và Hóa Khoa giáp Mệnh Thân cung, chủ quý.
Hóa Quyền đồng cung hay hội chiếu với Hóa Lộc, tài quan song mỹ, cát tinh
nhiều thì luận như trên, nếu hung tinh hội nhiều thì không luận là tốt, chủ hư
danh hư lợi, hào nhoáng mà không thực.
Hóa Quyền và Hóa Lộc thủ cung Tài Bạch, cung Phúc Đức, xuất thế vinh hoa.
Hóa Quyền, Hóa Lộc cư cung Nô Bộc, tuy có quan quý cũng vất vả bôn ba.
Hóa Quyền hội Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp Đại Hao Thiên Sứ, dễ nghe lời
xằng bậy, tất có quan tai giáng chức, hoặc sự nghiệp gặp tổn thất.
Hóa Khoa
Hóa Khoa thuộc Thủy, đứng đầu trong thi cử, là thần về văn mặc, hỉ hội Khôi
Việt. Nhập miếu vượng ở Sữu Ngọ Thân, hãm ở đất Tuần Không, Triệt Không, Địa Kiếp,
Địa Không, Kình Dương, Đà La, Nhật Nguyệt hãm địa. Nhập Mệnh Thân cung, chủ
người thông minh ham học, khẩu tài lưu loát, có tài hoa về phương diện ngôn
ngữ, văn chương, học tập ưu tú, được đánh giá cao, một đời dễ nổi tiếng. Thủ
Thân Mệnh, Quyền Lộc tương phùng, thông minh. Nếu gặp ác tinh, cũng là tú tài
văn chương, có thể là giáo viên. Hóa Khoa hỉ nhập Mệnh, Thân, Di cung. Cư Tài
Bạch cung, Quan Lộc cung cũng tốt.
Nữ mệnh cát tinh củng chiếu, có thể là quý phu nhân, dù Tứ Sát xung phá,
cũng chủ phú quý, không có sát tinh hội chiếu thì dịu dàng thanh tú.
Hóa Khoa thủ Mệnh Thân, đồng cung hội chiếu với Hóa Quyền Hóa Lộc, là số
đại quý, quan cao vinh hiển.
Tam phương tứ chính Mệnh nếu được Khoa Quyền Lộc hội chiếu, là cách “Khoa
Quyền Lộc tam kì”, nếu chính tinh miếu vượng, là quý cách uy chấn thiên hạ.
Hóa Khoa Hóa Quyền giáp Mệnh, là quý cách.
Khoa Quyền đối củng, là người bỗng nhiên nổi tiếng, lưu tên bảng vàng, chủ
quý.
Khoa Quyền Lộc Mệnh phùng hội cát tinh, quyền uy của bậc vương tướng chấn
áp mọi người. Là cách có cả danh lẫn lộc.
Hóa Khoa thủ Mệnh, ám hợp với Hóa Lộc ở cung lục hợp, là cách “Khoa Minh Ám
Lộc”, chủ quý, có thể là quan chức cấp tỉnh.
Hóa Khoa ở Mệnh, Hóa Quyền chiếu đến, vận thi cử rất tốt, đỗ hạng đầu.
Khoa hãm bởi hung thần (hãm do Triệt Không, Kiếp Không, Dương Đà, Nhật
Nguyệt hãm), có tư chất nhưng không thành công, hào nhoáng mà không thực, khó
có thể phát huy tài năng, cũng không giàu có.
Hóa Khoa đồng thủ Mệnh với Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, tam phương tứ
chính hội một trong Tứ Sát Dương, Đà, Hỏa, Linh thì có tai họa ngục tù.
Hóa Kỵ
Hóa Kỵ thuộc Thủy, là sao kế đô, là đa quản chi thần, cũng là một hung
tinh, nhập miếu ở Tý Sửu, lạc hãm ở Dần Ngọ Tuất Tỵ Hợi, có thể căn cứ vào sự
khác nhau giữa chính tinh trong cung mà có tác dụng khác biệt. Hóa Kỵ nhập
mệnh, là người thích suy nghĩ vào ngõ cụt, có xu hướng ngoan cố, cá tính mạnh,
thích đố kỵ, hay đa nghi, thích quản chuyện không đâu, quan hệ xã hội không
tốt, thường có xung đột với người khác, làm việc khi sắp thành thì lại thất
bại.
Hóa Kỵ là sao bất hạnh, thường dẫn đến thất bại, hay gặp các tai họa như
không vừa ý toại lòng, thất tình, thất nghiệp, phá sản, xung đột, tranh đấu,
bệnh tật, thương tích, làm hỏng, thủ Thân Mệnh, một đời không thuận, hay rước
thị phi. Trừ một số trường hợp nhỏ, nhập 12 hai cung thì đâu đâu cũng là hoa,
có ý nghĩa phá hoại, duy gặp cát tinh nhập miếu thì có thể giảm bớt cái hung,
nếu hội chiếu với hung tinh mà không gặp cát tinh thì không lường trước được
tai họa.
Nữ mệnh Hóa Kỵ nhập Mệnh Thân cung, lắm mồm, tính tình lanh lợi. Không hội
cát tinh thì một đời vật chất khó khăn, chủ nghèo hèn. Hội hung tinh Hóa Kỵ họa
nặng, nhiều cát tinh hội thì tai họa khá nhẹ.
Hóa Kỵ tại Mệnh Thân, di, độ hung cực lớn, chủ một đời không thuận, hay gặp
trắc trở thất bại, tuy nhiên người này cũng không phải không có tài năng.
Hóa Kỵ ở Mệnh, người này hay đố kỵ với người hiền tài, bụng dạ nhỏ hẹp. Nếu
không, bản thân cũng bị người khác xa lánh, đố kỵ, đấu đá lẫn nhau.
Người thủy nhị cục, Mệnh cung phùng Hóa Kỵ không đáng sợ. Bởi lẽ Hóa Kỵ
thuộc thủy, người sinh thủy nhị cục phùng Hóa Kỵ, có thể nhờ tác dụng của sao
Hóa Kỵ này mà đạt được thành tựu lớn hay nhỏ, nhưng cái hung của Hóa Kỵ cũng
không vì vậy mà tan biến, người này vẫn gặp những điều không thuận lợi mà trên đây
nói về Hóa Kỵ.
Thiên Đồng tại cung Tuất tọa Mệnh, người sinh năm Đinh đối cung Cự Môn tại
Thìn Hóa Kỵ xung, lại tốt đẹp, chủ đại quý.
Cự Môn tại Thìn tọa Mệnh, người sinh năm Tân hội Văn Xương tại Mệnh hoặc
đối cung Hóa Kỵ, lại luận là tốt, là kì cách, chủ đại phú đại quý.
Thái Dương, Thái Âm miếu vượng (Thái Dương ở cung Dần Thìn Tỵ Ngọ cung,
Thái Âm ở Dậu Tuất Hợi Tý cung) Hóa Kỵ, không hung, lại luận là phúc, nếu Thái
Âm Thái Dương cư lạc hãm hội Hóa Kỵ thì đại hung.
Các sao ở hãm địa hội Hóa Kỵ, cực kỵ.
Liêm Trinh tại hãm địa (tỵ hợi), Hóa Kỵ, càng kỵ, chủ đại hung, cư quan lộc
thì có tù ngục kiện tụng.
Hóa Kỵ đồng cung với Liêm Trinh, Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, tất gặp tai
họa ngoài dự kiến.
Hóa Kỵ đồng thủ Mệnh với Dương Đà Hỏa Linh Tứ Sát, tượng đại hung, đa phần
là số ngục tù, tàn phế, chết thảm.
Hóa Kỵ và Thiên Hình đồng thủ Mệnh, đại hung, là điềm chết ngoài đường,
chết không toàn thây, hội Tứ Sát càng nguy hiểm. Gặp ở niên hạn, có chảy máu.
Hóa Kỵ thủ Mệnh, đồng cung với Tử Vi, Thiên Phủ, Văn Xương, Văn Khúc, Tả
Phụ, Hữu Bật, Khoa, Quyền, Lộc lại hội Dương Đà Hỏa Linh thì làm việc không dứt
khoát, hoạnh phát hoạnh phá, không kiên trì, là số phát tài nhưng không bền.
Hóa Kỵ đồng cung với Sát, Phá, Tham, Liêm, Cự, Vũ, Cơ thủ Mệnh, tam phương
tứ chính hội một trong Tứ Sát, có tai nạn tù ngục
PHỤ LUẬN VỀ TỨ HÓA
Hóa Khoa nhập Mệnh, dù cho phùng sát kỵ chư ác cũng chủ văn chương tú sĩ,
tuy nhiên khó tránh khỏi thanh bần, nếu cung Phu Thê, Tử Tức và Phúc Đức cung
không tốt, còn chủ cô quả.
Quyết viết “Khoa tinh hãm vu hung thần, miêu nhi bất tú”, tức Hóa Khoa dữ
Tứ Sát hoặc Sát Phá Liêm Tham Không Kiếp Hao Kỵ Tử Tuyệt Mộc Dục đồng cung tại
Mệnh, đa phần chủ khoa danh vô vọng, chỉ hao phí tinh thần mà thôi.
Hóa Khoa thủ mệnh, bình thường tính chất chủ danh dự rõ rệt, nhưng nếu
phùng Sát diệu, ngược lại là chủ tự thủ lợi ngầm, thanh thế hư ảo.
Hóa Khoa không thích đồng cung Kiếp Không chủ trở ngại, trôi mất, hư danh;
hoặc chủ thanh vọng ở phạm vi hết sức mờ nhạt; cũng chủ là nghiên cứu triết học
tôn giáo.
Định nghĩa chữ HÓA
Lộc Quyền Khoa Kỵ đều có chữ HÓA ở trước. Hóa là chuyển biến, chuyển động,
chuyển hóa. Cho nên Tứ hóa không thể xem là một tinh diệu và tứ hóa chỉ là hiện
tượng biến hóa. Tỉ dụ, Liêm Trinh đứng với Hóa Lộc, Hóa Lộc có thể làm biến hóa
khí chất của Liêm Trinh.
Cũng như năng lượng mặt trời ra 4 mùa xuân hạ thu đông. Tứ hóa lấy thứ tự
xuân hạ thu đông vì vậy chúng đi theo thứ tự Lộc - Quyền - Khoa - Kỵ, không thể
đặt lộn Kị Khoa Quyền Lộc.
Luận về Hóa Lộc
Hóa Lộc thuộc Mộc ví như mùa xuân hướng ra bốn phía mà phát triển. Xuân là
mùa sinh sôi nảy nở, vậy thì Hóa Lộc tương trưng mùa xuân cũng sinh sôi nảy nở.
Xuân tượng vạn vật đều phát triển, mọi sự tốt tươi nên Hóa Lộc cũng mang
tính hài hòa, tiêu đi những tranh chấp, chế hóa tai nạn.
Sách viết: “Hóa lộc, thực lộc bất khuyết, phát triển thuận lợi” vậy
nên đặc tính cơ bản của Hóa Lộc là phát triển. Người Hóa Lộc ko nhất định là
thông tuệ chỉ có khả năng hài hòa phát triển cũng không nhất định là người tài
hoa.
Luận về Hóa Quyền
Hóa quyền thuộc Hỏa đới Thổ, ví như mùa hè, như lửa bốc, tính chất mãnh
liệt. Mùa hè ngũ hành thuộc Hỏa, vạn vật đến hè thì xanh tốt vinh vượng.
Mùa xuân mới chỉ là mầm mống, nếu không đủ sức sống tất nhiên bị đào thải,
còn tồn tại tức là sức mạnh. Bởi thế, Hóa quyền chủ về tự tín và làm việc đắc
lực. làm việc đắc lực đi đôi với vất vả gian khổ cho nên Hóa quyền cũng tượng
trưng cho vất vả chiến đấu. Ngoài ra, đôi khi Hóa quyền trở thành tự phụ vì tự
tín tâm quá cao.
Mùa hè nắng chói chang, quang minh do đó tính tình Hóa quyền chính trực.
Hỏa chủ Lễ cho nên Hóa quyền khi đối xử tỏ ra lịch lãm, khuôn phép tuy nhiên
cũng lại dễ xung động.
Luận về Hóa khoa
Hóa khoa thuộc Kim, mùa thu là mùa của thâu liễm với ý nghĩa nội liễm hàm
súc mang ý vị văn chương và trí tuệ, tài hoa tiềm ẩn mà ko lộ, bởi vậy nên tâm
cơ không gian trá.
Hóa khoa tượng thu Kim trong ngũ thường là chữ Nghĩa. Bởi vậy, người có Hóa
Khoa thường liêm khiết, một lòng một dạ, khuynh hướng bảo thủ nên ít khi hoạnh
phá, nhưng được kính nể.
Luận về sao Hóa kị
Hóa Kị trong ngũ hành là Thủy, tượng về sự tuyệt diệt của vạn vật trong
thời kỳ phải ẩn tàng. Hóa kị ví như mùa đông, bề ngoài cây cối trơ trụi nhưng
bên trong là sức sống mãnh liệt để tạo biến đổi, thay thế đợi mùa xuân tới bung
ra. Hóa kị là lúc phải chịu sự thanh toán triệt để, thoát thai hoán cốt.
Vì phải biến hóa nên thông minh linh xảo.
Mùa đông ngũ hành thuộc thủy. Thủy chủ về trí tuệ. Mùa đông chủ về ẩn tàng.
Trí tuệ mà ẩn tàng thì ý nghĩ khó đoán ra, bởi vậy người Hóa kị thường hay mưu
mô, đôi lúc gian trá, đầu óc quyền biến vô thường. Thủy chủ động nên thường
xuyên xoay chuyển, xoay chuyển quá độ thành ra bội phản.
Tác động của Tứ Hóa
Tứ Hóa tác dụng rất lớn đối với các chủ tinh đến mức có thể làm biến đổi
luôn tính chất của chủ tinh mà chúng đứng cùng. Thái dương đi với Hóa Quyền
khác hẳn Thái dương đứng với Hóa Khoa hay Hóa Lộc. Trên lá số có Tứ Hóa cố
định.
Nhưng tiểu hạn mỗi năm cũng phải tính cả ảnh hưởng phụ của Tứ Hóa do hàng
can của năm tiểu hạn. Như vậy, người Trung Quốc cũng tính luôn cả lưu Tứ Hóa.
Hóa Lộc trong tử vi khoa kể như một sao trọng yếu về tiền bạc dù nó đứng
với sao nào thì tính chất tài lộc vẫn thế, chỉ thay đổi theo mức độ hơn kém
nhiều ít.
Sao tiền bạc còn có Lộc Tồn nữa, được Lộc Tồn thành ra “Điệp Lộc” hay “Song
Lộc”, tiền bạc thêm sức lưu thông để phấn phát, nếu chỉ Hóa Lộc không thôi thì
chỉ là tích súc.
Hóa Quyền mang tính chất quyền lực, quyền lực ưa đi đôi với địa vị, có địa
vị rồi mới có quyền lực. Địa vị ở đây xin đừng hiểu đơn thuần như chức vị.
Hóa Quyền ở đại hạn, hay Hóa Quyền ở tiểu hạn, hay Hóa Quyền ở mệnh cung mà
được thêm Hóa Quyền lưu thêm tiểu hạn càng tốt.
Hóa Quyền ngoài tính chất quyền lực còn có tác dụng gây chí phấn đấu, tạo
tính tích cực và tính ổn định. Tỉ dụ, Thiên Cơ vốn là sao hiếu động không ổn
định nhưng một khi gặp Hóa Quyền thì tình trạng động trên giảm hẳn thành ra
linh hoạt phát huy với kế hoạch rõ ràng.
Hóa Quyền cũng mang đến khả năng quản lý vững chắc. Hóa Quyền hợp với Hóa
Lộc, Hóa Khoa. Hóa Quyền đứng với Hóa Kị dễ bị chiêu oán ganh ghét.
Trường hợp có thêm những sao khác để biến ra quyền uy tuyệt đối dù kẻ ganh
ghét oán hận cũng chẳng làm gì được lại khác.
Hóa Khoa cơ bản tính chất là danh dự và tham vọng. Vì thế Hóa Khoa cần Văn
Xương Văn Khúc để thành cái thế “Khoa danh đồng hội” bảng vàng ghi tên, nhất là
đối với xã hội ưa chuộng khoa bảng.
Còn xã hội thương nghiệp thì Thái Âm Hóa Khoa hay Vũ Khúc Hóa Khoa hay
Thiên Phủ Hóa Khoa cũng tạo nên thanh vọng. Xã hội thương nghiệp, những tài
tinh Vũ Khúc, Thái Âm, Thiên Phủ đứng bên Hoá Khoa đẹp hơn Xương Khúc.
Hóa Khoa ở một vị thế nào đó hoặc một sự kết hợp với các sao khác có thể
chỉ là hư danh và tự mãn thôi. Hóa Kị trong tử vi khoa tính chất rất phức tạp,
Hóa kị có 2 mặt tốt và xấu rõ rệt và khi tác dụng cũng ác liệt. Tỉ dụ Thái
Dương dễ gây tiếng tăm, nổi đình nổi đám nhưng đứng với Hóa Kị thì sự ganh ghét
đố kị cũng thật ghê gớm.
Lịch sử hình thành và phát triển của Tử Vi không rõ ràng, mà cũng không cần
chú ý quá. Hoàn toàn không biết cũng chẳng ảnh hưởng gì đến nhận thức Tử Vi.
Nếu hứng thú thì có thể tìm thấy tư liệu phát triển 40 năm gần đây, nhưng đó
cũng chỉ là chuyện trà dư tửu hậu. Phát triển trọng yếu bắt đầu khoảng mười năm
trước, khi Tuệ Tâm trai chủ giới thiệu Tử Vi trên Trung Quốc thời báo cho đến
ngày nay. Bộ phận phát triển này hết sức có giá trị. Để giới thiệu và nghiên
khảo, người viết có thời gian sẽ ở phần sau giới thiệu, tên bài là “Sự phát
triển của khoa Tử Vi trong mười năm qua: Từ duy tâm luận đến tâm vật hợp nhất”.
Trong việc tập luyện Tử Vi, theo lý giải hôm nay của người viết, thì các
điểm quan trọng có thể phân thành vài loại: Một là tính chất tinh đẩu, hai là
biến hóa của tứ Hóa, ba là biến hóa của các cung.
1. Tính chất tinh đẩu
Khi an lá số Tử Vi, trên lá số các danh từ như Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương,
Cự Môn, Thiên Phủ Hỏa Tinh, Văn Xương v.v… đều chỉ các sao. Nói chung, những
sao này chỉ là “phù hiệu tượng trưng”, không hề đại biểu rằng các “sao” này có
quan hệ với khoa thiên văn học, bởi vậy một số người nói Tử Vi dùng “sao ảo” là
cốt đại biểu ý ấy.
Tử Vi nghe nói có hơn trăm sao, kỳ thật thường dùng không quá khoảng 40
sao, còn lại xem cho đẹp mà không mấy khi dùng. Việc này sẽ đề cập thêm sau.
Sao của Tử Vi có tính chất đa diện, ở mỗi cung khác nhau được diễn giải khác
nhau, nhưng đặc tính cơ bản thì chẳng có gì thay đổi, chẳng hạn: Thiên Cơ đại
biểu linh hoạt, cơ động, hoạt bát, tư lự v.v…; ở cung mệnh biểu thị người thông
minh, cơ trí, linh hoạt…; ở phu thê biểu thị người có cảm tình bất định, dễ đổi
thay; ở tài bạch là người linh hoạt, có nhiều cách làm ra tiền v.v…
Về tính chất sao đặc biệt chú ý “cách cục”. Cách cục là kết quả do một số
sao cùng hội chiếu mà sinh ra, tác dụng có điểm tương tựa phản ứng hóa học, so
với phản ứng “vật lý đơn thuần” - sao độc thủ- thì quan trọng hơn nhiều, chẳng hạn “Cự Kình
Hỏa chung thân ích tử” đại biểu người hành sự tâm lý gấp vội, kịch liệt, không
được việc, tự tìm phiền não, đến mức chẳng lùi được nữa. Có điểm cần đặc biệt
chú ý: Các cách cục này phải được tứ Hóa dẫn động mới tính, bằng không thì
không có tác dụng; Nhớ kỹ, nhớ kỹ!
Phương pháp nhớ đặc tính các sao thì như bát tiên quá hải, mỗi người hiển
thị một phép thần thông, nhưng người viết có một số phép nhớ nhanh, biết đâu có
thể giúp cả nhà một tay, sẽ trình bày sau.
2. Biến hóa của tứ Hóa
Tác dụng của tứ Hóa là đặc điểm của khoa Tử Vi, mười phần quan trọng, nhưng
lại liên hệ cực kỳ mật thiết với đặc tính của các sao. Tứ hóa là bốn đặc tính
hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa, hóa Kỵ. Nói giản dị: Hóa Lộc là thuận lợi, hưởng
thụ, đạt được; hóa Quyền là kiên định, chấp trước, quyền lực; hóa Khoa là thanh
danh, học vấn; hóa Kị là khốn khó, trở ngại, không dễ dàng.
Điểm quan trọng của tứ Hóa là ở chữ “hóa”. Hóa ý là “biến thành”, hoặc là
tăng cường một loại tín hiệu nào đó. Cho nên lấy Cự Môn làm thí dụ thì: Cự hóa
Lộc đại biểu vì miệng lưỡi mà có tiền tài, nên có thể là người diễn giảng, dạy
học, cố vấn pháp luật v.v… Nếu hóa Quyền thì đại biểu lời nói có quyền uy, hễ
nói là làm, nói được ngưòi nghe v.v… hóa Kị thì biểu thị lời nói phạm kẻ khác,
vì lời nói mà xảy chuyện phong ba v.v… Chú ý một chút, đặc tính không hóa Khoa
của Cự Môn. Người có mồm có miệng chẳng phải đến nơi nào cũng nổi danh sao?
Tứ Hóa cần phải nối kết vào cung vị mới xem được việc, cho nên hai yếu tố
này khó mà tách rời nhau; nhớ kỹ, nhớ kỹ! Thậm chí chỉ dựa theo sao được hóa
của tứ Hóa và cung vị đã có thể đoán một số chuyện quan trọng, sự kiện này sẽ
được thuyết minh trong phần cung vị biến hóa.
Gần đây một số người đã bỏ Quyền Khoa, chỉ dụng Lộc Kị. Những người này do
Liễu Vô cư sĩ đại biểu. Kỳ thật cách xem của ông không hoàn chỉnh. Ngoài hóa
Lộc hóa Kị ra, hóa Quyền và hóa Khoa cũng có tác dụng nhân sinh trọng đại.
Không tất yếu nhất định dựa vào việc này phê phán người ta.
Bảng tứ hóa như: Giáp Liêm Phá Vũ Dương, Ất Cơ Lương Vi Nguyệt v.v… thì
nhất định phải nhớ. Cách an tứ hóa có một số quy tắc, như hiện tại đã được
chỉnh lý. Phần này có thể tham khảo tư liệu, như : Tử Vi đẩu số đạo độc – Tinh
diệu giải thuyết thiên, Trần Thế Hưng, Tiêm Đoan xuất bản xã, trang 170 đến
187.
3. Biến hóa của cung vị
Lá số Tử Vi cộng lại có 12 cách, nhưng có 13 cung, phân biệt là mệnh, thân,
huynh đệ, tử tức, tài bạch, tật ách v.v… Trong đó thân có thể ở 6 cung vị là
mệnh, phu thê, tài bạch, thiên di, quan lộc, phúc đức. Mỗi cung vị đại biểu một
phương diện hoặc quan hệ. Tử Vi chia đời sống ra 12 phương diện để nghiên cứu;
tỷ như cá tính, tình bạn, liên hệ anh chị em, ái tình; tình thân về phương diện
luân lý, như phụ mẫu, tử nữ hoặc là cái nhìn về việc truy cầu tài phúc, quan hệ
nhân tế, quan niệm công danh mạnh hoặc yếu, phẩm chất nơi cư trú, đòi hỏi sinh
hoạt tinh thần v.v… là đời sống, nên nghiên cứu đời sống cũng khởi từ những
điều ấy.
Vì cung vị đại biểu sự phát sinh của vụ việc, cho nên có lúc đại biểu dấu
tích trùng trùng của tâm thái. Nếu kết hợp với tứ Hóa thì có nhiều vụ việc phát
sinh; chẳng hạn: Một người cung phu thê hóa Kị, nhưng đại hạn phu thê hóa Lộc,
sự kiện này thông thường biểu thị người ấy dễ sinh chuyện ngoại tình; có thể
giải thích rằng quan niệm về cảm tình không đúng, lại có cơ hội hưởng thụ tình
cảm. Nếu đã thành hôn thì dễ sinh chuyện ngoại tình; nếu chưa thành hôn dễ bỏ
nhau hoặc phát sinh hiện tượng lo sợ
Những trường phái Tứ Hóa
Hóa diệu tổng cộng có bốn loại, đó là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Khóa Khoa, Hóa Kị,
trong đó Lộc Quyền Khoa gọi là Tam cát hóa, ý nghĩa cơ bản của
nó là làm cho tốt lên, còn ý nghĩa cơ bản của Hóa Kị là làm cho xấu đi.
Sao Tứ hóa không phải là loại sao tồn tại độc lập, mà mỗi một hóa diệu đều
phải dựa vào một chính diệu, hoặc một tá diệu. Vì thế, có thể nói tứ hóa diệu
đã dành một chính diệu hoặc tá diệu đặc định nào đó một tính chất đã biến
chuyển.. Tính chất đó biến chuyển thành tốt hơn, hoặc là phát huy tính chất xấu
của nó lên cực độ.
Hóa Lộc là tài tinh, nó thuộc về một loại tài nào ? Lúc tài vào sẽ có đặc
điểm cụ thể gì ? Những điều này chính là phải xem Sao nào Hóa Lộc.
Hóa quyền là sao quyền lực, tăng thêm quyền bính, có ý nghĩa quản lý, hoặc
không ổn định biến thành ổn định. Tuy là cát diệu, song vẫn phải chú ý trong đó
có tính chất lạm quyền không ?
Hóa Khoa là văn tinh, chủ về khoa cử, học thuật, có lúc cũng chủ về danh
tiếng. Là loại học thuật nào ? Danh tiếng thế nào ? Cần phải xem tinh diệu nào
Hóa Khoa.
Hóa Kị là Trở ngại, vì sao nào hóa Kị thì tính chất gốc của sao đó sẽ có
ứng nghiệm theo chiều hướng xấu đi. Tính chất cụ thể cần phải xem sao nào hóa
Kị để định.
Về Tứ hóa, các phái Tử Vi Đẩu Số thường không thống nhất nhau. Căn cứ theo
phép thập can tứ hóa của Lục Tại Điền, là hậu nhân của Lục Bân Triệu phái Trung
Châu, trình bày như sau:
Tứ hóa an tinh quyết = Lộc - Quyền - Khoa - Kị
- Giáp = Liêm trinh - Phá quân - Vũ khúc - Thái dương
- Ất = Thiên cơ - Thiên lương - Tử vi - Thái âm
- Bính = Thiên đồng - Thiên cơ - Văn xương - Liêm trinh
- Đinh = Thái âm - Thiên đồng - Thiên cơ - Cự môn
- Mậu = Tham lang - Thái âm - Thái dương - Thiên cơ
- Kỷ = Vũ khúc - Tham lang - Thiên lương - Văn khúc
- Canh = Thái dương - Vũ khúc - Thiên phủ - Thiên đồng
- Tân = Cự môn - Thái dương - Văn khúc - Văn xương
- Nhâm = Thiên lương - Tử vi - Thiên phủ - Vũ khúc
- Quý = Phá quân - Cự môn - Thái âm - Tham lang
Hóa diệu trong Tử Vi Đẩu Số, là các sao biến hóa then chốt liên thông các
tinh bàn (Thiên bàn và Nhân bàn), nhất là Lưu niên và Đại vận, có các "Lưu
hóa diệu" giao hội hỗ tương với hóa diệu của nguyên cục, khiến cho tính
chất của tinh hệ hữu quan biến thành phức tạp, cũng chính nhờ như vậy mới luận
đoán được cảnh ngộ của đời người khá cụ thể.
Hóa Lộc thông thường có ý nghĩa là "tài lộc"; Hóa Quyền thông
thường có ý nghĩa là "quyền thế"; Hóa Khoa thông thường có ý nghĩa là
"danh tiếng"; Hóa Kị thông thường có ý nghĩa là "trở ngại".
Nhưng mỗi một tinh diệu biến hóa vẫn có ý nghĩa đặc biệt của nó, những ý nghĩa
đặc biệt này thường thường là căn cứ để luận đoán.
Lúc luận đoán mệnh cục, chỉ có Tứ hóa của năm sinh, nên khá đơn giản, dễ
quan sát. Luận đoán những điểm quan trọng, chỉ cần xem bản thân các sao Tứ hóa
có hội hợp hay không? hội hợp ở cung độ nào? thì có thể biết được đại thể.
Lúc luận đoán Đại hạn, chỉ có Tứ hóa của Đại hạn và Tứ hóa của năm sinh,
cũng chưa phức tạp mấy, xem các sao hội hợp với chúng cũng không đến mức hoa
mắt.
Nhưng khi luận đoán Lưu niên, tổng cộng có 3 nhóm Tứ hóa, có thể cung độ
nào cũng có hóa diệu hội chiếu hoặc đồng độ, thường khiến cho người nghiên cứu
Đẩu Số hoa cả mắt.
Thực ra, thông thường chỉ cần xem hai nhóm hóa diệu của Đại hạn và Lưu
niên; lúc nào tứ hóa của năm sinh bị xung khởi mới cần chú ý, không xung khởi
thì tác dụng rất nhỏ.
Tứ hóa của năm sinh cấu tạo thành bản chất thuộc các cung viên, còn Tứ hóa
của Đại vận và Lưu niên là hình thành hoàn cảnh của các thời kỳ trong cuộc đời.
Do đó tứ hóa năm sinh có ảnh hưởng không lớn đối với hoàn cảnh của các thời kỳ.
Điểm này bạn đọc cần hiểu rõ cái lý của nó.
Chỉ khi nào Tứ hóa của năm sinh bị tứ hóa của Đại vận xung hội, hoặc tứ hóa
của Lưu niên xung hội, thì tứ hóa của năm sinh mới có tác dụng.
Dưới đây xin đề cử vài ví dụ cụ thể để thuyết minh:
Nếu "Thái dương Thái âm" thủ mệnh tại cung Mùi, người sinh năm
Canh thì Thái dương hóa Lộc. Đến Đại hạn Ất Dậu, cung mệnh của Đại hạn là
"Thiên cơ Cự môn" mà Thiên cơ hóa Lộc, hội hợp với "Thái dương
Thái âm" (mượn sao cung Mùi an cung Sửu) mà Thái âm hóa Kị.
Lúc này, Thiên cơ hóa Lộc xung khởi Thái dương hóa Lộc, càng khiến cho
Thiên cơ hóa Lộc có sắc thái "vì phục vụ mọi người mà được lợi ích".
Thêm vào Thái âm hóa Kị, là bất lợi về kinh doanh riêng, cho nên lúc này chỉ có
thể làm việc cho công ty để kiếm tiền, cá nhân thì không nên đầu tư.
Hóa Lộc ở nguyên cục lại hóa Kị ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là "sao hóa
Lộc biến thành sao hóa Kị" (thí dụ như Vũ khúc hóa Lộc của nguyên cục biến
thành hóa Kị), cho nên có thể vì tiền mà chuốc họa, hoặc sức kiếm tiền ban đầu
giảm nhiều.
Hóa Kị ở nguyên cục, lại Hóa Lộc ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là "sao
hóa Kị của nguyên cục biến thành sao hóa Lộc" (ví dụ như Cự môn hóa Kị của
nguyên cục biến thành hóa Lộc của Đại vận hay Lưu niên). Cho nên, nhân tố bất
lợi ban đầu, vào hạn này có thể nhuyễn hóa thành nhân tố có lợi, nhờ đó mà được
tài phú.
Hai ví dụ trên cho thấy sự biến hóa thay đổi có ý nghĩa khi hóa diệu giao
hội.
*
Mời thư giãn với nhạc phẩm ƯỚC NGUYỆN ĐẦU XUÂN
của Hoàng Trang qua tiếng hát Giáng Tiên:
*.
ĐỖ VIỆT PHƯƠNG
Địa chỉ: Khu tập thể đóng tàu Bạch Đằng
Ngã tư An Dương, Lê Chân, Hải Phòng.
Email: dovietphuong118@yahoo.com.vn
.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 27.12.2017.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
NHỮNG TRƯỜNG PHÁI TỨ HÓA PHÁI
Trả lờiXóaHóa diệu tổng cộng có bốn loại, đó là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Khóa Khoa, Hóa Kị, trong đó Lộc Quyền Khoa gọi là Tam cát hóa, ý nghĩa cơ bản của nó là làm cho tốt lên, còn ý nghĩa cơ bản của Hóa Kị là làm cho xấu đi.
Sao Tứ hóa không phải là loại sao tồn tại độc lập, mà mỗi một hóa diệu đều phải dựa vào một chính diệu, hoặc một tá diệu. Vì thế, có thể nói tứ hóa diệu đã dành một chính diệu hoặc tá diệu đặc định nào đó một tính chất đã biến chuyển.. Tính chất đó biến chuyển thành tốt hơn, hoặc là phát huy tính chất xấu của nó lên cực độ.
Hóa Lộc là tài tinh, nó thuộc về một loại tài nào ? Lúc tài vào sẽ có đặc điểm cụ thể gì ? Những điều này chính là phải xem Sao nào Hóa Lộc.
Hóa quyền là sao quyền lực, tăng thêm quyền bính, có ý nghĩa quản lý, hoặc không ổn định biến thành ổn định. Tuy là cát diệu, song vẫn phải chú ý trong đó có tính chất lạm quyền không ?
Hóa Khoa là văn tinh, chủ về khoa cử, học thuật, có lúc cũng chủ về danh tiếng. Là loại học thuật nào ? Danh tiếng thế nào ? Cần phải xem tinh diệu nào Hóa Khoa.
Hóa Kị là Trở ngại, vì sao nào hóa Kị thì tính chất gốc của sao đó sẽ có ứng nghiệm theo chiều hướng xấu đi. Tính chất cụ thể cần phải xem sao nào hóa Kị để định.
Về Tứ hóa, các phái Tử Vi Đẩu Số thường không thống nhất nhau. Căn cứ theo phép thập can tứ hóa của Lục Tại Điền, là hậu nhân của Lục Bân Triệu phái Trung Châu, trình bày như sau:
Tứ hóa an tinh quyết = Lộc - Quyền - Khoa - Kị
- Giáp = Liêm trinh - Phá quân - Vũ khúc - Thái dương
- Ất = Thiên cơ - Thiên lương - Tử vi - Thái âm
- Bính = Thiên đồng - Thiên cơ - Văn xương - Liêm trinh
- Đinh = Thái âm - Thiên đồng - Thiên cơ - Cự môn
- Mậu = Tham lang - Thái âm - Thái dương - Thiên cơ
- Kỷ = Vũ khúc - Tham lang - Thiên lương - Văn khúc
- Canh = Thái dương - Vũ khúc - Thiên phủ - Thiên đồng
- Tân = Cự môn - Thái dương - Văn khúc - Văn xương
- Nhâm = Thiên lương - Tử vi - Thiên phủ - Vũ khúc
- Quý = Phá quân - Cự môn - Thái âm - Tham lang