Truyện ma - truyện liêu trai: LƯỠI GƯƠM ĐẪM MÁU - Nhiều Tác Giả

Leave a Comment

 

LƯỠI GƯƠM ĐẪM MÁU

*

NGƯỜI VỀ TỪ ĐÁY MỘ

(Tác giả: Khuyết Danh)

 

Lão Tư cố há miệng ngáp một cách đau đớn:

- Mày… Mày…đầu độc tao... Mày đầu độc tao, con quỉ cái!

Bà Tư gật đầu, đáp bằng một giọng thật lạnh lùng: - Đúng, tôi đầu độc ông. Trước sau gì thì ông cũng chết, thầy y tá đã nói như vậy, chỉ còn là vấn đề thời gian. Có thể một vài tháng, có thể một vài năm, và ông hiểu rằng tôi không thể chịu đựng lâu hơn nữa. Mười lăm năm nhục nhằn! Mười lăm năm đầy cay đắng!

Lão Tư nghiến chặt hai hàm răng vì đau đớn nhưng cũng ráng gừ lên một tiếng chửi rủa như lão vẫn chửi rủa vợ lão mỗi ngày trong suốt mười lăm năm qua:

- Con đĩ chó khốn nạn! Trời sẽ phạt mày. 

Bà Tư vẫn lạnh lùng:  

- Đáng lẽ mình không nên lấy nhau. Tôi không hề yêu ông và ông cũng chẳng ưa tôi. Ông căm hận tôi vì việc ông không lấy được con Ba cháo lòng. Còn tôi, ông cũng biết rằng tôi chỉ muốn làm vợ anh Bảy thợ hồ. Chỉ vì mấy thửa ruộng của hai nhà sát bên nhau mà cha mẹ ông và cha mẹ tôi buộc tôi phải lấy ông và ông phải lấy tôi. Tôi biết đó là cả một cực hình cho ông cũng như cho tôi.

Lão Tư vừa lăn lộn vừa chửi rủa:

- Đồ con đĩ chó!

Bà Tư vẫn nói bằng một giọng đều đều:

- Tôi có ý định đầu độc ông từ khi ông mới ngã bệnh. Thầy y tá nói rằng ông có thể sống lây lất hàng năm khiến tôi không chịu nổi. Tôi không còn muốn bị ông đánh đập chửi rủa mỗi ngày nữa.

Lão Tư rên rỉ:

- Tao cầu mong cho lũ quỉ mặt xanh nanh vàng tra tấn mày dưới điạ ngục.

- Có thể... Nhưng dầu sao tôi cũng tìm được sự bình an trên cõi đời này trước đã. Sống với ông đâu có khác gì bị ác quỉ hành hạ tra tấn!

Lão Tư vặn mình đau đớn, hai bàn tay lão nắm chặt lại chịu đựng. Là một người cứng rắn và mạnh mẽ, lão cố thu hết tàn lực:

- Tao sẽ trở về từ đáy mộ... con quỉ cái...

Rồi lão ráng giơ một nắm tay về phía bà vợ:

- Tao sẽ chờ mày...

Kiệt lực, lão buông tay xuống, mồ hôi tháo ra như tắm, toàn thân run rẩy:

- Trời đất ơi! Đau quá! Như dao đâm vào ruột...

Đột nhiên bà Tư ngẩng đầu nghe ngóng.

Có tiếng chuông xe đạp. Bà bước vội tới bên cửa sổ, nhìn ra ngoài lẩm bẩm:

- Sao thầy y tá tới sớm quá vậy hà?

Rồi bà bước tới bên giường,lượm tấm khăn lông nằm dưới chân giường cuộn thành một bó đè cứng vào mặt lão Tư. Ngộp thở, lão Tư cố vùng vẫy nhưng bà Tư đè nguyên người lên tấm khăn...

Chân tay lão Tư giựt mạnh mấy cái rồi thõng thượt buông xuôi...

Biết lão đã tắt thở, bà Tư đứng lên thở phào nhẹ nhõm, ném cái khăn lông lên lưng ghế trước khi bước ra mở cửa.

Bà nói với thầy y tá vừa bước vào bằng một giọng lạnh lùng:

- Lão đi rồi sau khi bị bất tỉnh như mấy kỳ trước. Mấy nhỏ đi học nên tôi không biết làm sao kêu thầy. Nhưng dầu sao tôi cũng mừng khi lão không còn hành hạ tôi được nữa.

Thầy y tá lắc đầu thông cảm. Ở ngôi làng này mọi người đều biết chuyện của nhau. Thầy đứng nhìn thi thể lão Tư một lát trước khi kéo cái mền phủ kín mặt lão rồi quay sang bà Tư:

- Ngồi nghỉ một chút đi bà Tư. Đừng lo nghĩ gì nhiều, để tôi cho ông Tám Tàng hay trước khi nói với thầy giáo cho con Hoa và thằng Đực về ngay bây giờ. Bà Tư có muốn kêu ai nữa không?

Bà Tư lắc đầu:

- Nhờ thầy nói ông Tám tới đem lão đi ngay dùm tôi. Bây giờ căn nhà này là của tôi. Lão đi khuất mắt tôi sớm phút nào hay phút nấy. Tôi không muốn nhìn mặt lão nữa.

Bà nói tiếp bằng một giọng đầy cay đắng:

- Suốt đời lão làm khổ tôi. Tôi thù ghét lão từ ngày phải về với lão. Bây giờ căn nhà này là của tôi. Tôi sẽ khóa chặt căn phòng của lão ngay khi ông Tám đem lão đi. Tôi không bao giờ muốn nhìn thấy bên trong căn phòng đó nữa. Chỉ toàn là những kỷ niệm đớn đau, những lời chửi rủa, hận thù. Tôi sẽ thiêu rụi căn phòng của lão nếu căn nhà này không bị ảnh hưởng gì.

Rồi bà ngồi xuống ghế ngước nhìn thầy y tá bằng đôi mắt lạnh lùng ráo hoảnh.

Thầy nhìn bà Tư, nói bằng một giọng dịu dàng, thông cảm:

- Bà mệt mỏi quá rồi. Để tôi về lấy chai thuốc bổ tới cho bà.

- Tôi không cần thuốc bổ. Cái chết của lão là liều thuốc bổ tốt nhất đối với tôi... Thầy...

Thầy y tá gạt ngang:

- Thôi, không nên nói xấu người quá cố nữa. Ai cũng biết ông Tư đối xử với bà ra sao rồi. Để tôi đi kêu ông Tám.

Chưa đầy nửa tiếng sau, ông Tám Tàng và một thanh niên phụ việc đẩy xe tới. Bà Tư đứng ngay cửa phòng chờ cho hai người vừa khiêng lão Tư ra là bà khóa cửa lại, bỏ chìa khoá vào túi áo:

- Tôi thề sẽ không bao giờ đặt chân vào căn phòng này cho tới khi tắt thở.

Hai người đàn ông lắc đầu thông cảm. Họ hiểu rõ cuộc sống khốn khổ nhục nhằn của bà bên ông Tư từ nhiều năm qua.

Những năm kế tiếp, bà Tư ra đồng làm việc cùng các lực điền, và dành dụm thêm được khá nhiều vào cái vốn đã đồ sộ của bà. Bà vẫn lạnh lùng, không hề hở môi và không hề có bạn, như lão Tư không hề có bạn.

Rồi hai đứa con bà lớn lên. Con Hoa lập gia đình rồi theo chồng về làng bên. Bà Tư không nói một lời. Thằng Đực lớn lên ra đồng làm việc phụ mẹ khiến bà giảm được một gánh nặng. Rồi thằng Đực lấy vợ và đem cô dâu mới về ở chung với bà Tư. Rồi lũ con nít ra đời, sáu đứa cả thẩy. Nếu những tiếng cười vô tư của bầy trẻ có khiến tâm hồn bà nội chúng mềm đi một chút, bà không hề để lộ ra ngoài.

Suốt những tháng năm dài đó, một cái phòng, được gọi là phòng của nội, vẫn luôn luôn được khóa chặt. Cả gia đình không một ai nhắc nhở tới. Lũ trẻ biết có một cái gì - mà chúng cho là rất kinh khủng - ở bên trong nên mỗi lúc phải đi ngang phòng, chúng đi thật lẹ, và khi bóng tối bao phủ căn nhà, ánh đèn dầu lung linh tạo nên những hình nhân lắc lư rung động trên tường, chúng không bao giờ dám bước tới gần căn phòng của nội. Dĩ nhiên đầu óc trẻ thơ của chúng tưởng tượng thật nhiều.

Rồi một năm châu chấu phá hoại mùa màng. Năm sau trời hạn hán khiến giá thóc gia tăng trong khi lương bổng bị cắt giảm. Nhiều chủ điền cho thợ nghỉ việc.  Gia đình Hoa là một trong những nạn nhân đầu tiên. Mùa màng thất bát, chồng đau ốm rồi một đứa con ra chào đời! Vợ chồng Hoa bồng con về xin bà Tư cho ở chung. Bà Tư vẫn lạnh lùng như thường lệ, nhường cho vợ chồng Hoa một phòng.

Rồi tới phiên anh rể của Đực bị chủ điền cho nghỉ việc. Không công ăn việc làm, không tiền trả tiền mướn, anh ta cầu cứu vợ Đực. Nàng dâu bèn thưa chuyện với mẹ chồng.

Bà Tư, lúc này đã già, nói với con dâu bằng một giọng cương quyết trong bữa ăn chiều:

- Thêm bốn miệng ăn nữa cũng chẳng sao. Cho tụi nó tới đây. Nhưng... không biết rồi tụi nó ngủ ở đâu đây?

Hoa liếc nhìn Đực trước khi ngập ngừng nói lên cái ý nghĩ của tất cả mọi người:

- Phòng của nội. Mình có nên mở cửa phòng cho thoáng khí trước khi cho họ dọn vào không... mẹ?

Bầu không khí đột nhiên trở nên yên lặng nặng nề. Bà Tư liếc nhìn con gái trước khi lần lượt nhìn vào mặt từng người, gằn giọng:

- Mẹ đã thề không bước chân vào phòng đó cho tới ngày nhắm mắt.

Hoa thu hết can đảm:

- Nhưng mẹ đâu có bước vào đó làm gì. Nhà mình chật quá đâu còn chỗ nào khác nữa.

Bà Tư đặt đũa xuống bàn nói thật chậm rãi:

- Nếu có ai ngủ trong phòng đó, người đó phải là mẹ. Mẹ đã ở với cha tụi bay mười lăm năm trời, mười lăm năm đầy đắng cay thù hận. Cha tụi bay ghét mẹ hơn mẹ ghét ổng. Căn phòng đó đầy những sự thù ghét và sau mấy chục năm trời đóng kín, những sự thù ghét đó hiện đang sôi sục chỉ chờ cửa mở là tràn ra phủ ngập căn nhà này. Nhưng không sao, mẹ sẽ dọn vào đó.

Hoa nói bằng một giọng đầy hối hận:

- Phải chi con đừng đưa ra đề nghị đó. Con biết là có một cái gì giữa cha và mẹ nằm trong đó, nhưng con không biết...

Bà Tư ngắt lời con gái:

- Một cái gì mà con nói đó chính là sự thù ghét giữa mẹ và ổng. Nhưng không sao, mẹ đã già rồi, hơn bẩy mươi rồi. Chắc mẹ cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa...

Bà ngưng lại, đôi mắt già mỏi mệt nhìn thật xa xôi: - Có thể đây là sự tiền định. Ổng nói rằng ổng sẽ chờ mẹ... Có thể... Ai biết!

Rồi bà đứng lên:

- Mẹ sẽ mở cửa phòng vào sáng ngày mai.

Dứt lời, bà mím chặt đôi môi, bước lên cầu thang về phòng ngủ trên lầu.

Vào phòng, bà Tư đóng cửa lại, ngồi yên lặng trên cái ghế nhỏ bên giường, đôi mắt mệt mỏi nhìn vào hư không trong khi cuốn phim dĩ vãng hiện ra thật rõ. Bây giờ, bà đang bị thúc giục mạnh mẽ bởi một ước muốn mà bà vẫn chôn chặt trong lòng từ gần một nửa thế kỷ, ước muốn của tất cả những kẻ sát nhân muốn nhìn lại khung cảnh phạm trường.

Ước muốn này đã tới với bà hàng ngàn lần trước đó nhưng lần nào bà cũng nén lòng được. Bây giờ, chỉ còn có mấy tiếng đồng hồ nữa căn phòng sẽ được mở ra, ước muốn lại trở về, mãnh liệt hơn bao giờ hết. Căn phòng đóng kín đang réo gọi bà. Trong óc bà, một tiếng nói vô cùng mạnh mẽ vang lên “Bây giờ! Bây giờ!”. Tiếng nói này rất quen thuộc đối với bà vì đó là tiếng nói của chính ông Tư, người bà thù ghét, người bà đã giết chết!

Bà lặng lẽ đứng dậy, bước tới tủ áo, ngồi xuống mò dưới đáy tủ lấy cái chìa khóa mà bà đã giấu kín hàng mấy chục năm trời. Rồi bà trở lại ngồi trên ghế lắng nghe những tiếng chân lần lượt về phòng. Một lúc sau, căn nhà tối tăm đã hoàn toàn yên tĩnh.

Bà Tư đứng dậy hé cửa nhìn ra dẫy hành lang. Tất cả đều đã ngủ yên. Bà bèn trở vào phòng cầm cây đèn dầu, mở cửa thật nhẹ rồi rón rén bước xuống cầu thang.

Ngoài trời không khí bỗng trở nên nặng nề dường như muốn bão. Bà nghe tiếng gió rít qua những cành cây. Có một cái gì tương tự như tiếng gió than van ngoài đêm tối? Bà Tư ngưng lại, nghiêng tai lắng nghe và đột nhiên ký ức trở về thật rõ. Bà lẩm bẩm:

- Giống như đêm trước khi lão chết.

Tim bà đập mạnh hơn khi đứng trước cánh cửa đen ngòm, lạnh lùng của căn phòng chứa đầy thù hận. Sau một thoáng ngập ngừng, bà chuyển cây đèn sang tay trái, tay mặt lấy cái chìa khóa đút vào ổ khóa.Bà vặn nhẹ. Ổ khóa không chuyển động.. Bà vặn mạnh hơn. Cạch! Ổ khoá bật ra. Bà đứng yên một lát, bàn tay đặt trên nắm cửa. Tự nhiên bà run lên vì lý do gì không rõ. Bà lẩm bẩm: - Lão đã nói là lão sẽ trở về từ đáy mộ... Lão sẽ chờ...

Bà vặn nắm cửa, đẩy mạnh. Cái bản lề cũ kỹ rít lên phản đối trước khi cánh cửa bung ra...

Một làn sóng hận thù từ trong phòng tràn ra phủ kín người bà.

Bà chậm chạp bước vào, đôi môi mím chặt. Giơ cao ngọn đèn dầu, bà quan sát mọi vật trong phòng. Đó là cái giường với tấm khăn trải giường nhăn nheo, nơi ông Tư thở hơi cuối cùng - hay không thể thở hơi cuối cùng? Đó là cái gối mà ông Tư gối đầu trước khi nhắm mắt. Mọi vật không hề thay đổi.

Bà Tư thoáng nhớ rằng cả thầy y tá lẫn ông Tám Tàng, những người cuối cùng đặt chân vào căn phòng này đều đã ra người thiên cổ. Kế bên đầu giường là một cái bàn nhỏ nơi vẫn còn cái ly mà bà pha thuốc độc cho ông Tư.

Bà lẩm bẩm:

- Lão đã nói là lão sẽ chờ...

Căn phòng thật ẩm thấp và bụi bặm. Bà Tư khép cửa lại, đặt ngọn đèn dầu lên cái bàn nhỏ bên cạnh cái ly rồi bước tới bên cửa sổ, mở toang cánh cửa. Một ngọn gió từ bên ngoài lùa vào, rít lên...

Ngọn đèn chợt lung linh vì gió tạo nên những bóng đen quái đản nhảy múa trên tường. Trên lưng ghế, chiếc khăn lông mà bà dùng đè cho ông Tư chết ngộp đã trở thành vàng khè, tuy bà vẫn nhìn thấy thật rõ một đốm đen ở chính giữa, đốm đen mà bà biết là những giọt nước rãi cuối cùng của ông Tư.

Bà bước tới giữa phòng, đôi mắt vẫn không rời khỏi đốm đen trên chiếc khăn lông.

Rồi bà lập đi lập lại: - Lão đã nói là lão sẽ trở về từ đáy mộ... Lão... Lão... sẽ chờ...

Đột nhiên một cơn gió mạnh thổi ào qua khung cửa sổ. Ngọn đèn chao lên trước khi tắt ngấm.

Bóng tối bất ngờ khiến bà Tư hoảng hốt. Lần đầu tiên trong đời bà biết sợ! Bà liếc nhìn về phía cái giường, và chợt nhận thấy dường như có một người đang nằm, mặt quay về phía bà đưa tay vẫy vẫy. Bà run rẩy bước lui trước khi té ngồi xuống ghế. Một cơn gió mạnh thổi chiếc khăn lông bung lên chùm kín mặt bà Tư. Bà hoảng hốt giẫy giụa trong bóng tối và cảm thấy chiếc khăn lông như một con bạch tuộc với những cái vòi gớm ghiếc đang xiết chặt quanh cổ bà. Bà đưa hai tay lên cố kéo mạnh chiếc khăn lông ra trong khi bên tai bà, tiếng ông Tư vang lên mồn một: “Tao sẽ trở về từ đáy mộ... Tao sẽ chờ mày...” Sáng sớm hôm sau, người ta thấy bà Tư nằm chết trong căn “phòng của nội”. Quanh cổ bà là chiếc khăn lông vàng khè, chiếc khăn mà bà dùng hạ sát ông Tư.

 

NGƯỜI BẠN KỲ DỊ

(Tác giả: Trọng Miên)

 

Mỗi lần đến thư viện thì tôi lại gặp hắn, như ngồi mãi một chỗ, chăm chú vào cuốn sách để trước mặt. Vẻ lạnh lùng, tóc bơ phờ, và nhất là đôi mắt kỳ lạ của hắn, ai đã nhìn qua một lần thì không thể quên được - đôi mắt tinh anh dị thường bao giờ cũng như nhìn vào một chốn thăm thẳm.

Một hôm nhân cùng tìm một cuốn sách cổ quái, ít ai đọc đến, chúng tôi thành quen biết. Hai tâm hồn tương ứng xô đẩy chúng tôi lại gần nhau. Thế - người bạn trong thư viện - và tôi thường chỉ có một câu chuyện độc nhất để say sưa nói với nhau là thơ. Từ địa hạt thơ tôi đã đi lần vào trong cuộc đời thân mật của Thế. Anh ở một góc lầu cao, xa thành phố, thường rất ít đi lại với ai.

Thú say mê nhất của Thế là thơ, triết lý và thuốc lá. Thế hút píp và có hơn mười cái, đủ kiểu to nhỏ, từ cái píp đầu lâu đến cái píp đầu thi sĩ Baudelaire, và không biết anh đã tìm tòi mua được ở đâu những cái píp quý giá như thế. Anh nâng niu píp như người xưa chơi đồ cổ, hơn thế nữa, anh yêu thương chúng như những sinh vật có linh hồn.

Một hôm, Thế rủ tôi đi uống rượu và nói một cách thương tiếc:

- Tôi vừa mất một người bạn thân.

Sau hỏi ra tôi mới hay rằng vì một cử chỉ vô ý, anh đánh rơi gãy mất một cái píp đẹp.

Một sự ham thích khác nữa của Thế là chơi đầu lâu. Mấy cái đầu lâu trắng tinh trang hoàng ở phòng mình, Thế đã mua hai cái ở Hà Nội, thời kỳ học ở trường thuốc, một cái mua ở Huế của cụ Ngáo, đao phủ thủ tại kinh đô bán; cái đầu lâu sau này là của một tướng cướp đào lăng vua bị chết chém. Còn một cái nữa, không rõ Thế mua ở đâu, và ngoài ra, hai cái đầu lâu khỉ.

Những cái đầu lâu ấy nổi bật hẳn trên màu đen của gian phòng, và đây đó treo những bức thư ảnh của các thi sĩ Thế yêu: Edgar Poe, Baudelaire, Byron, Mallarme, Valéry.

Bạn khác thường của Thế còn có một con mèo đen nhung chỉ thích được vuốt ve nằm trong lòng người và một con quạ. Con quạ toàn đen này Thế đã tập cho nó nói được và chỉ nói một câu như con quạ của Poe: Không có gì nữa hết!

Người bạn dị kỳ của tôi chỉ sống để mà làm thơ và đọc sách, đi. Nhưng con người phong vận, cốt cách thi sĩ ấy lại không hề đả động tới đàn bà, và tránh nói đến họ. Đó là sự bí mật ở Thế mà tôi vẫn kiếm dịp để tìm hiểu.

Một buổi tối lành lạnh, tôi đến thăm Thế, vừa lúc anh ngủ dậy, sau đêm thức suốt sáng đọc sách hay viết. Thế sống khác với người thường, ban ngày ngủ và đêm làm việc. Đêm mê say anh như hương thơm tách cà phê đậm.

Dựa ngửa ra chiếc ghế lót đệm nhung, ngậm píp phì khói tỏa mờ, Thế thì thầm ngâm thơ. Ngồi một bên, tôi yên lặng nhìn đôi mắt xanh sáng của con mèo đen, vuốt qua làn lông mịn màng như nhung. Trong không khí thân mến, tôi khêu gợi đột ngột đến chuyện tình và mơn man dò hỏi tâm sự bạn. Thế ngập ngừng rồi dịu dàng bảo tôi: - Tôi không muốn nhắc nhở đến dĩ vãng vì buồn lắm, nhưng anh đã gạn hỏi, tôi không giấu giếm anh nữa, và để cho anh hiểu tôi hơn.

Thế đứng dậy thổi tắt cây bạch lạp, vì anh vẫn thích nói chuyện trong bóng tối, những lời nói sáng tỏ hơn. Rồi với một giọng nhiều hơi, buồn buồn, Thế bắt đầu nói: - Trước hết, tôi cần nói rõ để anh biết về việc bị chôn sống là vấn đề có liên lạc mật thiết đến câu chuyện riêng của tôi sắp kể.

Bị chôn sống là một sự thật nguy hiểm, ghê gớm, sự nguy hiểm to tát cũng như sự mê tối của loài người. Tôi đã tra cứu, tìm tòi trong y học và đã kinh nghiệm rằng nếu để trí suy xét thì không ai có thể chối cãi được rằng trường hợp rùng rợn này vẫn xảy ra. Có người may mắn tỉnh lại trước lúc chôn để tránh khỏi sự lầm lạc tàn khốc, nhưng ta phải nghi ngại rằng đã biết bao người bị chôn sống mà không bao giờ ai biết đến.

Cái giới hạn chia hai sự sống và chết rất mù mờ và tăm tối. Ai có thể biết rõ được rằng lúc nào là hết sống và khi bắt đầu chết ? Vì trước và sau khi chết, không có một sự phân biệt hiện ra trên người. Mạch máu hay hơi thở ngừng không thể là bằng chứng được. Không có một thời hạn bao lâu để chắc quyết là chết, và trái tim đã ngừng, có thể chịu vài ảnh hưởng trong thân thể rồi đập lại. Sự thực nghiệm ấy khoa học và y học ngày nay đã nói đến. Người chết thật rất chậm, không như ta tưởng. Trong lúc bề ngoài đã chết, kẻ bất hạnh vẫn có thể đang sống. Người chết nào cũng phải qua hai thời kỳ, liên lạc với cái chết và chết thật, nhưng y học còn chứng nghiệm rằng có khi gặp một thời kỳ khác: chết bề ngoài. Thời kỳ này là lúc những cơ quan nhận thấy rõ ở thân thể đều ngừng lại như bộ máy nghỉ chạy rồi trong một khoảng thì giờ qua, vì một nguyên nhân vô hình, người có thể trở lại với sự sống. Những cơ quan trong người đều chia ra các bộ phận riêng, tất cả dù là nương tựa vào nhau, đều có sự độc lập liên lạc. Mỗi bộ phận có thể sống biệt lập với cơ quan có dính líu đến. Cái chết không phải là một sự thay đổi hoàn toàn và chạm đến những bộ máy sống của thân thể. Bởi vậy khi người ta chết, những bộ phận trong người chưa ngưng trệ hẳn, nên rất khó khăn mà phân biệt được rằng cái chết của người này chỉ là bề ngoài, và người kia chết thật. Khoa học cũng phải công nhận rằng những trường hợp này thật khó mà biết rõ ràng được - phần nhiều người đều mặc số mệnh cho sự rủi may - và các vụ chôn sống vẫn xảy ra. Những tiếng kêu gào thảm thiết của người chưa chết hẳn mà đã bị chôn không được ai nghe đến và chúng ta cũng mặc cho số phận mình, nếu bất hạnh một ngày kia tỉnh dậy trong hòm.

Thế ngừng lại, lấy thuốc cho thêm vào píp, đốt cháy rồi say sưa nói đến câu chuyện của lòng mình:

- Quãng đời hai mươi tuổi của người thanh niên thường ít ra cũng có một cuộc tình ái điên cuồng mà tốt đẹp, và kỷ niệm ấy bao giờ cũng để lại những ấn tượng sâu sắc trong tâm tưởng: Tâm hồn giàu có tình cảm như chúng ta lại hay gây nên những tình duyên ly kỳ

Năm năm trước đây, tôi đang ở trong thời kỳ phát triển của tình cảm thì gặp và yêu một người con gái tên là Bích Trăng. Trăng là một tiếng sét đã làm sôi nổi tận đáy lòng tôi những tình cảm sâu sắc và bền chặt nhất về yêu thương. Trăng có một thứ nhan sắc châu ngọc mà tôi đã mường tượng trong thơ. Với tôi, Trăng là một người yêu có cả tình một người chị, một người mẹ hiền từ của phương Đông. Chúng tôi yêu nhau với tất cả say sưa, nồng nàn của tuổi hai mươi. Mặc dầu giữa Trăng và tôi có những sự cản trở của hai gia đình cổ kính vẫn không thích nhau. Thầy tôi làm quan, trên chức của thầy Trăng. Tính tình cương trực của thầy tôi đã gây nên một sự xích mích giữa hai người, và từ đó cả hai nhà không bao giờ đi lại với nhau nữa.

Tự buổi đầu, Trăng và tôi cùng biết trước rằng cuộc hôn nhân của chúng tôi sau này khó lòng mà thực hiện được. Nhưng chúng tôi không thể không yêu nhau được và khi người ta yêu... Tôi chăm chú theo đuổi cái địa vị độc lập, chắc chắn mai sau, trở nên một bác sĩ, và khi ấy Trăng cùng tôi sẽ tự do lấy nhau, nếu hai gia đình vẫn không bỏ hiềm khích cũ.

Thế rồi một hôm đang thời kỳ lưu học ở Hà Nội, tự nhiên tôi thấy nóng lòng, băn khoăn rồi bỗng nhận được dây thép của một người bạn ở Huế cho hay tin Trăng chết. Cái chết đột ngột, dữ dội của Trăng đã làm đảo điên cả người tôi, và tưởng như mình đang mơ.

Tôi xin phép nghỉ học để trở về Huế ngay chiều hôm ấy. Không muốn cho ở nhà biết, bước xuống xe lửa, tôi lại ngay nhà người bạn. Về cái chết thình lình của Trăng, tôi được hay thêm rằng nàng bị cảm, đau luôn một tuần rồi chết. Và người ta đã chôn nàng sáng ngày.

Trăng đã chết thật, không còn nghi ngờ gì nữa, không còn gì nữa hết! Tự thâm tâm tôi hét lên một tiếng ghê gớm như làm tan vỡ cả linh hồn: Trăng ơi! Tất cả người tôi vang lên một điệu u trầm, ảo não: Hình như trong hồn, trong máu, trong phổi, trong tim tôi lúc bấy giờ đều chứa đựng toàn những mạch tình trìu mến, yêu thương da diết, quấn quít lấy Trăng.

Tối hôm ấy, tôi ngây dại ra đi trong trăng mờ lạnh. Những tư tưởng điên cuồng nung nấu, sôi nổi cả người, lý trí bị ám hoặc, một ý nghĩ ghê gớm nảy nở và cắm rễ trong hồn tôi. Và như một cơn cảm hứng mãnh liệt, ý nghĩ ấy cứ lấn át, chiếm cứ lấy linh hồn. Tôi cuồng loạn theo uy lực của tình yêu bị kích thích đến cực điểm. Qua bao la, của đêm trăng mờ, tôi mê man theo sự xúc động điên cuồng, lần tìm đến mồ Trăng. ý nghĩ dị thường vẫn bùng cháy như một ngọn lửa: tôi rồ dại muốn nhìn thấy mặt Trăng.

Đứng trên đồi chôn Trăng, dưới trăng mơ hồ mà trước kia tôi đã cùng Trăng say ngắm, đi qua chốn này, hôn nhau lần đầu tiên, tôi đau đớn khi nhìn thấy gò đất mới đã che lấp Trăng bên những ngôi mả trắng. Cơn bão táp trong não lại nổi lên ồ ạt, như một người điên, tôi vác cuốc đem theo mờ loạn đào mồ chôn Trăng. Đất mới đắp còn mềm, dễ bới, tôi say sưa với ý tưởng nhìn lại mặt Trăng, không còn biết gì là mệt nhọc.

Nhớ lại khi ra đi đã khuya, đến lúc đào mồ Trăng gần đụng hòm thì nghe gà gáy, tôi hoảng hốt vội vã lên vì sợ trời sáng. Gió khuya ở trên đồi nghĩa địa thổi lên từng trận đem tiếng chó sủa trăng ở làng xa với những tiếng mõ canh lốc cốc. Trăng hạ tuần gần sáng càng tỏ rõ, mây đen từng lúc bay qua.

Tôi mải miết đào, đất bắn khắp mình, quần áo lấm đầy mồ hôi vì nóng, vì cảm động. Đất khỏa ra hai bên người như mở con đường cho tôi đi đến với Trăng. Một tiếng chạm vào gỗ làm cho tôi rung động đến ngây người. Và chẳng bao lâu là tôi cạy mở được nắp hòm. Tôi kéo tung đồ liệm lên, màu vải tang đang còn mới ủ bốc lấy hơi người. Một cảnh tượng đời đời ghi chặt trong trí tôi mỗi khi hồi tưởng lại: nằm thẳng giữa đống đồ khâm liệm màu trắng, dưới trăng lạnh, mặt nhợt nhạt của Trăng có một vẻ thiên tiên lạ lùng. Những ý nghĩ điên cuồng, sôi nổi dịu dần trong trí tôi khi nhìn thấy mặt Trăng. Tôi đưa hai tay run rẩy cầm chặt lấy hai bàn tay Trăng, hai bàn tay cứng lạnh xưa kia đã ve vuốt đầu tóc bơ phờ của tôi. Những giọt nước mắt của tôi từ từ rơi trên má, trên mắt, trên môi nàng. Tôi mê man lặng ngắm Trăng rất lâu, lòng kêu rên những cảm hoài vô tận. Tưởng chừng tôi chỉ muốn ôm xác Trăng về cùng mình, vì không chịu thấu được sự chia ly, hiu quạnh đời đời. Tôi nghẹn ngào gọi tên Trăng trong lúc gió buổi hừng sáng thổi lướt trên đồi. Mặt trăng mờ nhạt tỏa xuống bóng tôi đang gục đầu trên ngực Trăng nằm trong chiếc hòm phá vỡ.

Trời sắp sáng rồi. Tôi còn phải đậy hòm lại, lấp đất lên. Lần cuối cùng, tôi hôn lên đôi mắt nhắm kín của nàng - than ôi, đôi mắt không bao giờ còn nhìn tôi nữa hết - rồi lấy con dao nhỏ đem theo cắt lấy mớ tóc mịn màng của Trăng. Tôi vẫn tiếc nuối không nỡ rời đi, ôm chặt lấy hai tay nàng. Giờ phút ấy, tôi chỉ muốn trời đất tan sập đi, thành hư không như người trở về với cát bụi.

Tôi còn ngây ngất trước cảnh tan nát xé dạ, thì lạ lùng thay, tay Trăng như động đậy trên tay tôi. Và, trước sự kinh ngạc của tôi, đôi mắt nhắm cứng của Trăng bỗng từ từ mở ra nhìn tôi. Rồi tự nhiên đôi môi của Trăng hé mở để lộ những răng trắng tinh. Không phải vì tôi quá cảm xúc mà bị mê hoặc đâu! Trăng bắt đầu uốn mình như người tỉnh dậy sau giấc ngủ đầy mệt nhọc. Và đôi mắt Trăng mở trân trân, ngạc nhiên khi nhận thấy mình đang nằm trong hòm, giữa bãi tha ma, và bên nàng lại có tôi.

Cái ý nghĩ Trăng bị chôn sống thoáng qua trí tôi đánh tan tất cả bỡ ngỡ, hãi hùng.

Thế châm diêm đốt cái píp đã tắt rồi nói tiếp:

- Tôi đã đến kịp để cứu Trăng ra khỏi cái trường hợp tàn khốc, ghê gớm ấy. Tôi tin rằng có một sức mạnh thiêng liêng, thần bí đã nhập vào hồn tôi.

Khi đã gỡ Trăng ra khỏi đống đồ liệm, tôi cởi áo ra, đặt nàng nằm nghỉ cho tỉnh hẳn. Trong lúc ấy tôi nhét đồ liệm vào hòm, đậy nắp lại rồi đắp đất lên, không để lại dấu vết gì để ai có thể nghi ngờ rằng xác chết bị mất trộm hay người chết trong hòm đã sống lại.

Trời vừa sáng thì tôi đã dìu Trăng về đến nhà người bạn. Trăng kêu khát và đói lắm vì đã ba ngày đêm ngất lịm. Uống sữa vào tỉnh hẳn người, Trăng cặn kẽ kể lại: - "Em đang đau bỗng mê man, nói sảng luôn mấy ngày, rồi đến lúc nguy kịch... Có buổi sáng, lý trí trở lại với em một cách thình lình, nhưng thầy thuốc chứng rằng mạch em đã yếu lắm. Em cũng tự biết đến hồi nguy ngập và hấp hối. Thời kỳ cuối cùng, em bắt đầu thấy không đau đớn nữa, mình nhẹ nhàng đi vào một thế giới mơ hồ. Từng lúc em có cảm giác rằng linh hồn được tự do bắt đầu thoát ly. Trong một cuốn sách về y học của anh cho em mượn đọc, em nhớ có nói rằng lúc gần chết, sức mạnh tinh thần của ta không bị đụng chạm gì đến, và ở những người mà tâm tính vẫn giữ được cứng cỏi thì linh hồn được thêm năng lực. Khi cơn bệnh được yên tĩnh đôi chút thì óc được tách ra làm việc như thường. Em đã nhận thấy đúng như thế sau vài lúc mê sảng, hoảng hốt như cuồng tâm.

"Sau mấy hôm lịm đi, thình lình em bỗng tỉnh trí với tất cả sự sáng suốt. Trong giấc ngủ chết, tuy mình mẩy cứng đờ, không thể cử động được nhưng em vẫn nghe thấy lờ mờ chung quanh. Lúc ngất đi, em còn nghe tiếng đồng hồ đánh mười giờ, rồi như chớp, một sự đau đớn ghê gớm, chưa bao giờ cảm thấy, ồ ạt đến chiếm lấy người em. Cảm giác ấy tới rành rẽ và mau lẹ như một nhát dao đâm suốt qua xương thịt, mà còn khiếp đảm hơn nhiều.

"Trong đêm đen tối, đột nhiên em nghe đồng hồ đánh năm giờ. Trước hết linh hồn em chịu tất cả những sự khó khăn để thoát khỏi chốn vô ý thức. Rồi ý nghĩ của em lần lượt theo nhau trở lại và như muốn giật lùi. Em cố cử động nhưng không một chân tay nào theo sự sai khiến của lý trí. Em còn ngờ nghệch trước cơn mê lịm của thể xác im lìm thì linh hồn bỗng sôi nổi lên, suy nghĩ một cách mau chóng lạ thường. Trong một chớp nhoáng của tâm thần sáng suốt, em thấy rõ trước sự kinh đảm của người chết. Trên hai sợi dây đưa quan tài xuống địa huyệt, xác mình đụng vào săng, còn ở trên, những người thân yêu vứt xuống nắm đất vĩnh quyết. Và trên hòm, có tiếng nện đất, rồi đắp mộ xong, mọi người xây lưng lại, trở về với cuộc đời. Em tưởng tượng ra dưới tận chỗ ở cuối cùng hết sức chắc chắn và kín đáo, sự lạnh lẽo ghê gớm của bóng tối bất diệt. Em nghĩ đến anh, anh yêu dấu của em ở xa xôi không hay biết gì hết.

"Em tưởng rằng trường hợp của em không phải là khác thường và có lẽ lúc chết ta vẫn luôn luôn có ý thức, linh hồn còn sáng suốt trong cái thân xác cứng đờ, người chết có lẽ phải biết qua các lúc tẩm liệm. Trong cảnh ngộ hãi hùng ấy, nghĩ đến đêm lạnh đời đời dưới đáy huyệt âm u, linh hồn sẽ tiêu tán theo xác thịt hay là về đâu? Em đau đớn nghĩ đến anh bơ vơ, cô độc, đời anh không có em thì buồn khổ, hiu quạnh biết chừng nào. Thế rồi em ngất đi...."

Thế kể tiếp: - Người nhà Trăng thấy tim nàng ngừng đập, da và môi nhợt nhạt, hai mắt nhắm nghiền, thân thể cứng lạnh, mạch đứng, nên cho là chết thật. Vì cái chết bề ngoài của Trăng rõ ràng như thế, thì không ai có thể nghi ngờ và không vin vào cớ gì để nghi ngờ rằng Trăng chưa chết hẳn. Và sự chôn lầm người còn sống bởi đây mà ra. Chính lúc tôi đào mồ Trăng lên cũng thấy nàng nằm trong một dáng điệu của người chết. Sự may mắn kỳ diệu là Trăng tỉnh ra giấc ngủ chết, cái chết bề ngoài, nhằm lúc tôi phá hòm chôn đựng nàng. Sự sung sướng vô cùng của chúng tôi gặp lại nhau trong một trường hợp dị thường như thế, loài người không có thứ tiếng gì để tả nổi.

Tôi phải giấu giếm việc Trăng được cứu khỏi bị chôn sống, đợi nàng thật khỏe mạnh lại rồi chúng tôi bỏ Huế vào Sài Gòn, sống xa lạ hẳn để không ai tìm biết được cuộc tình duyên lạ lùng của Trăng và tôi. Tôi viết một bức thư về nhà nói mình vì thích phiêu lưu nên đã xin làm dưới tầu đi ngoại quốc. Đối với gia đình, tôi thấy có lỗi nhưng tôi biết rõ tính tình cương quyết cực điểm của thầy tôi không bao giờ cho phép tôi lấy con một người mà thầy tôi đã khinh.

Chúng tôi sống cùng nhau được mười ba tháng thương yêu tha thiết thì Trăng chết, và lần này chết hẳn thật. Trái tim của nàng trước kia đã yếu vì lần chôn sống càng yếu thêm, rồi mỗi ngày thêm nặng, và nàng đã nhắm mắt trong tay tôi.

Im lặng một lúc, Thế kết luận: - Bây giờ anh đã rõ tại sao tôi tránh không muốn nói đến đàn bà. Người ta chỉ một lần yêu... Sau Bích Trăng, đàn bà đối với tôi không có gì nữa hết! Lời Thế vừa dứt, trong im lặng, đen tối, con quạ của chàng lặp lại: - Không có gì nữa hết!

Chúng tôi ngồi yên lặng giờ lâu, và trong lắng chìm của bóng tối u huyền, vang ngâm giọng Thế đọc theo nguyên văn bài thơ của nhà thi sĩ Mỹ:

"Một hôm giữa cảnh đêm khua rờn rợn ta đang mỏi mệt gục đầu trầm ngâm đọc lại mấy cuốn sách cổ kỳ dị không còn ai tìm đến. Trong khi ta lao đao muốn ngủ, thốt nhiên, nghe tiếng động se sẽ, như tiếng ai gõ nhẹ vào cửa phòng ta. Ta lẩm bẩm: "Chắc ai lại thăm gõ cửa phòng ta; chỉ thế thôi, và không có gì nữa hết".

"À, ta nhớ lại rõ ràng, đêm hôm ấy vào khoảng tháng chạp lạnh lùng; mớ củi tàn xơ xác nằm chơ vơ in bóng trên mặt đất. Ta thì nóng lòng chờ trời mau sáng vì u sầu tràn ngập cả hồn, ta cố khuây lãng trang sách mà không được. Ta buồn rầu tưởng nhớ đến Bích Trăng không còn nữa, nhớ đến nàng yêu kiều lộng lẫy mà thiên tiên kêu gọi là Bích Trăng, chờ dưới trần gian không còn có ai gọi đến tên nàng nữa hết.

"Tiếng mơ hồ, dìu dịu, rầu rầu của mấy tấm màn điều lao xao thấm đượm, tràn ngập hồn ta những rùng rợn gớm ghê, mà chưa bao giờ ta đã cảm rung như thế, - đến nỗi ta phải nhắc nhở mình luôn cho lòng bớt hồi hộp: "Chắc khách qua đường muốn vào đây tạm nghỉ trọ, chắc vậy chớ không có gì nữa hết".

"Tâm trí lần lần mạnh dạn lên, rồi tôi không ngập ngừng lâu nữa: "Ông hay bà nào ngoài đó, tôi xin thất lỗi, số là tôi đang chập chờn ngủ thì ông hay bà lại gõ cửa, nhưng tiếng gõ khẽ quá, tiếng gõ cửa phòng nhỏ quá, nên tôi cũng không rõ là có ai gõ thật hay không". Nói rồi tôi mở toang cửa ra - ở ngoài chỉ là bóng tối đen, và không có gì nữa hết!

"Nhìn sâu vào bóng tối u huyền, tôi đứng lặng giờ lâu, vừa kinh ngạc, sợ hãi, nghi ngờ, tưởng tượng những chuyện lạ lùng mà chưa bao giờ kẻ trần gian nào dám nghĩ đến; nhưng đêm vẫn im phăng phắc, bóng tối quạnh hiu, và chỉ một tiếng lẩm bẩm: "Bích Trăng". Chính tôi đã lẩm bẩm gọi tên nàng và tiếng dội thì thầm "Bích Trăng!" - Chỉ thế thôi, và không có gì nữa hết.

"Tôi trở vào phòng đóng cửa lại, tâm hồn nóng hực, bỗng lại nghe tiếng gõ mạnh hơn lần trước. Tôi tự bảo thầm: "Chắc có cái gì ở cửa sổ, ta phải tìm ra sự bí mật này. Hãy để cho lòng bớt hồi hộp, rồi tìm ra sự bí mật này" - chỉ là tiếng gió thổi và không có gì nữa hết.

"Tôi mở cửa sổ ra, thì một con quạ đen lớn, một con thần ô thiên cổ, sột sạt trên cánh cửa bay vào. Nó không tỏ vẻ gì sợ hãi, cứ nghiễm nhiên mà vào với vẻ mặt ông hoàng hay bà chúa, đậu trên cánh cửa phòng tôi, ngay giữa đầu bức tượng vị nữ thần; nó đậu yên đó, và không có gì nữa hết.

"Vẻ trịnh trọng, oai nghiêm của dáng điệu và nét mặt con chim đen nhánh làm cho tôi đang buồn cũng phải hóa cười. Tôi nói - "Này hỡi quạ, giống chim quái gở tự đời nào từ chốn Hoàng tuyền thăm thẳm đến đây, dẫu cho cái đầu ngươi đã bị cạo gọt, nhưng ta chắc ngươi không phải là một con chim nhút nhát - vậy ngươi hãy nói cho ta biết danh hiệu cao quý của ngươi ở chốn Hoàng tuyền thăm thẳm là gì? " Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!" Tôi lấy làm lạ rằng con chim xấu xa kia lại biết nói rõ ràng như thế, tuy câu trả lời của nó không được nhiều ý nghĩa và hợp thời cho lắm; nhưng thử hỏi có bao giờ ai là người đã được trông thấy một con chim trên cửa phòng mình mà xưng danh hiệu là "Không có gì nữa hết".

"Con quạ đứng chơ vơ trên bức tượng lạnh lùng, chỉ nói một câu đó thôi, hình như trong đó ngụ hết cả tâm hồn tôi lúc bấy giờ. Nó không nói thêm gì nữa hết, nó không rung động đến mảy lông - cho đến khi tôi nghẹn ngào, se sẽ nói: "Bạn bè tâm huyết của ta biết bao người đã bỏ ta mà đi xa rồi; và đến sáng ngày người cũng sẽ bỏ ta mà đi nữa, như những lời nguyện ước cũ".

Con chim lại nói: "Không có gì nữa hết!"

"Giữa im lặng, câu trả lời đúng hợp như thế khiến tôi thất kinh tự bảo mình rằng: Tưởng chừng con chim này chỉ biết nói có thế, nhưng chắc đã học được câu này của một thi sĩ ba đào, bị thần tai họa tàn ác đánh đuổi không ngừng, khiến nên bài thơ nào cũng chỉ quay về một điệp khúc thảm sầu tuyệt vọng: "Thế là hết, không có gì nữa hết!"

"Nhưng lòng đang buồn tê tái nghĩ đến con quạ cũng phải lấy làm lạ và buồn cười, tôi liền kéo ghế đệm đến trước mặt con chim, bức tượng và cánh cửa; rồi gục đầu trên nhung buồn, tôi ngẫm nghĩ, mơ màng xa xôi để tìm cho ra vì đâu con vật trầm triệu xấu xa, ốm yếu, con thần ô thiên cổ lại đến đây mà kêu: "Không có gì nữa hết!"

"Trong khi tôi đang trầm ngâm thì con chim với đôi mắt sáng quắc như soi thấu tận đáy lòng; trong khi tôi cố xét đoán nghĩ đến ngàn vạn đường, gục đầu trên làn nhung óng ả dưới ánh đèn, màu nhung tím óng ả dưới ánh đèn, mà xưa kia nàng đã gối đầu nhưng ngày nay không còn nữa, than ôi, không còn gì nữa hết!

"Đang nhiên không khí hình như bỗng dịu dàng, ngào ngạt hương thơm tỏa ra ở một đỉnh trầm do các vị thiên tiên từ trời hiện xuống nhẹ nhàng lướt qua nệm lót trong phòng. Tôi la lớn: "Hỡi nhà thi sĩ khốn khổ! Trời đã động lòng sai thiên tiên đem xuống cho ngươi ly rượu quên sầu đỡ tiếc thương nhớ đến Bích Trăng. Vậy thì ngươi hãy uống đi, uống đi ly rượu quên sầu, nhớ chi mãi đến Bích Trăng mệnh bạc!" Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!"

"Hỡi giống tiên tri quái gở kia! Chim hay là quỷ nhưng vẫn là tiên tri, ngươi do ác thần sai đến hay là bị bão táp phiêu dạt lại đây! Nhưng ngươi đã đến chỗ trầm luân khổ ải, nơi hoang lương rùng rợn ám ảnh này, thì ta xin ngươi thành thật nói cho ta biết rằng ở miền Cực Lạc có chăng, có chăng hương vị để quên được hết u sầu? Nói đi, ta van người làm ơn nói cho ta biết với!. Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!"

"Hỡi giống tiên tri quái gở kia! Xin ngươi hãy nói cùng tâm hồn sầu khổ vô hạn này rằng một ngày kia ở trên Thiên đàng vời vợi, ta có còn lại được âu yếm người con gái thanh tiết mà thiên tiên đã gọi là Bích Trăng, âu yếm một người con gái yêu quý lộng lẫy mà thiên tiên gọi là Bích Trăng! Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!"

"Tôi dựng đứng người hét lên: "Thôi thôi câu nói này là dấu vĩnh quyết giữa người và ta, dầu ngươi là chim hay là quỷ! Ngươi hãy trở về trong gió bão, chốn Hoàng tuyền thăm thẳm, ngươi đừng có để lại một mảnh lông đen nào của ngươi như là ghi sự láo xược, nguyền rủa đất trời của ngươi. Hãy để mặc ta sầu thảm một mình, ngươi hãy rời khỏi bức tượng ở phòng ta ! Ngươi đừng ở lại đây mà đâm xé trái tim ta nữa! Hãy đi mau, ngươi đừng để cái bóng đen nghì nghìn thu thiên cổ in hình lên cửa phòng ta!"

Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!"

"Nói thế rồi nó vẫn luôn luôn đứng yên trên bức tượng nhợt nhạt của vị nữ thần, ngay trên cửa phòng tôi. Hai con mắt của nó giống đôi mắt hung thần đang nghĩ ngợi; ánh đèn trôi chảy trên mình chiếu bóng nó xuống đất - và tâm hồn ta trong cái bóng là là như nằm chết đó; không biết bao giờ bay lên được nữa - không bao giờ nữa hết!"

 

LIÊU TRAI

(Tác giả: Wall_and_storm)

 

Minh An người Sài gòn chính gốc. Thuở nhỏ tánh tình hiền lành ít nói, được cái trau chuốt và học khá. Nhưng không hiểu sao càng lớn lại càng bỏ bê giảng đường học phận, thi Đại học mãi không đậu. Cha mẹ buồn rầu không nói được con, ngặt nỗi đã 23 tuổi đầu mà vẫn lông ngông ra rại. Nhưng cha mẹ chàng nào có hiểu cớ sự? Minh An bỏ bê việc ôn luyện cũng chỉ, chắc mẩm, mình chàng biết rõ nguyên nhân: Chàng đang quanh quẩn trong cái nhân tình thế thái bạc bẽo trắng đen tình yêu đồng giới nhập nhằng lươn lẹo. Ngẫm cha mẹ không hiểu con, chàng cũng buồn rầu thêm ngày đêm như người mất trí. Nhân tình đểu cáng lừa lọc vây hãm chàng. Chàng ngán.

Sau nhiều đêm suy tư canh thâu suốt sáng, trông phận mình ăn chơi lêu lổng mãi cũng chán, Minh An mong manh nhìn tương lai tăm tối đang đón chờ chàng mà lắc đầu. Chàng thương cha già mẹ bệnh, một phần ghét tình đời bạc bẽo nên quyết tâm một lần gầy dựng lại từ đầu, quyết sĩ tử một phen lao vào chốn thi tài lấy danh phận. Minh An xin cha mẹ cho về quê sống ẩn, mang cớ không khí thanh nhã, không vướng bận đèn vàng xa hoa nơi Sài gòn ăn chơi để dễ dàng tự ôn luyện. Cha mẹ thương con khóc thút thít, cũng mừng con có chí tâm cao xót xa mấy đành bằng lòng cho con lên đường.

Về phần ở dưới quê, ông bà thân sinh Minh An có một ngôi nhà trống do tổ tiên để lại. Từ ngày vợ chồng di dời lên Sài gòn làm ăn, ngôi nhà do bà cô goá trông coi. Treo bảng bán mãi mà không ai mua, nếu như Minh An không đòi về làm nơi ôn luyện, chỉ dăm ba năm nữa là ngôi nhà đi vào quên lãng. Nói như thế cũng cốt cho thấy rằng ngôi nhà đã cổ lắm rồi, nhưng vì là đất tổ tiên nên không dám bỏ hoang, cũng may có bà cô goá ở trông nom. Không biết Minh An sẽ sống ở đó trong mùa chuẩn bị thi cử thế nào, nghĩ đến mà cha mẹ chàng chảy ròng khóc cho con. Thôi thì số trời, đành nhờ bà cô chăm sóc cho chàng. Ngày Minh An lên đường, đất trời vẫy vùng, lòng người cũng xót xa. Chàng tìm quên nơi bình yên đẫm mùi cỏ cháy. Liệu rồi mọi chuyện sẽ êm xuôi như mọi người hằng mong đợi? Âu cũng xem vào số mệnh.

Khí trời quê thanh nhã nưng nức mùi cỏ. Bầu trời lúc nào cũng xanh cao không ồ ạt bon chen như Sài gòn, Minh An hít rần rần luồng trong lành ấy vào thanh quản, chàng hy vọng ngày bình yên kéo dài. Thế nhưng, khi Minh An vừa đặt chân vào hiên nhà, gió bất ngờ thổi đến từng chặp. Trời vội vàng đen kịt như gã hoạ sĩ bất cẩn làm đổ lọ màu đen loang lổ nền giấy trắng. Trời làm giông bão, lòng trai xa nhà thoáng chút ngừng hân hoan. Trong mắt Minh An xốn xang khó tả. Tự nhiên, sao chàng thấy sợ sợ. Quên bẵng khí trời làm loạn, chàng bước vào nội thất bên trong ngôi nhà. Ngôi nhà quá hoang mang rờn rợn kì quái. Bà cô goá đón chàng như một người ủ dột từ ngàn đời, nay tìm thấy niềm vui con con. Sau khi tiếp chuyện qua loa bằng vài nụ cười cố hữu, Minh An đi vòng vòng quanh nhà. Ngôi nhà rộng với thiết kế đơn giản: một phòng khách âm u với chiếc trường kỉ to oạch nổi bật kê trong góc. Hai phòng ngủ đóng cửa im ỉm bụi bám lảng vảng ở mấy khe vuông vức, có lẽ mới được lau chùi. Cuối cùng là phòng bếp với vài chiếc nồi cáu đen móp méo. Nhìn khung cảnh xung quanh nhà mà chàng thấy ủ dột, nhưng cũng đành bấm bụng chịu đựng, chịu đựng cho tương lai của chàng. Theo sự sắp xếp của bà cô thì Minh An sẽ ở trong căn phòng cuối cùng gần mé bếp, vì phòng này có cửa sổ nhìn ra khu vườn sau nhà, cho chàng dễ dàng nắm chọn không khí để thông cho việc dùi mài. Căn phòng gần với phòng khách thì vốn dĩ của bà cô cũng lâu năm lắm rồi. Mọi việc thế là chu toàn. Nhưng trong lòng Minh An, luôn xao động một cảm giác khó tả, như thể đôi khi chàng thấy mình là con người khác, ngỡ ngàng với những việc mình chọn.

Vài tuần lễ trôi qua nhẹ nhàng và bình an. Dường như Minh An đã tập quen dần với cuộc sống thôn quê đơn giản, chàng thấy khoan khoái lạ thường, cảm giác xốn xang khác lạ cũng biến mất. Minh An thích ngắm nhìn trời đất sau mỗi lần đặt bút, chàng nhìn mọi thứ qua khung cửa sổ hướng ra sau vườn nhà, màu xanh mát cây cỏ đủ làm dịu lòng bất cứ cơn mệt nào. Lấp loé sâu trong tán lá lung lay buổi chiều tà, Minh An phát hiện có một căn nhà nhỏ. Không phải, nhìn kĩ giống một căn lều hơn. Căn lều cổ xưa lụp xụp lá ngói xung quanh. Chàng thắc mắc, hỏi bà cô trong bữa cơm tối thì được biết đó là căn lều của người làm vườn. Ông này ngày xưa làm vườn cho nhà tổ tiên chàng, theo lời bà cô thì sau này bỏ đi biệt tích đâu đó. Chàng ậm ừ nghe không rớt một lời, rồi lại tự nhiên lạnh gáy. Đêm lại có bão. Gió rít miên man từng chặp, quái, đất trời cứ dồn dập vồn vã. Bao nhiêu cảm giác yên lành bỗng mất hết, Minh An mường tượng ra nhiều hình ảnh lộn xộn không trật tự. Cái cảm giác ban đầu khi mới bước chân vào ngôi nhà trở về, chàng buông lơi chén cơm sau tiếng than thở của bà cô goá, đại khái là ông trời nổi giận gì đấy, rồi bỏ về phòng. Chàng sợ. Phải. Chàng sợ. Cơn sợ làm chàng cố nhắm mắt một cách gượng gạo. Ngay cả chàng, cũng không bao giờ biết, chính đêm giông bão này là điểm khởi đầu cho hàng loạt những điều ghê rợn mà cả đời chàng về sau, cũng không bao giờ quên được.

Giấc ngủ cứ nhấp nhấp trên bờ vực mê tỉnh làm Minh An liên hồi cử động, không tài nào ngủ sâu được. Người chàng nóng ran mặc ngoài trời gió ùa ập những luồng lạnh toát. Tiếng gió chảy theo hàng dọc mái tôn phát ra những tiếng cộc cạch như bước chân người đi chậm rãi trên nền sàn gỗ. Cộc cạch. Cộc cạch. Không phải, rõ ràng là tiếng bước chân tì lên từng khe hở của sàn nhà gỗ. Môi mép Minh An bắt đầu co giật nhẹ nhẹ khi biết đúng là thứ ma quỷ mà chàng nghĩ đến đang chuẩn bị xâm hại chàng. Im lặng. Rì rào. Cộc. Cạch. Thanh quản Minh An dần căng ra. Đúng vào lúc miệng chàng sắp phát ra thứ âm thanh kinh hãi có thể ghê hơn cả giấc mơ kinh hoàng của một người hay đi đêm trong nghĩa địa thì cánh cửa phòng chàng lung lay, âm thanh ken két chua ngoa khô khốc tựa giọng khè khè của quái thú. Chàng hét trong vùng vẫy, đưa đôi tay lên bịt mặt. Cứ tưởng tượng cơn sợ hãi của một người đang ở điểm cực độ mà liên tưởng đến chàng. Rồi chàng cảm nhận được đôi tay gầy guộc lạnh toát đang gỡ bàn tay mình ra. Chàng ú ớ the thé: - Tránh ra! Tránh ra! Đồ ma quỷ!

- Ôi con ơi, tội tình gì mà gọi cô là đồ ma đồ quỷ. Cầu trời bắt cái thứ dơ bẩn ấy đi. Này Minh An, Minh An, cô đây con!

Chàng hốt hoảng thoáng lợ nhợ nghe có giọng nói, cái thứ giọng lại rại chỉ có ở những người già sống lam lũ cả đời miền quê. Ma ư? Lớn như chàng rồi, mà tin vào trên đời này có ma ư? Tâm hồn Minh An bình tĩnh lại, chàng nâng tay cho bà cô gỡ ra. Đúng rồi, đích thị là cô chàng chứ chẳng phải nào hồn ma bóng quế trêu ghẹo.

- An ơi, là cô đây con. Ôi...Thiệt cái thằng mày làm tao sợ quá. Mưa gió to lớn thế này, đã đóng cửa sổ cửa nẻo vào hết chưa con. Cô vào xem chừng mày đã đóng chưa, cô tưởng mày ngủ rồi. Gớm cái thứ con trai thành phố mà nhát thế con!

Chàng lấy tay quẹt mồ hôi chán, quanh người mồ hôi vẫn tuôn ra như tắm. Minh An lấp liếm:

- Con đóng rồi thưa cô. Mà...à, con chỉ nằm mơ thôi cô à, chứ con không sợ ma qué gì đâu cô.

- Được rồi. Tội nghiệp cháu tôi. Thôi con ngủ ngon nhé. Đừng nhắc đến mấy cái thứ xui xẻo đó nữa nghe không con!

Minh An nhìn bà cô bước ra khỏi phòng mà không khỏi lung lay lòng. Chàng tự vỗ chán mình cái bốp rồi thầm nhếch mép. Quá cha, tầm tuổi này như chàng mà còn suýt vãi ra vì sợ ma. Ôi vui thay nếu bạn bè mà biết được thì chẳng khác chi chàng đang tấu hề! Gió thôi đập. Minh An nằm mãi trong thao thức. Đêm gió mà trời không mưa, giá như có cơn mưa nào rơi xuống ru chàng vào giấc say thì cũng ấm tình. Tiếng sục sạo của bà cô già đã thôi động đậy hẳn. Chàng khẽ mang máng nhớ về cha mẹ, nhớ về những gương mặt baby của bao nhân tình đáng yêu. Rồi chàng khẽ khóc. Giấc ngủ vô tư kéo về. Đêm có những giấc mơ loạn xị.

Câu chuyện rùng rợn trong đêm giông bão không dừng lại một cách đơn giản như thế. Đến bây giờ khi nghĩ lại, Minh An vẫn mơ hồ không chịu tin, thực sự trên đời này có những điều quái dị. Quay lại việc chàng trai 23 tuổi đang đèn sách ôn thi trong căn nhà đầy chất ma quái, ngay lúc này chàng đang ngon giấc với những giấc mơ loạn xị không một ai thức để có thể khâu ghép chúng lại được. Nửa đêm, chàng bị đánh thức bởi những tiếng lạo xạo bên ngoài cửa sổ. Nói về cửa sổ quay ra vườn sau nhà, chỉ được làm bằng tấm ván ép mỏng mốc đen cong ceo, được chống bằng một thanh gỗ khi mở, lúc cần đóng chỉ việc hạ thanh gỗ xuống, lai còn thấp lè tè một người cao ráo nhón lên là đưa chân qua được. Hầu hết cửa sổ của những căn nhà trong xóm đều được thiết kế đơn giản. Những tiếng lạo xạo bên ngoài lúc ồn ào lúc tắt bặt không theo một quy luật nào. Rút kinh nghiệm lần trước, lần này chàng bình tĩnh hít thở sâu. Đúng rồi, không việc gì phải sợ, lại là cô chàng đang quanh quẩn trong cơn khó ngủ cố hữu của một con người đang đứng trước tuổi già? Chàng bèn đánh tiếng, vừa bực tức một đêm mà bị quấy rầy hai lần vừa dò hỏi xem có phải đó là cô của chàng hay không.

- Cô hả? Cô lại làm gì ngoài đó thế?

Hai giây. Mười giây. Không có tiếng trả lời. Chàng lập lại, giọng khô cứng không cảm xúc:

- Cô ơi.

Nỗi sợ hãi ban đầu ùa về dâng lên trong chàng theo từng cấp độ một. Nếu là cô của Minh An sao bà ta không lên tiếng? Âm thanh lạo xạo của một vật gì đó dựa vào dưới vách cửa sổ, rõ là có ai đó.

- Ai vậy? Ai ngoài đó phải không?

Thoáng có tiếng hư hứ rất nhẹ, nhẹ như thể trong khoảng khắc của một giây yên tĩnh đỉnh điểm, ta mới nghe rõ được nó. Tự nhiên Minh An can đảm lạ lùng. Nếu thế, thì là ai đó, cụ thể là người, chứ làm gì có hồn ma quỷ sứ nào ngồi thu lu dước góc cửa sổ phòng chàng? Chàng đưa tay quẹt những vãi mồ hôi còn sót lại trên mũi, chút ngập ngừng chàng với tay chống cửa sổ lên.

- An!

Sập! Minh An giật nảy mình đánh rơi thanh gỗ, tấm cửa sổ đánh ào xuống phát một tiếng động to lớn. Chàng quay lại lối cửa chính, một bóng người đen thui thấp lè bè dáng rù về phía trước, mái tóc buông xoã như người điên không động đậy. Chàng dụi mắt. Không kịp nhận để cho chàng định thần lại, tiếng nói từ bóng đen ấy phát ra gãy guộc rời rạc:

- Con vừa kêu cô, chuyện gì nữa thế? Sao không ngủ đi mà tính mở cửa sổ ra làm gì.

- Khô.. ô…ng…- Chàng phát ra bằng giọng run run. Minh An cảm thấy sợ bà cô quá thể - Con tính hóng gió một chút thôi ạ…

- Gió mưa thế này thì cửa nẻo phải cận thận. Mày tính hù bà già nhát gan này à. Ngủ đi mai rồi học bài cho đàng hoàng, cháu ạ. Tuổi trẻ chúng mày thật là khó bảo.

Bà cô vừa nói vừa bước ra khỏi phòng Minh An, vừa đi bà vừa nhấp nháy nói gì đó Minh An nghe không rõ. Chàng không quan tâm. Ngay lúc này chàng chỉ muốn biết dưới khung cửa sổ kia là thứ gì. Cơn tỉnh ngủ cùng với việc biết chắc trong nhà này, không chỉ cô đơn mình chàng làm Minh An thôi bớt sợ hãi. Chàng nhấc cửa sổ lên rồi với tay lấy thanh gỗ đỡ chúng dậy. Quả thật có một vật đang thu lu mình trong một góc. Qua ánh sáng nhá nhem tối, chàng biết đó là con người. Vậy là, con người thật. Nếu như là con người thì chàng làm qué gì phải sợ! Cùng lắm chỉ là tên ăn trộm mà to lớn vạm vỡ như chàng thừa sức làm một tên xấu số ngã quỵ. Minh An quày quả đánh tiếng, chàng nói nhỏ đủ để không làm phiền bà cô có phần khó chịu chưa biết chắc đã ngủ hay chưa:

- Nè, ai đó? Quanh quẩn phòng tôi làm gì?

Nam nhân - Minh An nghĩ thế bởi chàng phát hiện con người hù chàng nãy giờ tóc ngắn - lí nhí ngước lên nhìn chàng, giọng nhỏ nhẹ nhưng đủ nghe rõ trong đêm tĩnh mịch có cơn bão vừa dứt:

- Anh…anh đừng nghĩ em là ăn trộm. Em chỉ đi tìm con Mimi nhà em thôi, nó đi đâu từ tối giờ chưa về.

- Mimi nào? Nhà em ở đâu? Tìm Mimi sao lại đến cửa sổ phòng anh làm gì? Hay em nghĩ anh bắt cóc Mimi của em?

Thằng nhóc đứng dậy, chàng nghĩ thế, cứ nhìn gương mặt non choẹt nổi bần bật dưới vài luồng sáng hiếm hoi, cộng với cách xưng hô của nó là Minh An rõ ngay thôi mà. Nó nhìn chàng bằng đôi mắt buồn rầu thánh thiện như một thiên thần. Chàng xin thề là lúc ấy, thằng nhóc đang đứng đối diện chàng đẹp như một thiên thần.

- Mimi là con chó nhà em. Nó hay đi quanh quẩn chơi lắm. Đêm gió to thế này, mà nó lại chưa về, nên em mới đi tìm nó.

Rồi nó xoay lưng lại chỉ tay về cuối khu vườn:

- Anh. Nhà em ở đó đấy. Em tìm hoài không mà thấy Mimi đâu, nên mới ngồi đây chờ nó. Thỉnh thoảng nó và em vẫn hay ghé ngay cửa sổ này để chơi với anh mà…

Minh An nhíu mày. Làm gì có chuyện chàng hay chơi đùa với một thằng nhóc và một con chó đi lạc tên Mimi ở đây? Vả lại, ngôi lều cuối vườn là của ông người làm, thực chất nay bỏ hoang mà, chính xác chàng nghe cô nói thế trong bữa cơm chiều mà? Lẽ nào có người sống ở đó mà cô giấu chàng? Minh An biết có sự nhầm lẫn, nhưng chàng không để ý nhiều lắm. Chàng hỏi:

- Thế em ngồi đây từ tối đến giờ à?

- Em…em chỉ chờ Mimi…- thằng nhóc cúi đầu.

- Em về đi, đừng lo lắng. Chó khôn lắm, tự khắc nó biết đường trở về nhà thôi. Nếu ngày mai nó chưa về, thì anh sẽ cùng đi tìm với em, chịu không nhóc?

- Nhưng em chỉ muốn về cùng Mimi.

Trước thái độ kiên quyết của thằng nhóc, chàng bèn lắc đầu. Chợt nhớ ra điều gì, chàng lên tiếng:

- Thế ba mẹ không chờ em về sao?

- Em không có mẹ. Ba em cũng đi vắng. Có mình em và Mimi thôi, nên em muốn có Mimi bên cạnh. Em sẽ không về một mình nếu không tìm được Mimi.

Chàng nghe giọng thằng nhóc mà cảm thấy tội nghiệp. Nếu như để mình nó ở trong căn lều phía cuối vườn thì chàng quá nhẫn tâm. Minh An nghĩ ra một cách.

- Hay vào phòng anh ngủ tạm nhé. Nếu như Mimi có về thì nó sẽ đến ngay cửa sổ này mà, đúng không? Không phải em và nó hay đến chỗ này chơi sao? Nếu sáng mai Mimi không về, anh sẽ cùng em đi tìm. Chịu chưa?

- Anh nói thật chứ…?- Giọng thằng nhóc sợ sệt và e dè - Anh không đuổi em đi nữa hả?

- Anh có đuổi em bao giờ!

Sau đó, Minh An đưa tay dìu thằng nhóc bước qua cửa sổ. Vì nghĩ cả hai là đàn ông với nhau, mà chính chàng cũng chẳng có ý đồ đen tối gì với những người bình thường, vả lại thằng nhóc quá thánh thiện nên Minh An chẳng có lí do nào để lởn vởn những suy nghĩ bậy bạ trong đầu, Minh An bảo nó ngủ tạm trong góc giường, còn chàng nằm phía ngoài. Chàng thở phào sau một đêm có quá nhiều biến cố. Giá như chàng cứ ngủ một lèo thì đâu có chuyện gì xảy ra! Rồi chàng ngã mình nằm dài xuống tấm phản giường.

Sự đời ngẫm đâu có suôn sẻ theo ý mình! Tội nghiệp chàng công tử xứ Sài thành, mà cũng có thể theo định mệnh, đêm nay là một đêm không suôn sẻ trong kiếp sống của chàng. Ngay lúc Minh An bắt đầu chợp mắt cho một giấc ngủ say về sáng, thì… chàng cảm nhận một bàn tay đang vuốt má chàng mơn man lên xuống. Bàn tay lạnh ngắt của một người đã ngồi lâu lắm ngoài trời giông bão gió lớn. Ngón tay cái lướt qua môi chàng nhè nhẹ xoa đều làm kháy lên một cảm giác đê mê khó tả. Rồi nhẹ nhàng, bàn tay lần xuống cổ, khều nhẹ chiếc núc áo mỏng manh và tuôn sâu vào ngực chàng. Minh An thấy khắp người mình run rẩy hổn hển. Đôi bàn tay xoa đều bờ ngực săn chắc. Cứ từ từ như thế, đôi bàn tay làm chàng sóng soài lan đến phần bụng dưới…Đang vào lúc suýt nữa Minh An ngất lên khe khẽ lời sung sướng thì lí trí chàng bật dậy. Chàng ngồi bật lên cùng với lí trí. Giọng chàng như lạc đi trong cảm giác nóng ran:

- Em, em làm gì thế này?

Thằng nhóc mỉm cười, ôi xin thề có chúa, nụ cười liêu trai rù quyến quật khởi lòng chàng mãnh liệt. Ý nghĩ đen tối bùng cháy ngút lên tận đỉnh đầu óc, Minh An chỉ muốn lao vào cấu xé cái nở ra nụ cười thiên thần ấy. Cơ thể chàng rạo rực, chàng đang thèm quấn xiết một thân thể mảnh mai trong tay, chàng muốn đôi tay gầy guộc kia tì lên ngực chàng mà vuốt mà siết. Từ lúc chuyển về vùng quê hẻo lánh này, xem như chàng giấu nhẹm đi tính dâm sẵn có của một thằng đàn ông, thì nay bùng bục lên như ngọn lửa thiêu cháy mọi thứ. Đôi mắt chàng man dại ánh lên tia thèm khát. Minh An không thể nào tin được giữa chốn thâm u hiu quạnh này lại xuất hiện một con người làm cho chàng điêu đổ. Từ “em” lắp bắp nhảy múa trong miệng chàng. Tiếng thằng nhóc thì thào:

- Em nhớ anh quá. Đừng bỏ em mà đi nữa. Hãy ôm em đi, hãy siết em vào vòng tay anh đi, hãy để cho em là của anh đi…

Đêm đen tối. Không chần chừ, chàng vồ lấy thằng con trai trước mặt đang tỏ ra cần chàng. Một đêm ngấu nghiến của những con thú hoang lạc bầy. Chàng mê đi, chàng thiếp đi. Đêm nhiều phiền toái kết thúc bằng khúc đệm ái ân phập phồng, để sau đó là rã rời đê mê…

Ánh sáng nhem nhóm lùa cả vào gian phòng qua mấy khe hở nơi cửa sổ đánh thức Minh An dậy. Chàng dẹp tan nửa cơn mê để tỉnh táo hẳn, phút chốc chàng quên phắt đêm qua đã xảy ra chuyện gì. Đưa mắt nhìn quanh phòng, Minh An không thấy nó. Nó? Nó đâu? Chàng khẽ mỉm cười cho những khám phá đêm qua. Chắc chắn chốc lát trong ngày hôm nay, chàng sẽ xuống vườn vào nhà nó, hỏi xem nó đã tìm được Mimi hay chưa. Ôi, đời chàng khải hoàn nhiều niềm vui khôn tả, chàng phát hiện ra điều chàng muốn rồi, những đêm này và về sau, chàng sẽ không còn cô đơn. Minh An thích thú hít sâu thở mạnh, nó, nó đấy, nó dễ thương quá…

Định bụng sau bữa cơm trưa chàng sẽ qua nhà nó. Khổ nỗi cho bà cô tội nghiệp cứ nhìn cháu tủm tỉm cười khẽ mà chẳng hiểu chuyện gì. Nhưng ý định của chàng chợt tiêu tan khi bà cô nhờ chàng đi cùng đón xe ra chợ huyện mua mấy món đồ dùng trong nhà. Cô bảo tính mua cho chàng tấm chăn mới, rồi mấy thứ lặt vặt cá nhân khác. Buổi dạo chợ kéo dài đến chiều tối. Thế là tiêu mất một ngày trời. Chàng cũng chẳng muốn hỏi bà cô về căn lều lụp xụp sau vườn. Chàng muốn giữ bí mật cho mối quan hệ của chàng và nó. Đêm nay chàng vào phòng sớm hơn mọi ngày, và như kẻ ngây dại, chàng ngồi ngay bàn học mà mong ngóng tình nhân. Hỵ vọng đêm nay nó sẽ xuất hiện sau cửa sổ chàng lần nữa, không phải nó bảo hay đến đó thường xuyên là gì. Ôi phải chăng chàng đã yêu thằng nhóc xa lạ dễ thương ấy? Thằng nhóc đêm qua đi tìm con chó Mimi trong giông bão rần trời? Khi Minh An biết mình có chút vô vọng trong việc chờ đợi, chàng gục xuống bàn thiếp đi lúc nào chẳng rõ, chỉ đến lúc mái tóc chàng sườn sượt như có ai luồn tay vào – bàn tay lạnh ngắt, thì chàng mới tỉnh dậy. Minh An hấp tấp bật đứng lên:

- Em đến rồi ư? Anh chờ em mãi, anh…

Nhóc cười giòn tan:

- Chờ em làm chi! Đồ ngốc!

Minh An bế thằng nhóc đặt ngồi gọn gẽ trên cạnh giuờng, còn chàng, gục đầu xuống khe đùi hin hít rồi ngước lên:

- Anh nhớ em. Tìm được Mimi chưa nhóc? Hôm nay anh tính qua nhà em, nhưng bận đi cả ngày, không qua được.

- Em tìm được Mimi rồi. Nó kéo em đến chỗ anh đấy. Nào, có muốn gặp Mimi của em không nào?

Sau đấy chàng nghe có tiếng ẳng ẳng của loài chó. Nó kéo tay chàng ra cửa sổ:

- Đấy, Mimi đấy. Anh thấy không.

- Đâu? Anh thấy Mimi nào đâu? – Chàng vừa nói vừa nhìn vào khoảng đen tối ngòm.

- Em thấy mà. Nào Mimi lại đây.

Minh An căng mắt tìm chút dấu vết của con chó Mimi, nhưng chàng không thấy gì ngoài khoảng đen ngòm tăm tối.

- Thôi nào. Ừ anh thấy Mimi rồi – Minh An nói dối, chàng ôm nhóc vào lòng- Người em lạnh quá. Anh sưởi ấm cho nào.

- Em tưởng anh bỏ em đi luôn rồi đấy…

Cơn thèm khát chẳng khiến đầu óc Minh An chút suy nghĩ nào ra hồn, chàng trả lời qua loa:

- Anh không bỏ em đâu. Anh cần em lắm biết không! Xin lỗi cho anh hỏi điều này nhá nhóc, anh quên mất tên em rồi – Quên mất hay chưa hỏi, chàng cũng chẳng thắc mắc điều ấy.

- Anh mất trí ư? Em Trí đây. Đức Trí đấy. Nhớ chưa nào!

- Ok, ok, Đức Trí…, anh nhớ rồi.

Nói đoạn, An đứng dậy thổi tắt ngọn đèn dầu cháy âm ỉ dưới gầm bàn học. Chàng không thể nào từ bỏ hay ít nhất giảm bớt cơn đói của dã thú. Có những tiếng hì hục, tiếng rên khe khẽ, tiếng thở hồng hộc.

- Anh Cường ơi…nhẹ thôi…em đau quá…a…

Không có tiếng trả lời, Minh An rên rỉ dịu dàng với tình nhân. Khựng. Chàng dứt người ra khỏi Đức Trí một cách khó khăn, ngổi chổm dậy.

- Anh Cường? Anh là Minh An, sao em gọi anh là Cường?

- Công Cường, ôi anh Cường, Minh An nào anh? Minh An là ai anh?

Minh An bắt đầu thấy hơi hướm của một sự quái gở và lố bịch. Chàng phân bua từng tiếng:

- Anh là Minh An, không phải Công Cường nào cả. Người đó là ai?

Nét mặt thằng nhóc biến sắc trở thành trắng bệch. Đôi mắt nó long lên ánh đỏ có thế nhìn thấy rõ trong đêm đen. Minh An nổi da gà, sự việc gì kinh hồn thế này. Nó nói bằng giọng rú ré:

- Anh không phải anh cường. Anh không biết tên em. Anh không biết Mimi. Anh lừa dối em lần nữa. Anh không trở về với em. Ôi anh Cường, anh Cường của em đâu?- Giọng nó nức nở thê lương - Ôi…

Nó vội mặc quần áo vào, rồi giằng xé lao ra ngoài cửa sổ. Dưới ánh trăng chênh chếch, khuôn mặt nó in trên nền bầu trời đen đúa.

- Tôi nguyền rủa anh. Tôi nguyền rủa anh.

Sau khi phát ra hai câu nguyền rủa đau đớn, nó lao vào phía sau khu vườn mất hút. Có tiếng chó ẳng ẳng rồi hú lên man rợ…

Về phần Minh An sau khi đứng như trời trồng, cũng vội mặc quần áo vào. Gương mặt chàng méo mó đến tội, chàng lao ngay vào phòng bà cô, lung lay người đang ngon giấc điên cuồng: - Cô ơi! Cô ơi! Công Cường là ai? Đức Trí là ai, ôi cô ơi!

Bà cô bất ngờ hà hốc ngỡ ngàng. Phải một phút lấy lại bình tĩnh để hiểu rõ cớ sự. Bà nhìn cháu mà mếu máo ngậm ngùi. Thôi thì số trời định thế, bà cũng không biết làm sao. Minh An biết có điều gì đó ẩn chứa sâu trong điệu bộ của bà. Chàng khóc ròng sợ hãi. Dù không biết, chàng cũng thấy chuyện gì đó kinh khủng đến mức nào. Giọng bà cô sụt sùi kể đều đều khô khốc. Minh An nghe câu chuyện mà lạnh gáy con người…

Câu chuyện đau đớn về hai kiếp người với tình yêu ngang trái mà mỗi khi nhắc lại, làm đau lòng bất cứ ai. Cũng bắt đầu vào một đêm giông bão, có người đàn ông dẫn đứa con trai khoảng 15,16 vào gia đình xin tá túc qua đêm. Hồi ấy cha mẹ chàng mới cưới nhau, tất nhiên là chưa sinh chàng, chàng được sinh ra từ lúc ông bà chuyển lên Sài gòn, bà cô thì còn xuân chưa chồng con, ngoài ra còn có cậu em trai nữa mà Minh An gọi bằng chú tên Công Cường lúc ấy cũng 20, 21 gì đấy. Tất cả đều sống trong ngôi nhà cổ này lúc còn nhiều phòng nối dài sau bếp chưa sửa lại. Ông nội chàng thuở còn sống sau khi hỏi chuyện người đàn ông mới biết ông ta đi chạy nạn mà thương tình cho sống trong nhà, nhận làm người trông coi vườn, tất nhiên đứa con trai trông rất yếu đuối bệnh hoạn của ông ta cũng được gĩư lại. Chú Công Cường của An rất thương thằng nhóc, còn ra phố huyện mua con chó Mimi tặng cho thằng bé. Phòng mà Minh An đang ở chính là phòng của Công Cường. Chẳng hiểu loạn lạc thế nào mà hai người con trai ấy lại nảy sinh tình cảm. Mọi người phát hiện ô nhục gia phong. Ông nội đau khổ vì con cái mà qua đời. Cha mẹ chàng sợ mất thể diện khinh khi người em út từ bỏ gia đình lên Sài gòn sinh sống. Cô chàng lúc bấy giờ thương em lén lút ủng hộ mặc dù cũng xót xa. Công Cường buồn bực bất lực mà bỏ đi nghĩa vụ rồi gặp nạn qua đời. Lúc ấy nhà chỉ còn bà cô và cha con người làm vườn. Ôi sự việc thê lương, cô chàng nói dối với thằng nhóc là Công Cường đi xa. Với tố chất yếu đuối bệnh sẵn trong người, Đức Trí nhớ mong người yêu mòn mỏi không chịu nổi chết vì bệnh. Phần ông già làm vườn còn sống trong đau thương đến già cũng từ giã mà đi. Cô chàng cứ ở goá trên mảnh đất tổ tiên đến tận bây giờ.

Sự việc là thế. Toàn bộ câu truyện mang màu sắc thê lương nhuốm tê tái cả khoảng trời. Cuối cùng Minh An cũng nhẹ lòng sáng tỏ. Chàng không còn sợ hãi mà thay vào đó cảm giác bứt rứt tiếc nuối. Có lẽ nếu không về mảnh đất này, thì không bao giờ chàng biết được câu chuyện thê lương gắn liền với gia phong. Có lẽ số kiếp chàng đang mang là một cái nghiệp còn oan ức vì sự cấm đoán của dòng họ. Minh An lững thững trở về phòng, quả là có quá nhiều việc khiến chàng suy tư. Tiếng bà cô chận chàng lại ngay ngưỡng cửa: - Cháu rất giống Công Cường. Giống như hai giọt nước.

Minh An thở dài:

- Cô nghĩ sao nếu như cháu cũng yêu Đức Trí?

Bà cô ôm mặt bật khóc:

- Ôi đúng là cái nghiệp. Trời ơi…

Minh An nằm soải ra giường. Chàng nghĩ đến câu chuyện mà khóc thương xót. Chàng nhìn xuống cuối gường, Đức Trí đang đứng đó. Gương mặt buồn rười rượi. Trí cất tiếng:

- Anh không phải Công Cường, em xin lỗi. Ngay lúc thấy anh vào ngôi nhà này, em ngỡ Công Cường đã về với em. Em đợi anh ấy lâu quá. Em nhớ anh ấy lắm. Công Cường bỏ em.

- Công Cường yêu em, hiểu không?...Anh…

- Em hiểu. Em cũng yêu Công Cường.

Hai người nhìn nhau suốt một chặng không lên tiếng. Minh An quên phắt mình đang đối diện với vong hồn người chết. Ôi…

- Em phải đi rồi. Mimi gọi em đấy. Em tin anh Cường chỉ yêu mình em thôi. Anh có tin không nào.

Nó cười giòn, nụ cười giòn tan trẻ thơ. Lúc này Minh An mới nhìn thấy con chó dưới chân Đức Trí, rồi chàng mê đi…

Một buổi sáng nữa lại đến, nắng như tan vào không trung…

 

27 PASTER

(Tác giả: TYTV121482)

 

Hắn hí hửng bưng gốc cây sầu đông còn dính nguyên đất rễ nhẹ nhàng đặt xuống bên cạnh hàng rào, miệng lẩm bẩm ước lượng «cách cổng ra vào hai mét về phía bên phải…» rồi bắt đầu hì hục đào một cái hố thật rộng. Lớp đất đen thô xám tróc dần đi dưới những nhát xẻng hăm hở của hắn, để lộ ra những mảng vàng thẫm đỏ. Năm centimet. Mười centimet. Xem chừng hắn vẫn chưa ưng ý về bề sâu của cái hố, miệng lại tiếp tục lẩm bẩm «sâu ba mươi centimet…». Bỗng hắn khựng lại khi nhát xẻng tiến đến độ sâu hai mươi centimet… Một cái gì đó cưng cứng chặn ngang giữa đầu xẻng. Hắn tò mò nhặt lên. Phủi đi lớp đất vàng dính mỏng bên ngoài. Miệng lẩm bẩm đọc…:

- Mẹ ơi... ! Cái gì thế này...!

Từ phía gian nhà dưới khá xa, mẹ hắn vẫn nghe thấy giọng hắn rõ mồm một. Bà cũng hốt hoảng không kém, lật đật buông đôi đũa đang quấy giở nồi cơm rồi chạy ù lên:

- Sao hét to vậy con! Cái gì thế hả???

Ở góc hàng rào, hắn vẫn còn đứng sững như trời trồng. Mãi lúc sau hắn mới định thần trở lại. Bàn tay run run phủi hết đất cát trên vật vừa tìm thấy dưới hai mươi centimet đất, hắn lập bập hỏi lại:

- Cái gì…đây…mẹ…?

Mẹ hắn chạy đến gần hơn.

Bà giật lấy vật trên tay hắn, nhìn liếc qua rồi thở hắt ra, nói với vẻ trách móc:

- Con với cái! Không đọc được hả! Làm mẹ hết cả hồn…

- Con biết!... Nhưng sao… nó lại nằm …dưới khu đất nhà mình?

- Chắc của nhà trước mình chôn ngày xưa. Giờ đâu có dùng được nữa. Thôi vứt đi con!

- Ngày xưa…? Có phải cách đây hai mươi năm… không mẹ…? Hắn run lẩy bẩy.

- Ừ, hai mươi năm rồi… Thôi, mẹ đi nấu cơm. Khỉ! Trồng cây đi không nó chết bây giờ!

Hắn liếc nhìn cây sầu đông nằm ẹp hẳn một bên góc tường mà khẽ rùng mình. Ngập ngừng một lát, hắn quẳng mạnh vật vừa tìm được ra đường rồi chồm tới vùi gốc cây sầu đông xuống cái hố lúc này có bề sâu là hai mươi hai centimet. Cây sầu đông lọt thỏm giữa cái hố nên giờ đây chỉ còn thấy phần ngọn. Hắn run lên sợ hãi, cái ý định trồng cây lúc này chỉ còn là bọt bóng. Lật đật ùn đất trở lại để “chôn sống” cái cây, hắn không dám nhìn đến nó một lần nào nữa. Bất chợt cơn gió chiều báo mưa giông ùa đến làm hắn rùng mình ớn lạnh. Bỏ cây sầu đông như đang vùng vẫy chết ngộp dưới cái hố, hắn lập cập chạy vào nhà…

Mưa. Từng đợt nước lạnh buốt hối hả trút xuống như để tẩy gột những hàng cây bụi bặm đứng ven đường. Cây sầu đông vừa mới bị vùi xuống hố giờ đây bắt đầu hiện dần ra khi lớp đất vàng quanh nó nhão nhoe, lún xuống đến thảm hại…

Phố vắng tanh. Cái vật ban chiều hắn quẳng ra đường vẫn nằm im lìm ở đó. Những hạt mưa sắc ngọt đã tẩy đi hết đất cát, trả lại hình dạng rõ ràng như cách đây hai mươi năm. Chợt thấp thoáng trong màn mưa có bóng chiếc dù đen đi tới… Gần… Rất gần… Một bàn tay trong chiếc dù thò ra, nhặt lấy vật nằm trên đường. Chiếc dù đen đi lại gần bên hàng rào. Nhìn ngắm. Phía trong kia, cách cổng ra vào hai mét là cây sầu đông đang cố ngoi lên thoát khỏi đống đất vàng tù túng. Cái miệng phía trong chiếc dù đen lấp ló thò ra. Mỉm cười. Rì rầm tiếng mưa, hay là tiếng người xô về từ miền sâu thẳm nào đó nghe lạnh buốt:

«… Sầu đông… Sầu đông… Ta đã trở về nhà…»

Chiếc dù đen chếch lên, nhìn băng qua màn mưa hướng về phía ô sáng cửa sổ tầng hai, nơi hắn đang nằm run rẩy nhớ về những đêm lang thang ngoài công viên cây xanh…

*             *

*

«…Mau lên!»

«Ê…có người kìa…»

«Kệ mẹ nó! Mày có … không?»

Hắn dẩu môi nhổ toẹt một cái với cảnh tượng vừa trông thấy. Công viên cây xanh. 0 giờ. Những luồng sáng nhờ nhợ đứt khúc. Những đóm lửa thuốc lá lập lòe phả ra luồng khói xám ngoét càng làm cho không khí trở nên ngột ngạt và ma quái.

Hắn dang tay thả mình vào cái ghế đá còn trống duy nhất đặt dưới gốc cây sầu đông. Đang mùa ra hoa, những bông sầu đông rơi lả tả lót kín cả khuôn viên xung quanh. Tay hắn vừa chạm xuống mặt ghế, đã phải thu lại để phủi đi những xác hoa chết nhầy nhậy bám vào tay. Trên đầu hắn, những bông sầu đông vẫn chưa thôi rụng xuống, như một cơn mưa đêm dai dẳng khó chịu.

«…Hai mươi năm trước, cây sầu đông này chưa trồng ở đây…»

Hắn giật bắn mình quay đầu nhìn về phía phát ra giọng nói. Đôi mắt nhắm nghiền mơ màng nãy giờ bị mất đi khả năng quen tối, nên phải cố trừng để hai đồng tử căng ra hấp sáng. Trong thoáng chốc, những tế bào hình que trong mắt hắn phát họa lại một Cái Bóng nhỏ con và mảnh khảnh.

«Anh ngồi đây được không?»

Hắn ngồi thụt lùi về phía đầu kia của ghế đá khi thấy Cái Bóng chớm tiến tới đề nghị. Hắn cảm thấy chột dạ khi Cái Bóng xưng «anh» vì hắn đoán có lẽ Cái Bóng không quá hai mươi tuổi. Sự tò mò trong hắn càng tăng lên khi thấy Cái Bóng châm lửa hút thuốc. Trong ánh lửa lóe lên từ que diêm, hắn nhìn thấy một khuôn mặt sáng sủa nhưng có cái gì đó cổ điển. Giống như một người sống ở những thập niên trước mà hắn có dịp nhìn thấy qua những tấm ảnh đen trắng.

- «Bạn tên gì?»

- «Anh lớn hơn em đấy! Tin không nhóc?»

Hắn bật cười khanh khách khi nghe Cái Bóng gọi mình là nhóc. Có lẽ đêm nay hắn đã gặp phải một «cái -bóng - top» chăng? Sự tự tin của Cái Bóng làm hắn cảm thấy thú vị quá. Đôi lúc hắn cũng tự hỏi không biết tại sao mình lại thích lang thang ở cái công viên cây xanh này. Lúc 0h. Hắn chưa bao giờ đồng ý một «lời - mời» nào hết. Hắn hoàn toàn không có nhu cầu gì ở vùng bụng dưới. Hắn chỉ thích lang thang, ngắm nhìn những người giống như mình đang vật vờ tìm kiếm, để rồi lại ngả lưng ở một cái ghế đá trống trải nào đó mà nghĩ ngợi. Hình như thật lâu rồi hắn không làm tình cùng ai. Cái cảm giác được siết chặt lấy nhau hắn đã bỏ quên ở đâu mất rồi. Nhưng đôi khi một bàn tay con trai vô tình lướt qua da thịt cũng đủ làm hắn rùng mình. Ban ngày hắn trôi giữa sách vở, giảng đường, công việc. Và là cái công viên cây xanh này chiếm trọn của hắn những buổi đêm. Gã má tóp đằng kia ghét hắn ngay từ lần thứ hai lời đề nghị của gã bị từ chối... Cái cộng đồng những gã đàn ông ở công viên cây xanh này xem hắn là một sinh thể vô vị và khó hiểu. Nhưng chỉ cần một đêm hắn không xuất hiện, không ít người dáo dát tìm kiếm và buồn bã. Hắn như cái phần tinh khiết mà một đời họ thèm khát. Hoặc là đã đánh mất ở một xó xỉnh nào đó.

- «Em đang nghĩ gì mà đăm chiêu vậy nhóc?»

Hắn giật mình một lần nữa khi bị Cái Bóng cắt ngang dòng suy nghĩ. Hắn quay sang, chau mày:

- «Bạn là ai, sao lâu nay tôi không thấy?»

Lúc này hắn mới có dịp nhìn rõ hơn khuôn mặt của Cái Bóng. Đôi chân mày đậm nét như cặp sâu róm dưới vầng trán rộng làm toát lên một vẻ chững chạc và nam tính hiếm thấy. Đôi mắt đen tuyền và tuyệt nhiên không nhìn thấy trong mắt đốm sáng phản chiếu, chỉ tuyền một màu đen lạ lùng và bí ẩn. Đôi mắt như mở ra một vùng không gian sâu thẳm và tịch mịch.

- «Anh biết em hay ra đây ngồi, anh quen em từ lâu lắm rồi, biết không?»

Hắn lại bật cười một lần nữa khi nghe kiểu làm quen cũ rích của Cái Bóng. Hình như trong cái thế giới gay này, con người ta thuộc lòng đến từng câu chào hỏi và làm quen. Không thể có một sự sáng tạo nào hơn sao? Và phải chăng Cái Bóng cũng chỉ là một thực thể vô vị và nhàm chán như những kẻ đằng kia? Lòng hắn bỗng kiêu hãnh khi nghĩ rằng:

- «Không một kẻ nào đáng để mình lưu tâm».

Nhưng Cái Bóng hình như đọc được suy nghĩ của hắn. Nhẹ đặt bàn tay lên tay hắn, Cái Bóng ôn tồn nói như thể đang tự nhủ với chính mình: - «Về nhà đi em. Có lẽ mẹ đang thức giấc và đi lên phòng em đó…»

Thực sự có một cái gì đó lạnh lạnh thúc hắn từ sau gáy. Chỉ là gió. Cơn gió khuya ngu ngốc xuất hiện thúc giục những bông sầu đông còn sót lại buông mình rơi lả tả. Thời gian như ngưng đọng trong mơ hồ. Bàn tay của Cái Bóng rất lạnh, trong khi bàn tay của hắn thì thật ấm. Trong một khoảnh khắc mà mọi thứ như bất động, chỉ có trái tim vẫn đang thúc lên những nhịp nhanh hơn hơi thở, hắn tự hỏi «Mình còn có thể bắt đầu được nữa không…?»

Hắn rụt tay lại và vụt đứng dậy, nhưng hai đầu gối không cho phép hắn bước đi quá xa. Hắn vòng nhanh qua gần cây sầu đông và chống tay vào nó. Tự nhiên hắn cảm thấy buồn nôn. Cái cảm giác mọi thứ trong ruột như đảo lộn cùng mớ suy nghĩ bòng bong làm hắn loạng choạng. Nó gần như một cơn đói khủng khiếp cào xé nhưng miệng thì ứa đầy nước chỉ muốn nôn thốc nôn tháo ra ngoài. Cái cảm giác làm hắn thực sự hoảng sợ. Cố tựa lưng vào thân cây sầu đông, hắn đảo mắt nhìn Cái Bóng đang ung dung mồi một điếu thuốc mới. Đóm lửa lập lòe phụt ra những tia khói xám ngoét ẻo lả bay phất phơ làm hắn càng thêm hoa mắt. Hắn trượt lưng trên cây sầu đông và rớt phịch thân xuống đất lúc nào không biết. Và chính hắn cũng không biết mình còn có cảm giác gì sau đó…

*             *

*

Hắn tỉnh lại khi ngôi sao mai đã chớm mọc phía đằng Đông. Nhưng trời vẫn còn nhá nhem tối. Nơi hắn nằm là một vệ cỏ khuất gió giữa hai gốc cây xà cừ cổ thụ. Như một phản xạ, hắn lia mắt nhìn quanh tìm kiếm cái xe của mình. May quá, nó vẫn còn nằm gần đó. Bỗng nhiên hắn muốn tìm Cái Bóng. Và hắn thở hắt ra khi thấy Cái Bóng đang ngồi ở đằng kia, vẫn phì phèo đóm lửa lập lòe phụt ra những tia khói xám. Hắn đinh ninh mình bị trúng gió. Mà thực là như thế rồi còn gì. Trong không khí vẫn còn loáng thoáng mùi dầu xanh mà ai đó đã xức cho hắn. Và cả cái chăn mỏng còn đắp trên người. Nhưng những thứ này chỉ càng làm hắn thêm nghi hoặc. Hắn tự hỏi không biết chuyện gì đã xảy ra khi hắn ngất xỉu?

- «Em đừng suy nghĩ nhiều quá. Em không thấy mình già đi nhiều vì suy nghĩ sao?»

Hắn giật thót mình. Rõ ràng là Cái Bóng có thể đọc được suy nghĩ của hắn. Nhưng điều đó làm hắn thêm bực bội. Hắn không cho phép ai xâm phạm đến những thứ chỉ thuộc về hắn. Riêng hắn.

- «Này cậu kia, cái chăn này ở đâu ra thế? Mà ai xức dầu cho tôi vậy?»

Cái Bóng vứt điếu thuốc còn đang hút dở xuống bãi cỏ. Đóm lửa vì thế lẩn khuất vào cỏ non, ánh lên một màu xanh le lét hấp hối trước khi bị Cái Bóng nghiền bẹp đi.

- «Tối mai em hãy hỏi gã má tóp xem thử gã kiếm cái chăn ở đâu ra. Và hỏi thêm gã tựa lưng gốc cây kia là gã đem dầu theo làm gì? Được chứ?»

Hắn thực sự cảm thấy có một cái gì đó khó hiểu, tựa hồ như Cái Bóng chỉ là nguời quan sát mọi chuyện và không nhúng tay vào bất cứ chuyện gì. Hắn mơ hồ cất lời khi chưa dứt dòng suy nghĩ:

- «Khi nãy đã xảy ra chuyện gì vậy?»

- «Em ngất xỉu vì trúng gió. Mấy người đang quấn lấy nhau ở đầu kia tới cứu em. Vậy thôi»

- «Khi đó cậu ở đâu?»

- «….»

Lần đầu tiên một câu hỏi đơn giản của hắn đã không đuợc Cái Bóng trả lời. Và tất nhiên điều đó chỉ càng làm cho Cái Bóng tăng thêm phần khó hiểu trong suy nghĩ của hắn. Chưa bao giờ hắn gặp một người kỳ lạ như thế. Và hơn bao giờ hết, hắn ước được gặp ngay gã má tóp, hay gã quen dự gốc cây cũng được. Để hỏi xem Cái Bóng đã làm gì khi hắn ngất xỉu? Hắn chồm dậy, dù đầu còn đau ê ẩm, giật phăng cái chăn đang quấn lấy mình và ném vào giỏ xe dựng gần đó. Một nỗi thất vọng từ đâu ùa đến làm hắn như không kìm được bản thân mình:

- «Đồ tồi! Tôi bị trúng gió mà cậu lại biến đi đâu hả? Đúng là chưa từng thấy!»

Cái Bóng nhìn hắn bằng một ánh mắt bình tĩnh đến lạ. Nhẹ nhàng chìa ra tấm card visit, Cái Bóng nói bằng một giọng hối lỗi:

- «Anh hứa sẽ trả lời nếu em đến nhà anh. Hoặc là anh đến nhà em. Được chứ?»

Hắn ngửa cổ lên trời cười khằng khặc. Chỉ có mỗi việc trả lời một câu hỏi vớ vẩn mà cũng trở thành một chiêu dụ dỗ. Hắn cảm thấy Cái Bóng thật kém cỏi trong lĩnh vực mồi chài. Nhưng mà tại sao lại không? Hắn cũng đang thực sự muốn biết điều gì đã xảy ra ở cái thời điểm quái đản đó.

Hắn cau mày mua cược:

- «Vậy ai sẽ tới nhà ai đây?»

- «Anh nghĩ em không tìm ra nhà anh đâu. Thôi em cho anh số nhà của em đi. Mà anh nghĩ đến nhà em thì tiện hơn, anh đỡ mang tiếng này nọ. Được chứ?»

Chà chà cũng biết chuyện quá nhỉ. Hắn liếc mắt xuống tấm card visit để xem dòng địa chỉ nhà… «27 Paster»… Tên con đường làm hắn ngờ ngợ. Hắn đã đi khắp cái thành phố này rồi, đã thuộc đến bét nhè hầu hết các tên đường rồi, nhưng «Paster» thì… Hình như nó là một con đường mới mở? Hay là một con đường quá nhỏ mà hắn chưa từng biết đến?

Cái Bóng lại như đọc được suy nghĩ của hắn, ngước nhìn lên và mỉm cười một nụ rất hiền lành:

- «Anh đến nhà em nhé, khỏi mắc công em đi tìm đường nhà anh. Nhưng anh có một điều kiện. Được chứ?»

- «Điều kiện gì nữa?» Cái Bóng làm hắn cảm thấy cơn bực bội như quay trở lại.

- «Anh biết em rất thích cây sầu đông. Anh cũng vậy. Em có thể trồng một cây sầu đông để làm dấu hiệu, coi như là kỷ niệm ngày quen nhau? Được chứ?»

Hắn lại ngửa cổ cười khằng khặc. Tại sao trên đời lại có một người kỳ lạ như vậy nhỉ? Nhưng hình như Cái Bóng càng nói, càng ra điều kiện, hắn càng cảm thấy mình nhất định phải tham dự vào cuộc chơi này. Có thể không? Một cuộc chơi cho một mở đầu tình yêu?

- «Nhưng em phải trồng đúng chỗ, anh mới chịu. Được chứ? Hãy đem cây sầu đông trồng cách cổng ra vào 2 mét về phía bên phải… và sâu 30 centimet… Anh sẽ đến và tìm đúng cây sầu đông đó. Không đúng là anh đi về à.» Cái Bóng trở nên nũng nịu sau khi đưa ra những điều kiện kỳ lạ mà hắn chưa kịp hiểu. Nhưng sự hào hứng làm hắn nhớ như in vào đầu những điều kiện đó.

Trời hừng sáng ở phía đằng đông. Nhưng những đám mây u xám vẫn cố nán lại làm cho không khí không kịp nhận những tia sáng yếu ớt từ mặt trời. Tiếng gà gáy te te trong những con hẻm sâu hun hút. Hắn ngáp dài mấy tiếng đầy uể oải, chắc một chốc nữa về đến nhà hắn sẽ phải ngủ đến chiều. May cho hắn là hôm nay không có giờ học. Toan dắt xe đi, hắn bị Cái Bóng gọi ngược lại:

- «Ơ, không cho anh địa chỉ nhà hả?»

- «Hì hì em buồn ngủ quá nên quên mất. Mà mấy giờ anh đến vậy?»

Tự nhiên hắn đớ cả lưỡi sau khi nhận ra mình đã chuyển xưng hô tự khi nào. Nhưng hắn không cảm thấy bối rối thêm nữa khi nhìn vào đôi mắt của Cái Bóng, giờ đây đang ánh lên vẻ già giặn hơn hắn tưởng...

*               *

*

Hắn lục tung cả bốn kệ sách chỉ để tìm cho ra cái bản đồ. Hắn muốn biết ngay đường Paster thực ra đang tọa lạc ở cái xó xỉnh nào. Mắt hắn cứ díp lại vì buồn ngủ, nhưng hai tay vẫn xục xạo tìm kiếm. Tìm mãi không thấy cái bản đồ nằm ở đâu, hắn nằm vật ra sàn và bắt đầu mơ màng nghĩ đến việc sẽ tìm cây sầu đông ở đâu để trồng. À phải rồi, nhà ông Bổng ở cuối đường có mảnh vườn hoang, thế nào cũng có cây sầu đông mọc ở đó…

Hắn tỉnh dậy khi trời vừa ngả bóng về đằng Tây. Giật mình nhìn đồng hồ. 3h chiều. Chỉ còn bốn tiếng nữa là đến giờ hẹn với Cái Bóng. Hắn vọt dậy lao vào nhà tắm, rửa mặt qua loa rồi phóng xuống tầng dưới. Nhìn bộ dạng hớn hở của hắn, mẹ hắn cứ đinh ninh hắn đang có hẹn với một cô nàng nào đó…

*             *

*

Nhà ông Bổng bỏ hoang gần hai chục năm nay, gia đình ông bay sang Mỹ định cư từ sau giải phóng. Hắn nghe mẹ kể cậu con trai của ông Bổng nhất định không chịu đi. Nhưng về sau vì một chuyện gì đó mà cậu ta cũng khăn gói bay qua Mỹ đoàn tụ với gia đình. Những chuyện của quá khứ hắn không thích quan tâm. Còn mẹ hắn thì vẫn thường ngồi tám chuyện với mấy bà hàng xóm, trong khi hắn lại rất ghét thói nhiều chuyện, nên cũng không mấy khi để ý.

Căn nhà hai tầng làm từ thời trước giải phóng vẫn còn giữ được vẻ sang trọng dù những bức tường đã bị hoen ố đi nhiều. Thời đó có được căn nhà như thế này chắc hẳn phải là một gia đình bề thế và có chức quyền. Bỗng nhiên hắn nhắp môi tiếc rẻ. Nhưng thời gian không cho phép hắn nghĩ ngợi lâu. Hơn nữa, hắn đã tìm thấy cái hắn cần kiếm.

Cây sầu đông con cao hơn ba mươi phân đứng trơ trọi cuối góc vườn. Khu vườn giờ đây chỉ toàn cây dại và bìm bìm leo. Hắn nhanh tay móc cái bay nhỏ dắt sau lưng và bứng cây sầu đông lên. Vừa lúc đó hắn trông thấy con rắn lục xanh lè nằm vắt vẻo trên dây bìm bìm, lưỡi lè lè trông chết khiếp. Hắn ba chân bốn cẳng chạy nhanh ra phía cổng thì sụt chân ngã một cách oạch. Có một cái hố cách cổng ra vào hai mét về phía bên phải mà hắn không để ý, hoặc do cỏ mọc ngập lối làm hắn không thấy. Hình như cái hố có từ sau khi người ta đốn một cái cây nào đó…

*             *

*

Hắn quay trở về nhà với cái chân cà nhắc. Nhưng điều đó cũng không quan trọng bằng việc đồng hồ đã chỉ sang 5h. Tức là chỉ còn 2 tiếng nữa Cái Bóng sẽ đếm tìm gặp hắn. Và hắn sẽ được biết câu chuyện xảy ra đêm hôm đó. Nhưng phải chăng chỉ có thế? Hắn không biết. Mơ hồ có một cái gì tươi mới hơn những cảm giác nhàm chán hắn từng trải qua mỗi đêm ở công viên cây xanh. Ừ, lâu rồi hắn đâu có hẹn hò với ai. Và lần hẹn hò này hắn tin sẽ thực sự thú vị. Hắn thò tay vào túi áo lấy ra xem lại cái card visit, «Nguyễn Hoàng Thiên - 27 Paster». Tên rất hay - hắn nghĩ, nhưng hắn chỉ thích gọi Thiên là Cái Bóng. Ừ, Cái Bóng bí ẩn và khó hiểu. Nhưng nhất định hắn sẽ hiểu. Gần như một cảm giác chinh phục mới đang nổi dậy làm hắn hít một hơi dài khoan khoái…

Hắn lôi cái xẻng meo mốc ở trong kho ra và hí hửng bưng gốc cây sầu đông còn dính nguyên đất rễ nhẹ nhàng đặt xuống bên cạnh hàng rào, miệng lẩm bẩm ước lượng «cách cổng ra vào hai mét về phía bên phải…»

*              *

*

Hắn giật bắn mình khi nghe tiếng sấm to như tiếng mìn phá núi. Đồng hồ lúc này đã chỉ 7h kém 20 phút. Nghĩa là một chút nữa thôi Cái Bóng sẽ đến. Hắn thực sự cảm thấy sợ hãi. Hắn bắt đầu xâu chuỗi những sự kiện. Nhưng những điều hắn biết vẫn còn quá mơ hồ. Nó không đủ sức phác nên một lời giải đáp hoàn chỉnh. Rõ ràng hắn rất cần thêm thông tin. Phải rồi. Hắn phải tìm mẹ. Mẹ là người biết nhiều chuyện…

- «Hai mươi năm trước… bên nhà ông Bổng có chuyện gì vậy mẹ?» Hắn bắt đầu trở nên thông minh trong cách đặt câu hỏi.

- «Ủa? Con quan tâm chi chuyện đó?» Mẹ hắn cũng trở nên tò mò khi thấy hắn có vẻ lấm lét.

- «Thì mẹ cứ nói đi» Hắn sốt ruột.

- «Chẳng có chuyện gì hết. Nhà mình mới ở đây gần hai chục năm chứ mấy. Nhưng mẹ nghe người ta kể con ông Bổng là pêđê. Nó yêu thằng nào đó không thành vì thằng nhỏ bị xe đụng chết. Chuyện cũng thê thảm lắm. Cuối cùng thằng con ông Bổng cũng phải chịu qua Mỹ đoàn tụ.»

Suýt chút nữa thì hắn khuỵu xuống vì hai đầu gối đang đánh vào nhau cầm cập. Nhưng sau một thoáng run rẩy, hắn hít một hơi thật sâu rồi cố lao ra nhà xe. Mặc cho trời mưa to và tiếng mẹ hắn quát tháo, hắn vẫn xách xe lao đi. Hắn muốn đi, đi đâu đó thật xa để tránh khỏi căn nhà này. Đồng hồ đang dần nhích qua thời khắc 7h đúng. Hắn phóng xe như bay vào màn mưa. Đúng rồi. Hắn phải đến công viên cây xanh. Hắn đoán chắc gã má hóp đang có mặt ở đó. Con quỷ đó vẫn thích trời mưa mà. Vì nó sẽ được trốn ở dưới một mái hiên ngồi chờ trai lạc vào rồi mồi chài. Hắn còn lạ gì. Nhất định hắn phải tìm ra gã. Để hỏi xem đêm đó đã xảy ra chuyện gì. Chuyện gì…

Tiếng chuông nhà thờ con gà đánh liền bảy tiếng báo hiệu giờ làm lễ buổi tối. Tiếng chuông làm hắn rùng mình, hắt xì liền mấy cái. Công viên cây xanh lúc trời mưa thật hoang vắng và u ám. Những kẻ thèm thuồng cũng chỉ thưa thớt lượn trên những chiếc xe bật đèn yếu ớt, trong những chiếc áo mưa kín mít mà trông xa, thật giống như những âm hồn thoát ra từ địa ngục. Hắn giảm ga đến mức tối thiểu có thể, cố căng mắt đánh vật với những hạt mưa đang quất vào mặt rát buốt. Hắn phải tìm cho ra con quỷ má hóp. Hắn phải hỏi cho ra lẽ…

Và rồi hắn cũng tìm thấy gã má hóp đang nằm vật vờ trong manh áo mưa còn ướt sũng nước. Hình như gã đang bị ốm. Hắn sờ tay vào trán gã và giật mình khi thấy nó nóng như lửa. Hắn cố vòng tay đỡ gã ngồi dậy, xoa xoa hai tay cho ấm rồi áp vào trán gã làm động tác đánh gió. Gã má hóp mắt nhắm mắt mở cứ rên hừ hừ không biết vì khoan khoái hay vì cơn sốt đang vật người. Khi thấy gã bắt đầu tỉnh tỉnh, hắn bỏ nhỏ: - «Ông nói tôi biết cái đêm tôi bị trúng gió đã xảy ra chuyện gì vậy?»

Gã má tóp trợn hai con mắt trắng dã lên như phải gió. Gã cố gắng thều thào như thể phải nói cho ra điều bí mật khó chịu bị giam giữ lâu ngày trong con người gã: - «Có cái chó gì mà kể. Mày là thằng điên. Mày là thằng điên nên đêm đó mày ngồi lảm nhảm một mình. Rồi mày hoa tay múa chân một mình. Rồi mày té lăn ra xỉu. Tụi tao ngồi trong xó cây theo dõi mày mà phải bụm miệng cười. Mày có bị tâm thần không hả Vỹ?»

Hắn thực sự thấy lạnh từ trong từng đoạn xương tủy. Đêm đó. Hắn ngồi một mình? Đêm đó. Hắn nói chuyện một mình? Đêm đó. Hắn hoa tay múa chân một mình? Ôi thế có điên không cơ chứ? Nhưng tại sao lại như thế? Hắn không hiểu. Thực sự không hiểu. Hắn hồ đồ mất rồi. Hắn phải về nhà ngay. Về nhà ngay để xem Cái Bóng có đến đúng như lời hẹn? Về nhà ngay để xem mình có phải bị tâm thần như gã má tóp đã nói???

Trời càng lúc càng mưa quay quắt. Chân hắn dù cố gìm vào hai thanh chống chân vẫn run lẩy bẩy như cầy sấy. Có thực sự hắn muốn trở về nhà không? Có thực sự hắn muốn gặp lại Cái Bóng hay không? Tại sao lại có chuyện quái gở đến thế? Rốt cuộc Cái Bóng kia là ai? Tại sao lại xuất hiện trong đời hắn? Sự nhàm tẻ của đời hắn được khuấy lên bằng cách như thế này sao? Hắn lột phăng cái mũ che mưa đang cố thắt chặt lấy đầu hắn. Những tế bào trong óc hắn đang chạy ngược chạy xuôi đâm xầm vào nhau, như muốn nổ tung ra cùng tiếng sấm xé toạc bầu trời đêm u xóa…

Hắn đã dừng xe trước cổng. Hắn bước từng bước lập cập và đưa mắt tìm cái vật ban chiều. Quái lạ. Tại sao nó lại biến mất như thể bị nước mưa cuốn trôi đi rồi? Không đúng. Nó phải nằm quanh đây. Nhất định nó phải nằm quanh đây. Phía đằng xa, chiếc dù đen đang nhảy tưng tưng trên đường. Hắn loạng choạng đi về phía cánh cổng. Và trong một tích tắc của ánh chớp, hắn nhìn thấy Cái Bóng đang ngồi vắt vẻo bên cửa sổ tầng hai. Trong căn phòng của hắn. Vẫn là đôi mắt đen tuyền đó. Vẫn là đôi chân mày đậm nét đó. Vẫn là nụ cười đó. Vẫn là đóm thuốc đỏ lập lòe ma quái đó. Hắn trợn ngược hai tròng mắt. Miệng thều thào bọt mép. Trong kia hàng rào, cây sầu đông đang ngoi lên đầy kiêu hãnh. Nó đang dần lộ ra hoàn toàn dưới cái hố sâu ba mươi centimet và cách cổng ra vào hai mét về phía bên phải. Hắn quỳ phục xuống bên bờ tường. Và khi ánh chớp bắn nhanh qua bầu trời đêm một lần nữa, hắn như không tin nổi đôi mắt mình. Trong tiếng sấm đến liền sau đó, hắn rú lên như bị ma ám khi nhìn thấy trên cổng tường ra vào là cái vật ban chiều…Trên đó viết: 27  PASTER

 

ĐẠO SĨ NÚI LAO

(Tác giả: Bồ Tùng Linh)

 

Trong huyện có chàng họ Vương, vào hàng thứ bảy, là con nhà cố gia, tuổi trẻ mộ đạo.

Nghe nói núi Lao Sơn có nhiều tiên ở, liền quẩy tráp đi thăm.

Trèo lên một ngọn núi thấy có đạo quán thật u nhã. Một vị đạo sĩ ngồi trên tấm bồ đoàn (chiếc chiếu đan bằng cỏ bồ, hình tròn, để người đi tu hành quỳ hoặc ngồi cho êm, mỗi khi hành lễ) tóc trắng rủ xuống tận cổ, nhưng dáng vẻ thư thái, tinh thần trông thật sắc sảo.
Vương liền khấu đầu, bắt chuyện, thấy đạo lý rất huyền diệu, bèn xin thờ làm thấy.

Ðạo Sĩ nói: - Chỉ sợ quen nhàn rỗi, không chịu nổi khó nhọc thôi.

Vương hứa là: "Ðược"

Học trò Ðạo Sĩ đông lắm, gần tối mới kéo hết về.

Vương cùng họ cúi đầu làm lễ, rồi lưu lại trong quán.

Sáng tinh sương, Ðạo Sĩ gọi Vương, đưa cho cái búa, bảo theo đám học trò đi hái củi.

Vương kính cẩn vâng lời.

Ðược hơn một tháng, tay chân phồng rộp thành chai, cực khổ không chịu nổi, Vương đã ngầm có bụng muốn về.

Một buổi chiều, trở về, thấy hai người khách đang cùng thầy uống rượu.

Trời đã tối mà chưa thấy đèn lửa gì cả.

Thầy bèn cắt một miếng giấy như hình cái gương, dán lên vách.

Phút chốc, ánh trăng vằng vặc soi sáng khắp nhà, trông rõ từng sợi tơ, cái tóc.

Ðám học trò chạy quanh hầu hạ.

Một người khách nói: - Ðêm này đẹp trời có thể vui chi, nên cho ai nấy cùng vui.

Bèn lấy hồ rượu lên bàn, chia cho các học trò, lại dặn nên uống thật say.

Vương nghĩ bụng: Bảy tám người một hồ rượu, làm sao cho đủ khắp được?

Mỗi người đều đi tìm chén, bát , tranh nhau rồi uống trước, chỉ sợ rượu trong hồ hết mất. Thế mà rót hết lần này lượt khác, vẫn chẳng vơi đi chút nào. Bụng thầm lấy làm lạ.

Giây lát, một vị khách nói: - Ðã làm ơn ban cho ánh sáng trăng, mà lại chỉ tịch mịch uống suông. Sao không gọi Hằng Nga xuống chơi?

Ðạo sĩ bèn lấy một chiếc đũa, vứt vào trong trăng.

Bỗng thấy một người đẹp từ trong vùng ánh sáng bước ra: mới đầu chưa đầy một thước, xuống đến đất thì cao lớn như người thường, lưng thon nhỏ, cổ trắng muốt, phấp phới múa khúc Nghê thường.

Rồi ca rằng:

Tiên tiên nào!

Về đây nao!

Giữ ta mãi chốn Quảng Hàn sao!

Âm thanh trong trẻo, cao vút, nghe hay như tiếng tiêu, tiếng sáo. Ca xong, uốn lượn mà đứng lên, rồi nhảy lên mặt bàn, ngoảnh đi ngoảnh lại, đã biến trở lại thành chiếc đũa.

Ba người cùng cười lớn.

Lại một vị khách nói: - Ðêm nay vui quá, nhưng uống vẫn chưa đã. Có thể đãi rượu tiếp chúng tôi trên cung nguyệt được chăng?

Ba người bàn rời chiếu tiệc bước vào dần trong trăng. Mọi người nhìn thấy rõ cả ba đang ngồi trong trăng uống rượu: râu, lông mày, đều trông thấy hết, như bóng hiện trong gương.

Một chốc, ánh trăng mờ dần; đám học trò châm đèn mang đến thì một mình Ðạo Sĩ còn ngồi đấy mà khách đã biến đâu mất.

Trên bàn thức nhắm hãy còn. Mà mặt trăng trên vách chỉ còn là miếng giấy tròn như tấm gương mà thôi. Ðạo Sĩ hỏi: - Mọi người đã uống đủ cả chưa?

Các học trò cùng thưa: 

- Ðủ cả.

- Ðủ rồi thì nên đi ngủ sớm, đừng làm lỡ việc kiếm củi ngày mai.

Chúng học trò đều "vâng" mà lui ra. Vương lòng thầm thích thú, hâm mộ, bụng muốn về lại tiêu tan.

Lại một tháng nữa, khổ không thể nào kham nổi, mà Ðạo Sĩ tuyệt không truyền dạy cho một phép nào.

Sốt ruột không chờ được nữa, Vương bèn lên cáo từ rằng: - Ðệ tử này vượt mấy trăm dặm đường đến đây thụ nghiệp với thầy; dẫu chẳng học được cái thuật trường sinh bất tử, thì cũng mong thầy cho chút gì gọi là h tấm lòng cầu học. Thế mà qua hai ba tháng, chỉ những sáng đi kiếm củi, tối lại trở về. Hồi còn ở nhà, đệ tử chưa bao giờ phi chịu khổ như thế.

Ðạo Sĩ cười bảo: - Ta vẫn nói là anh không kham nổi khó nhọc, nay đã quả nhiên. Sáng mai, sẽ cho anh về.

Vương nói: - Ðệ tử làm lụng đã bao ngày, xin thầy dạy qua cho một thuật mọn, khỏi phụ công lao đệ tử lặn tới tới đây.

Ðạo Sĩ hỏi:  - Muốn học thuật gì?

Vương đáp: - Thường thấy thầy đi đâu, tường vách không ngăn được. Chỉ xin một phép cũng đủ.

Ðạo Sĩ cười nhận lời. Bèn đem một bí quyết truyền cho, bảo miệng đọc mấy câu thần chú xong rồi hô: "Vào đi!" Vương đối diện với một bức tường mà không dám vào.

Ðạo sĩ lại nói:

- Cứ vào thử đi! Vương theo lời, thong thả tiến lại, đến tường thì bị vấp.

Ðạo Sĩ bảo: - Cúi đầu, vào cho nhanh, đừng lần chần! Vương quả quyết, đứng cách tường mấy bước, lao nhanh tới. Gặp tường, cảm thấy trống không có vật gì cả.

Quay lại thì đã thấy mình ở bên kia tường rồi. Vương mừng quá, vào lạy tạ.

Ðạo Sĩ bảo:

- Về nhà nên giữ mình đứng đắn, không thế thì phép không nghiệm nữa đâu.

Nói rồi cấp lộ phí cho mà về.

Ðến nhà, chàng khoe đã gặp tiên, tường vách dày đắn đâu cũng không ngăn được mình.

Vợ không tin.

Vương làm đúng như lời đạo sĩ đã dạy, đứng cách tường mấy bước, chạy ù vào. Ðầu đụng phải tường cứng, bỗng ngã lăn đùng.

Vợ Vương đỡ dậy, nhìn xem, thấy trán đã sưng lên như một quả trứng lớn.

Vợ Vương đưa ngón tay lêu lêu, diễu cho.

Vương vừa thẹn vừa ức, chỉ biết chửi lão Ðạo Sĩ bất lương mà thôi.

 

TRẢ THÙ CHO CHA

(Tác giả: Bồ Tùng Linh)

 

Ở đất Sở có ông họ Mỗ làm nghề buôn bán tạp hoá ngoài chợ xa. Về đêm ông thường để vợ nhỏ ngủ một mình ở nhà.

Vợ nhỏ đêm nằm mộng thấy có đàn ông lạ nằm cạnh mình, nàng hốt hoảng bật dậy, đưa tay sờ thì đụng phải một gã đàn ông nhỏ con, sờ xuống hạ bộ lại thấy có đuôi lông. Nàng biết ngay là loài hồ ly biến thành, nhưng vì sợ quá không dám kêu. Một lát sau, gã tụt xuống giường đi mất, không cần phải mở cửa.

Vợ nhỏ sợ, mỗi khi đêm đến thì nàng gọi vú già vào ngủ chung và gọi luôn đứa con trai hơn mười tuổi tới ngủ cho đông. Trước đây đứa trẻ thường ngủ riêng.

Đêm khuya, vú già và con trai say ngủ thì hồ ly lại đến, người vợ nhỏ lảm nhảm vài tiếng trong miệng như người đang mê sảng. Vú già tỉnh dậy kêu to, hồ ly biến mất ngay lập tức.

Từ dạo đó, vợ nhỏ bị bệnh mất trí, lúc nào cũng mê mê thảng thốt. Đêm đến nàng không dám tắt đèn, cứ để sáng mà ngủ, lại dặn con trai không được ngủ say.

Khuya ấy, con trai và vú già phải ngồi dựa tường mà chợp mắt, không dám nằm sợ thiếp ngủ đi mất. Nửa đêm chợt tỉnh, đứa con không thấy mẹ đâu, đinh ninh mẹ ra ngoài tiểu tiện nhưng đợi mãi không thấy vào, cậu vội vàng đi tìm, vú già sợ không dám đi cứ ở miết trong phòng.

Một mình thằng con thắp đèn đi soi khắp nhà. Nó bước vào một phòng bỏ trống từ lâu, căn phòng dùng để chứa đồ phế thải. Nó chợt nhìn thấy mẹ nằm vật trong đó, trên thân không có mảnh vải. Thằng con đỡ mẹ dậy, bỗng thấy mẹ như biến đổi hẳn, không biết thẹn thùng là gì mà còn nói cười ca hát như người điên. Và từ đó người mẹ mất trí thật, cứ hát ca rồi chửi bới đủ kiểu, đến đêm lại đuổi hết người nhà ra, không cho ai ngủ chung phòng nữa.

Đứa con tuy bị đuổi ra ngủ phòng riêng nhưng vẫn quan tâm đến mẹ, mỗi đêm nghe tiếng động lạ trong phòng mẹ nó liền trở dậy rình xem. Người mẹ thấy thế không bằng lòng, nhiều lúc mắng chửi không cho con xen vào chuyện của mình. Thằng bé vẫn không giận vì biết mẹ mình bị hồ ly cám dỗ, nó bèn nghĩ ra một cách xây bít tất cả các cửa sổ lại để không có lối cho chồn vào nhà, bao nhiêu kẽ hở trên vách đều được nó lấy bùn đất tô trét rất kỹ, nhìn chung không còn lối ra vào nào ngoài cửa chính.

Đêm nọ, nghe trong phòng mẹ có tiếng thì thầm, nó choàng dậy, cầm một con dao rình ngay cửa phòng rồi ập vào.

Thoáng thấy cái bóng vọt ra cửa nó chém liền một nhát, làm đứt một đoạn đuôi của con chồn khiến máu tuôn lênh láng.

Sáng hôm sau, thằng bé cứ lần theo vết máu ấy mà tìm, cuối cùng nó thấy vết máu dẫn đến khu vườn rậm của nhà họ Hà. Đêm sau, không thấy hồ ly bén mảng tới nên thằng con có vẻ mừng, nhưng người mẹ lại nằm li bì như ngã bệnh.

Một hôm người lái buôn họ Mỗ về thăm vợ nhỏ, đến bên giường vợ hỏi thăm thì vợ chồm dậy chửi tục và đay nghiến tàn nhẫn. Đứa con đem chuyện hồ ly kể với cha. Mỗ hoảng sợ vội vàng mời thầy thuốc đến xem mạch, bốc thuốc nhưng người vợ cứ nhổ thuốc ra không chịu uống, mà lại chửi bới càng dữ hơn. Mỗ phải lén pha thuốc vào trong nước uống mới lừa được vợ, độ mười ngày sau, cơn bệnh điên cuồng có phần thuyên giảm nên cả nhà tỏ ra mừng rỡ.

Giữa đêm nọ, Mỗ thức giấc, mơ màng đưa tay sờ sang bên nhưng không thấy vợ, ông giật mình gọi con dậy, cả hai đi tìm thì thấy người đàn bà bị nhốt trong nhà kho, không một mảnh vải che thân. Từ đó, người đàn bà lại trở bệnh cuồng trầm trọng hơn, la hét và chửi bới dữ dội, nhất quyết không chịu ngủ cùng chồng nữa.

Mỗ sợ quá, ra lệnh khi đêm đến thì phải đóng cửa nhà ngủ sớm, không được ra vào, nhưng chẳng hiểu sao hàng đêm người vợ vẫn bị bắt đến nhà kho. Túng thế, Mỗ phải cầu cứu đến thầy bùa mà vẫn không thấy hiệu quả gì. Đứa con tức lắm, vào buổi chiều nó lẻn vào vườn nhà họ Hà, rình xem bọn hồ ly làm sào huyệt ở đâu.

Đêm ấy thượng tuần trăng mờ, núp trong bụi rậm một lát, đột nhiên nó nghe có tiếng người thì thầm nên khẽ vén cành cây quan sát. Có hai người đang ngồi thù tạc rược chè, kế bên là một người râu dài cầm cái hũ như đứng hầu rượu, họ nói năng nho nhỏ mà lại dùng nhiều tiếng lóng nên rất khó nghe. Một lát có người nói:

 - Ngày mai ta có thể lấy bình bạch tửu rồi đó.

Tàn tiệc rượu, hai người trẻ chia tay đi mất chỉ còn người có râu ở lại. Hắn cởi áo trải ra đất rồi nằm xuống nghỉ ngơi. Thằng bé quan sát kỹ thì thấy hắn chẳng khác gì người thật, nhưng có một điểm duy nhất là cái đuôi chồn ló ra phía sau vạt áo. Đứa trẻ đoán chắc là bọn hồ ly này đã hại mẹ mình nên lẳng lặng ra về. Người cha hỏi: - Con đi đâu cả đêm vậy?

Thằng bé đáp: - Dạ con ngủ bên nhà bác Hà. Nói xong nó thưa tiếp: Hôm nay muốn theo cha ra chợ.

Người cha đồng ý, dẫn thằng bé cùng ra chợ. Đi qua hàng bán mũ, nó xin mua một cái mũ có đuôi giống đuôi chồn. Rồi nhân lúc cha không để ý, nó ăn trộm ít tiền qua hàng rượu mua một bình bạch tửu. Xong xuôi nó giấu vào lưng áo. Khi về nó vội chạy sang nhà ông cậu làm nghề săn bắn trong rừng. Ông cậu hỏi:

- Bệnh tình mẹ mày dạo này ra sao?

Nó đáp:

- Dạ, mẹ con tạm bớt, nhưng khổ vì nhà nhiều chuột quá. Chúng kêu rúc suốt đêm nên không ngủ được. Xin cậu ít thuốc độc về đánh bả chuột.

Cậu lấy thuốc độc cho cháu, loại thuốc mà ông thường dùng để tẩm tên săn bắn, thằng bé thấy ít thuốc quá nhưng không nói gì. Nhân biết chỗ cậu cất thuốc nên nó trộm thêm một mớ đem về. Nó đổ tất cả thuốc độc vào bình bạch tửu.

Từ hôm đó, ngày nào thằng bé cũng quanh quẩn xung quanh chợ.

Ngày nọ nó chợt thấy người có râu trong vườn nhà họ Hà đang đi lẫn trong đám đông. Nó bám theo kiếm chuyện hỏi han và giả vờ reo lên: - A, lại gặp nhà bác, hôm nay thật may, con có sẵn rượu đây chúng ta cùng thù tạc nhé?

Người có râu kinh ngạc: - Ủa, mình đã gặp nhau ở đâu thế?

Nó đáp: - Tôi họ Hồ đã từng ghé vườn bác Hà chơi và gặp bác với hai người trẻ nữa, bác quên rồi sao?

Người ấy liếc qua lại, tỏ ý nghi ngờ.

Thằng bé giả vờ hé vạt áo để lòi ra cái đuôi giả ra rồi hạ giọng: - Bọn mình phải khéo mới được, dù rất giống mọi người nhưng vẫn còn cái này không sao mất đi được.

Ông già hỏi: - Mày làm gì trong chợ?

Thằng bé đáp: - Cha tôi sai đi mua rượu.

Rồi nó hỏi lại: - Bác định đi đâu?

Lão già ngập ngừng: - Cũng đi mua rượu, nhưng mà...

Thằng bé lém lỉnh hỏi: - Bác chưa có tiền để mua phải không?

Ông già bẽn lẽn: - Ồ chưa, bọn tôi nghèo nên lúc nào thèm rượu thì lẻn vào chợ ăn trộm.

Đứa bé nói: - Vậy thì nguy hiểm lắm, lỡ mà bị bắt thì sao?

Nó hỏi tiếp: - Chủ nhân của bác là ai vậy?

Ông già đáp: - Chính là hai người trẻ mà mày đã gặp. Nói xong lão lẻo mép kể luôn: - Một người đang ăn nằm lén lút với vợ họ Quách ở thôn Bắc, còn một người tối nào cũng mò đến chim chuột với vợ họ Mỗ gần đây. Họ Mỗ có thằng con đáng gờm lắm, hôm nọ tiểu chủ tao bị chặt đứt đuôi phải nằm mười ngày mới khoẻ. Bây giờ lại đến nữa rồi...

Chợt ông già hạ giọng thì thầm:

- Mầy kín miệng nhé, tao phải đi ăn trộm đây.

Đứa bé níu lại: - Trộm như thế nguy hiểm lắm. Chi bằng đã quen biết nhau bác cứ lấy bình rượu của con đây, con xin tặng bác vì còn tiền để mua bình khác.

Người ấy chần chừ e ngại chuyện mang ơn, nó nói khéo: - Ơn nghĩa gì chuyện vặt, một ngày nào đấy con sẽ sang bác uống một bữa là xong. Vả lại, chúng ta cùng một loài, bác câu nệ làm gì...

Ông già nghe lọt tai, bèn nhận bình rượu.

Thằng bé về nhà. Đêm ấy nó ngủ cạnh cha và không nghe trong phòng mẹ có động tĩnh gì.

Sáng hôm sau thấy mẹ vẫn ngủ yên lành, nó biết là công hiệu rồi, liền rủ cha đi xem xét quanh nhà.

Đến gần cổng ra vào, họ thấy chỗ bụi cỏ có xác hai con hồ ly nằm chết co, một con miệng nồng nặc hơi rượu và bên cạnh lăn lóc bình bạch tửu. Cầm bình lên lắc, thằng bé thấy rượu gần cạn hết.

Người cha gạn hỏi, nó đành kể thật. Ông trách sao không cho biết trước, nó bảo:

- Giống hồ ly rất linh, động tịnh một chút là chúng biết liền, làm sao mà thành công được?

Cha khen: - Thằng con ta mưu kế quả như thần!

Hai cha con bèn khiêng xác hồ ly đi chôn, họ nhận thấy có một con bị cụt đuôi.

Từ đó người cha yêu quý con mình lắm, cho nó đi học đàng hoàng, về sau thằng bé làm đến chức tổng nhung.

 

NGĂN TỦ SỐ 14

(Tác giả: Không rõ)

 

Làm người trực đêm ở nhà xác thành phố thì cũng chẳng có gì đáng khoe, nhưng công việc này cho phép tôi vẫn đi học đầy đủ vào ban ngày và cũng có thể nghiên cứu thêm vào ban đêm bên cạnh những nhiệm vụ phải làm vốn không nặng nề gì.

Trong các ngăn kéo được đánh số và gắn thẻ, các xác chết trong đó sẽ chẳng bao giờ quấy rầy tôi trong khi tôi đang nặn óc đánh vật với các vấn đề tích phân. Tôi vẫn nghĩ thế.

Tối hôm đó, tôi tới đổi phiên cho Olaf Daly như thường lệ. Olaf là một lão già chết cứng với cái nghề này vì đã lớn tuổi và vì cái chân thọt, nên cả ngày lão chỉ mong cho tới lúc đổi phiên. Như mọi khi, lão ầm ừ một câu chào rồi tạm biệt cùng một lượt. Với cái chân thọt mà lão đi ra khỏi nhà xác coi bộ nhanh nhẹn ác!

Còn lại một mình trong gian phòng phía ngoài vắng lặng, tôi đặt bình thủy, chiếc radio và mấy cuốn sách lên bàn, rồi tôi lôi cuốn sổ trực to tổ bố lại gần xem qua một lượt.

Olaf đã ghi chép việc xuất nhập hàng ngày bằng nét chữ khẳng khiu của lão. Một ông chết đuối. Hai ông bà chết vì đụng xe. Một gã ngủ say tới bỏ mạng khi nhà bốc cháy. Một chú đánh lộn bị đâm chết. Một phụ nữ bỏ xác trôi sông.

Công việc mỗi ngày của Olaf rất đều đặn. Cả tuần qua chẳng có gì đặc biệt đáng chú ý. Ngoại trừ cái con mụ tuần qua nằm ở ngăn số 14.

Con mụ ấy nghe đồn là phù thủy, mụ xưng là Phù thủy Endor đệ tứ, nhiều người tin mụ gớm. Vì mụ sống ở một khu nghèo nàn và thất học, kiếm ăn bằng nghề coi bói, lên đồng, đoán số đề, bán bùa ngãi... nhưng dân láng giềng nói bà ta chưa làm gì bậy. Một đêm trời nóng nực, mụ leo lên mái nhà khu chung cư. Không hiểu do mụ ta trượt chân hay vì muốn bay lên mặt trăng nhưng thất bại, mà người ta thấy mụ nằm phơi xác trên mặt đường nhựa trước khu chung cư sáu tầng lầu đó, rồi được mang tới đây, đặt trong ngăn số 14. Mụ nằm trong ngăn đông lạnh đó bốn ngày thì có đứa con ở tận đâu đâu đó tới nhận xác. Với Olaf thì mụ ấy chưa hoàn toàn đi khỏi đây, lão già nói:

- Tao thề là có cái mùi gì ở ngăn số 14 đó, giống như mùi lưu huỳnh.

Tôi có thấy cái gì đâu. Mũi tôi còn đầy nghẹt mùi của phòng thí nghiệm nơi tôi đã phải trầy trật để theo kịp chúng bạn.

Tôi dẹp cuốn sổ để đi tuần một vòng. Căn phòng kế cạnh thắp đèn sáng choang, nhưng lạnh tanh, thênh thang và không sinh khí. Nền phòng sạch bông, thoang thoảng mùi thuốc sát trùng. Ðằng kia là cánh cửa lớn mở ra lối cho xe chở xác chạy vào, cạnh đó là cái bàn đá có chân bánh xe, mặt bàn dài thượt. May mắn mà lúc này nó trống, được lau chùi sạch sẽ chờ lúc được sử dụng tới. Cái máy lạnh phát ra tiếng rù rì trầm trầm, chú ý mới nghe thấy. Ở mé tay phải, giống như một tổ ong khổng lồ, là hàng hàng lớp lớp những ngăn kéo để chứa các xác chết trong khi chờ thân nhân đến nhận, hay sau cùng thì nhà nước bỏ tiền ra chôn làm phước.

Ngăn kéo nào có xác đều được gắn thẻ, như thẻ hành lý trong kho trên máy bay hay tàu thủy. Thẻ được móc vào tay cầm của ngăn kéo.

Tôi huýt sáo nho nhỏ, chỉ vì muốn tạo một âm thanh gì đó thôi, và bắt đầu kiểm tra những thẻ theo danh sách trong sổ mà tôi vừa xem qua và nhớ được. Tới gần ngăn số 14, tôi chợt khịt mũi "A! cái mùi lưu huỳnh của lão Olaf đây!", tôi lẩm bẩm.

Ði qua ngăn kéo ấy một bước thì tôi giật mình, ngoảnh đầu, rồi xoay cả người lại.

Olaf đâu có ghi xác nào trong ngăn 14, nhưng mà có thẻ gắn ở ngăn này. Tôi cúi người tới, đưa tay ra, huýr sáo không thành tiếng nữa. Tôi cầm tấm thẻ lật qua lật lại. Một lần, hai lần, rồi ba lần càng lúc càng nhanh. Ðứng thẳng dậy, tôi gãi đầu một phát. Cả hai mặt thẻ đều trống trơn, chẳng ghi gì cả. Cha nội Olaf tuy già, nhưng đâu đến nỗi lẩm cẩm. Quên ghi tên người vào thẻ, lão chưa từng có vụ này bao giờ.

Rồi tôi nhếch mép cười. Lão già này muốn đùa đây, tôi đâu dè lão cũng khoái giỡn như thế. Tôi lại huýt sáo được thành tiếng, nghe có vẻ tỉnh táo lắm, nhưng không có gì hay ho.

Tôi nắm lấy tay cầm và kéo mạnh. Ngăn kéo vốn có bánh xe nên tuột ra cái rẹt. Tiếng huýt sáo của tôi chợt tắt ngúm. Một con nhỏ đang nằm trong đó! Tóc vàng, coi trẻ măng, và đẹp nữa, mặc dù đã chết.

Tôi đứng nhìn cô ta mà nghe mấy ngón chân ngọ ngoạy trong đôi giày. Nét mặt cô thật dễ thương, làn da mịn màng như lụa. Ðôi mắt khép nhẹ như đang ngủ, bờ mi cong và dài, đen mướt. Cô mặc bộ đồng phục y tá. Món duy nhất cho tôi biết lai lịch chút ít của cô là tấm lắc dây chuyền ở cổ tay. Trên tấm lắc có khắc hai mẫu tự: Z.L.

Tôi vội vàng quay đi, chạy ra phòng ngoài. Vồ lấy cuốn sổ trực, tôi lật vội ra xem. Tôi không muốn nghi oan lão Olaf.

Tôi rà một lượt, ngớ người ra, rà lại lần nữa. Lật trang trước coi phần ghi chép hôm qua, và cả hôm kia nữa. Tuyệt nhiên không có ai được đưa vào ngăn 14 cả.
Tôi chu mỏ, nhưng huýt sáo không nổi, và bước tới cửa vào phòng lạnh. Mé trên cửa có hai khung kiếng nên tôi có thể nhìn vào trong mà không cần mở cưả. Ngăn kéo 14 bị lôi kéo ra vẫn còn nguyên ở đó, và cô Z.L. tóc vàng vẫn nằm chầng vầng một đống như cũ.

Tôi cẩn thận ngồi xuống ghế, rút khăn tay ra và lau trán. Hít một hơi dài, tôi nhấc phôn lên quay số của Olaf. Khi nghe tiếng chuông, tôi còn liếc lại cửa phòng lạnh. Giọng mụ vợ Olaf nghe ngái ngủ:

- Ồ, rất tiếc. Ông Olaf nhà tôi chưa về. - Rồi chợt giọng bà ta nghe tử tế hơn - Chờ chút, tôi nghe tiếng ông ấy mở cửa.

Giọng Olaf vang lên sau tiếng đằng hắng:

- Rồi, chuyện gì?

- Tully Branson đây, bác Daly.

- Không có cái vụ trực thế cho mày đi nhậu với bạn đâu à nghen!

- Không có đâu - tôi đáp - cháu chỉ muốn biết về cái cô trong ngăn 14.

- Không có ai trong ngăn 14 hết, Tully.

- Có mà, thưa bác. Một cô tóc vàng đàng hoàng. Trẻ và đẹp, chết uổng hết sức. Chắc bác nhớ ra hén, có điều bác quên ghi sổ nhập cho cô ấỵ

Tôi nghe tiếng bà Daly hỏi chồng chuyện gì đó, rồi nghe ông ta nói với vợ:

- Chắc cái thằng Branson này đêm nay nó mang rượu vô đó uống quá!

- Không có, bác ơi - tôi cự liền - Cháu khoái nhậu, nhưng không có mang rượu vô đây à nghen! Chỉ có chuyện cô tóc vàng ở ngăn 14 bác quên ghi sổ thôi!

- Ðời nào tao lại quên chuyện đó được?

- Có mà. Không tin bác ghé đây coi đi.

- Tao sẽ tới, con ạ! Sai sót này lớn lắm chứ phải là chơi đâu.

Lão giập ống nói xuống thiếu điều làm tôi thủng cả màng nhĩ. Còn tôi thì nhẹ nhàng đặt ống nói xuống, lấy bình thủy rót một ít cà phê ra, đốt một điếu thuốc, nhấp một ít cà phê, châm một điếu thuốc.

Nhấp miếng cà phê nữa, cất bình thủy vào chỗ của nó, thò tay lấy gói thuốc, lúc đó tôi mới nhìn thấy mình đã châm hai điếu bỏ trên gạt tàn. Tôi mếu miệng cười, duị tắt một điếu để dành đêm khuya.

Với bước chân khập khiễng, lão Olaf bước vào cứ như một con tàu đi trong giông bão. Ðáp lại ánh mắt trợn trừng của lão, tôi chỉ mỉm cười với tất cả sự chắc ăn mình có được, và mời lão vào phòng xác.

Lão đi qua cánh cửa, tôi theo sát nút. Ngăn 14 vẫn còn kéo lòi ra ngoài ở đó. Lão chẳng cần đi tới nơi.

Nhìn một cái, lão quay lại liền:

- Branson - lão nói - tao mà còn trẻ là đập bể mặt mày liền. Mày bắt một người già mệt nhọc nửa đêm tới một nơi hôi thối như thế này đó hả? Vậy mà lâu nay tao cứ nghĩ mày là thằng nhóc tử tế đó!

- Nhưng bác Daly...

- Không có "nhưng" con mẹ gì cả! Cái vụ này tao sẽ báo cáo!

Tôi trợn mắt nhìn ngăn 14 như thằng khùng. Cô ta vẫn còn đó, thù lù một đống. Tóc vàng, xinh đẹp và chết cứng.

Olaf xô tôi qua một bên và bước đi. Tôi níu lấy tay lão. Tôi đúng là còn nhỏ tuổi, nhưng cũng đã mọc râu rồi.

Tôi kêu lên:

- Bác Olaf. Bác thấy mà. Cháu biết bác thấy mà!

- Bỏ cái tay ra nghe chưa! - lão quát - Tao thấy rõ ràng là cái ngăn kéo trống trơn, y hệt cái đầu óc của mày vậy.

Tôi cứ níu tay lão, không cho đi:

- Cháu không có chịu giỡn kiểu này đâu...

- Thì tao cũng vậy - lão quát vào mặt tôi - Giỡn gì cà chớn!

- Thì bác coi kỹ cái ngăn đi, đừng giỡn nữa mà.

- Thì tao đã coi rồi. Không có gì hết ngoài một thằng nhóc láo lếu dám bày trò thối tha là bắt một người già phải nửa đêm tới đây!

Lão giật tay ra và bước nhanh ra ngoài. Ðến cửa, lão quay lại, dứ dứ ngón tay về phía tôi:

- Nè nhóc, tốt nhất là từ mai, mày lo kiếm việc làm khác đi! - và lão dông thẳng.

Tôi bước theo tới phòng ngoài rồi quay lại. Nhìn qua khung kính vào phòng xác, tôi lại rên lên khốn khổ. Cô nàng Z.L. vẫn nằm chình ình trong ngăn kéo 14.

- Ðàng hoàng coi! - tôi lầm thầm với cô ta - Tôi nhắm mắt rồi mở ra là cô phải biến mất à nghen!

Tôi nhắm mắt, rồi mở ra. Vẫn y nguyên!

Tôi bước tới bàn rồi sụm xuống, nhưng cũng chẳng được lâu. Có tiếng chuông kêu ở cửa nhận xác, tôi vội vàng chạy qua phòng xác ra cửa.

Smith và Macklin mở toang cửa xe chở xác, lôi một băng ca đặt một ông già ăn mặc tả tơi ra và đem vào đặt trên bàn đá.

- Thằng chả lao ngay vào đầu xe tải. - Smith nói.

- Không giấy tờ gì hết - Macklin tiếp - cứ ghi là John Doe.

- Tèm lem quá hả, Branson? - Smith nói trong khi tôi phủ tấm khăn lên xác chết, Smith rất khoái chọc tôi vì biết tôi yếu bao tử.

- Phải à, - tôi liếm môi - còn đỡ hơn con nhỏ kia.

- Nhỏ nào?

- Thì con nhỏ trong ngăn 14 chớ đâu?

Smith và Macklin nhìn lại ngăn kéo 14 nằm sau lưng tôi rồi hai ông nhìn nhau.

- Tully - Macklin nói - Thằng quỷ! Hôm nay có bệnh không đó?

- Bệnh gì đâu? - tôi nghe mồ hôi trên trán muốn đóng băng lại.

- Có mất ngủ hông? Có gặp ác mộng hông?

- Ðâu có. - tôi đáp - Nhưng con nhỏ tóc vàng ở ngăn 14 ... Nếu không phải mấy ông đưa tới thì chắc hai cha Collins với Snavely làm ca ban ngày có thể cho tôi biết rõ hơn.

Cả hai ông như dội ra, rồi Smith bật cười phá tan sự im lặng:

- Người đẹp tóc vàng ngăn 14, ngăn của con mẹ phù thủy bữa trước ... Hay lắm, Branson ... Tao hiểu rồi! Macklin ngơ ngác nhìn bạn:

- Tức là sao?

- Tức là - Smith đã ngớt cười - thằng quỷ Tully này ở đây một mình buồn quá nên bày chuyện xí gạt mình chơi đó mà, phải không, Tully?

Vậy là hai cha nội này cũng không nhìn thấy cô bé luôn. Nếu tôi cứ khẳng định hoài, chỉ tổ cho hai cha nội cười thôi, nên tôi cũng ráng cất lên tiếng cười hô hố.

- Ðừng để xác thiếu lạnh nghe chưa ? - Smith thúc cùi chỏ vào sườn tôi, cười khành khạch rồi đi ra. Macklin nhìn tôi ngơ ngác rồi đi theo.

Cửa đóng lại là tôi rầu thúi ruột. Lần đầu tiên trong đời, cảm giác chỉ có một mình trong nhà xác làm bao tử tôi teo còn một cục nhăn nhúm. Tôi đi vòng qua ngăn 14 cứ như đang đi trên một chiếc cầu bằng thủy tinh bắc qua một bờ vực.

- Ði đi mà - tôi thì thầm với Z.L. - Cô đâu phải xác chết. Chỉ là một hình ảnh riêng một mình tôi thấỵ Nên làm ơn biến đi giùm!

Lời nói của tôi chẳng hiệu quả gì, mà chỉ làm tôi hoảng thêm khi thấy mình lầm bầm nói chuyện với một thây ma.

Trở lại bàn, tôi ngồi run rẩy một lát rồi chợt nghĩ ra. Có thể tất cả Olaf, Smith và Macklin đã thông đồng với nhau, có lẽ hai tay chở xác làm ca ban ngày đã mang cô Z.L. này tới, rồi để nhát ma tôi chơi.

Cảm thấy an tâm hơn, tôi lấy điện thoại gọi cho Juđ Lawrence. Juđ là bạn của bố tôi, hiện làm cảnh sát điều tra ở đây. Chú ấy lúc nào cũng thiện cảm với tôi, và cũng chính là người giới thiệu cho tôi chỗ làm nàỵ

Chú ấy chưa về, ca trực của chú ấy tới 11 giờ mới xong. Tôi gọi lại sở cảnh sát và gặp được chú.

- Chào chú Lawrence. Tully Branson đây!

- Có gì không, Tully?

- Cháu có chuyện, chú ơi.

- Nói đi - chú ấy đáp ngaỵ

- À ... sổ sách đằng cháu hình như hơi lộn xộn ... Có một cô gái ở đây, tóc vàng, làm y tá, tên tắt là Z.L.

- Cháu phải gọi ông Olaf Daly mà hỏi chứ!

- Phải, nhưng làm sao tìm ông ấy được sau giờ làm việc, ông ấy luôn la cà quán xá chú à. Giờ này mà gọi được ông ấy thì ông cũng nổi sùng lên cho mà xem.

- Ðúng rồi - chú Juđ bật cười - Chi tiết về cô gái chỉ có thế thôi hả ?

- Vâng. Cô ta có vẻ tử tế lắm. Kiểu người như vậy chắc sẽ chết bình thường và quàn tại nhà chứ đâu có bỏ trong nhà xác thế nàỵ

- Ý cháu muốn nói là chết mờ ám? - Juđ hỏi.

- Cháu không rõ. Nhưng có lẽ chết trong tình huống đáng nghi.

- OK, Tully. Ðể chú kiểm tra lại xem.

- Cháu làm phiền chú quá.

- Phiền gì. Chỉ cần phôn đi hỏi vài nơi là xong.

- Cám ơn chú nhiều, chú Lawrencẹ

Gác máy, và trong khi chờ chú Juđ gọi lại, tôi mò tới cửa phòng xác dòm vào để thấy cô ta vẫn còn nằm đó. Quả thực cô vẫn còn đó. Tôi rầu rĩ trở lại bàn. Rồi điện thoại reo:

- Nhà xác thành phố đây. - Tôi vội vàng nói vào ống nói.

- Juđ đây, Tully. Phòng điều Trả lời án mạng không có tên đó. Suốt 24 giờ qua, không có cô nào tên Z.L., tóc vàng, bị giết cả.

- Ô! - tôi kêu lên thất vọng.

- Chú kiểm tra danh sách y tá thành phố - chú Juđ tiếp - Có một cô y như cháu tả, tên là Zella Langtry, y tá mới ra trường, nhà số 711 đường Eastland, làm ở bệnh viện thành phố. Nếu cô ta gặp chuyện gì thì điều đó đang xảy ra, vì cô vừa hết ca trực tối nay. Những điều nghe được đó, cùng với hình ảnh cô bé trong ngăn 14 bỗng làm tôi nghĩ ra một điều và thấy rởn tóc gáy.

- Chú Lawrence, cháu chợt sợ rằng cô Zella sắp gặp chuyện chẳng lành.

- Cháu muốn nói gì vậy?

- Bởi vì ... bữa trước ... bà phù thủy Endore đệ tứ có nằm ở đây ... Bà ta rất ...

- Cháu nói chuyện nhảm nhí gì đó - giọng chú gay gắt. Bộ cháu uống rượu say rồi hả ?

- Dạ không - tôi vội đáp.

- Còn gì không?

- Dạ, không ... Cám ơn chú.

Hai mươi phút sau, chiếc xe cà khổ của tôi đậu lại trên đường Eastland, đi bộ một đoạn là tôi tìm được số nhà cô ta. Ðó là một ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, trông khiêm tốn với mảnh sân tí tẹo phía trước. Cả khu nhà đã tối đen, yên ngủ.

Tôi đứng đó mấy phút và cảm thấy mình ngố ơi là ngố thì nghe tiếng máy xe ở đầu đường. Ngoảnh ra thì thấy chiếc xe buýt đang nặng nề rời bến ở ngã tư đằng kia.

Ðứng khuất vào bóng cây ven đường, tôi nhận ra bóng một cô gái vừa rời xe buýt và đi bộ về phía tôi, nhưng cô không phải người duy nhất xuống xe ở bến này. Ðằng sau cô có một bóng người cao và to con. Thấy cảnh đó, tôi muốn nghẹn thở luôn.

Cô chợt nhận ra có người theo mình và cô rảo bước. Người đàn ông cũng rảo theo. Cô ngoảnh lại nhìn và bước vội hơn, gần như chạy.

Tiếng giày đàn ông trên mặt đường nghe mồn một. Tiếng la của cô gái nghẹn lại khi gã ta đuổi kịp và quàng tay siết cổ cô.

Hai người giằng co với nhau, đôi chân cô gái đá loạn xạ.

Từ chỗ nấp, tôi vụt xông ra, chẳng còn biết sợ là gì. Gã kia nghe tiếng chân tôi, gã quay lại, khi gã vừa buông cô gái ra thì tôi lao người bừa vào hông gã.

Gã lên mạnh gối một cái, trúng ngay cằm tôi. Tôi té ngồi xuống đường. Gã liền quay người bỏ chạy. Có đôi bàn tay dịu dàng đỡ tôi dậy và tôi nhìn rõ được đôi mắt của Zella Langtry lần đầu. Ðôi mắt đẹp, mơ huyền và long lanh trong bóng đêm.

- Cô có sao không? Tôi hỏi, hơi thở còn hổn hển.

- Cám ơn, tôi không sao. Còn anh ?

- Bây giờ thì ổn rồi - tôi đáp.

- Thật là may anh lại có mặt kịp thời - cô ta đã bình tĩnh lại.

- Ừ ... tôi ...? tình cờ đi ngang qua đây. Ðể tôi đưa cô tới nhà cho chắc ăn. Khỏi báo cảnh sát vụ này làm chi. Có thấy được mặt mũi tên kia đâu?

- Tôi đang về nhà. Nhà tôi ngay đằng kia.

- Chúng tôi đi bên nhau, cô xưng tên mình là Zella, và tôi cho cô biết tôi là Tully. Ðến trước cửa nhà, hai đứa tôi nhìn nhau. Tôi hỏi tôi có thể gọi điện cho cô không, thì cô ấy rất hoan hỉ.

Ðợi cô ấy vào hẳn trong nhà, tôi mới thả bộ về chỗ đậu xe, vừa đi vừa huýt sáo.

Về đến nhà xác, tôi đi thẳng vào phòng xác. Nếu lý thuyết của tôi đúng, thì hình ảnh của Zella Langtry trong ngăn 14 sẽ không còn nữa, bây giờ cô đã được cứu thoát chết.

Kéo ngăn số 14 ra, tôi đực mặt đứng nhìn vào đó. Lý thuyết của tôi đến lúc này, đã hoàn toàn đúng. Hình ảnh của Zella Langtry không còn đó nữa

Nhưng thay vào đấy là một cô nàng tóc đỏ hung, cũng xinh đẹp không kém!

 

TRĂNG XANH HUYỀN HOẶC

(Tác giả: Trọng Miên)

 

Trăng xanh huyền hoặc làm cho cảnh trí đêm rừng mơ hồ, chiêm bao. Không khí cao nguyên trong vắt, lâng lâng. Thanh cảm giác nhẹ nhàng như đang mơ, để mặc hai chân bước đi cũng như tâm hồn mọc cánh đang bay giữa trời trăng sáng. Qua một quãng rừng lấp loáng ánh trăng và gió lá thì thầm, chàng đến trước dòng sông trắng bạc. Sự quạnh hiu, không một tiếng người khiến trăng sáng ghê hồn như ngưng đọng giữa đêm khuya huyền bí. Bỗng trong lắng chìm của Tạo vật bay lên một giọng ngân nga, rung động vùng trăng:

Cả miệng ta trăng là trăng,

Cả lòng ta vô số gái hồng nhan,

Ta nhả ra đây một nàng,

Cho mây lặng lờ, cho nước ngất ngây.

Cho vì sao rụng xuống mái rừng say.

Gió thổi rào rào như lá đổ,

Suối gì trong trắng vẫn đồng trinh.

Bóng ai theo dõi bóng mình,

Bóng nàng yêu tinh...

Thanh bước hoang mang theo dọc bờ sông, ngâm nga như một người mất trí. Nhưng thốt nhiên chàng ngừng bặt, rợn người lên vì chợt nhận thấy thanh âm tiếng ngâm thơ dội tan màn trăng thủy tinh, và bước chân chàng từ đấy cũng nhè nhẹ lướt qua trên mặt đất. Đi thất thơ như lần tìm bến mộng, chàng để cho hương men thi tứ dâng lên hồn.

Đang nhiên một giọng hát bay lên trời xanh; rồi đồng thanh một điệu huyền hồ, kỳ diệu là là đuổi theo nhau trong ánh trăng. Cùng với cảnh vật, tâm hồn Thanh bị xúc động không ngờ, và chàng thấy lạnh óc, tinh nhận ngay rằng tiếng hát thủy tinh kia hình như không phải của người.

Điệu hát lạ lùng trỗi lên giữa dòng sông trong sáng: một đoàn lõa thể tóc thả dài theo thân hình lụa bạch, đang vọc nước giỡn trăng, hát lên những âm thanh linh quái, ghê người.

Thanh đứng sững sờ trước cảnh đẹp dị thường, kỳ ảo. Chàng không kịp ngạc nhiên nữa và giọng hát lung linh, cao vút đẩy đưa hồn chàng chới với giữa không gian; người Thanh như lên cao khỏi mặt đất. Thế rồi, tiếng hát bỗng rung rinh vỡ tan như pha lê và âm thanh tản mác như một đàn bồ câu trắng tung bay giữa trời xanh.

Sau phút mê ly, Thanh hốt hoảng thấy đoàn mỹ nữ biến chìm trên mặt sông thủy ngân. Chàng lặng người, ghê rợn tưởng mình vừa qua một giấc mơ. Nhưng trăng vẫn sáng vằng vặc, dòng sông vắng trước mắt và cánh rừng bên vẫn thì thầm bí mật. Thoạt tiên chàng nghĩ rằng đó là một đám thiếu nữ Lào rủ nhau đi tắm đêm trăng, nhưng ở đây, một quãng sông sâu thẳm, xa vắng và quanh vùng dân cư chẳng mấy người? Thanh rùng mình nhớ đến tiếng hát quái dị, hình như không phải của người.

Thanh ở đồng bằng lên đây được hơn hai ngày. Sau khi bán được một tác phẩm văn chương, vừa đủ tiền để đi chơi hơn một tháng. Chàng từ giã ngay thành phố tù hãm, đi Lào, xứ của những nàng phù sảo óng ả, những rừng cây đầy nhựa mạnh với hương thơm. Chàng tìm đến một làng vắng vẻ trên sông Cửu Long, ở trọ nhà một người thợ săn bản xứ. Mỗi ngày chàng đi thất thơ ở trong khu rừng hiền lành, ngâm thơ và làm thơ, về nhà uống rượu rừng với thịt săn, đến nhà sàn các cô gái da ngà nói chuyện bâng quơ hay tình tứ, xa hẳn cuộc đời đầy bụi bặm tầm thường ở Sài Gòn. Cứ mỗi năm, đã gần thành một cái lệ, sau những ngày làm việc rộn rã để sống, Thanh dành riêng cho con người thơ của mình một thời hạn để ra biển hay lên rừng, tự do theo cái thiên tính man dại tân kỳ.

Tối hôm qua, người chủ trọ thợ săn bắn được một con thú rừng thịt tươi ngọt, Thanh uống rượu quên say. Rồi chàng ra đi hoang mang trên bờ sông trăng sáng rạng ngời. Chàng nhớ lại sự gặp gỡ quái ảo, nhưng chắc chắn rằng trong lúc ấy mình vẫn tỉnh - chưa bao giờ Thanh vì say rượu mà mê hoặc, lầm lẫn. Song chàng ngờ ngợ khi nghĩ đến tiếng hát lạ lùng hình như còn âm hưởng trong trí nhớ. Chàng đem tất cả tâm hồn để hồi tưởng lại những âm thanh văng vẳng mơ hồ: Một thứ tiếng trong suốt và rung rinh, sâu sắc và tế nhị, một thứ tiếng có thể là nghe ở trong mơ. Nhưng bản năng chàng thấu nhận rằng thứ tiếng trong mơ còn có thể cắt nghĩa được, còn gần gũi với lòng người. Cái giọng hát linh quái ấy đã thấm dần qua da thịt Thanh, và bây giờ đây chàng cũng rợn người lên, vì khoái trá, vì kinh dị - cái giọng hát hình như không phải của người đang tung bay trong hồn. Điệu hát huyền hồ đã thành ra một ám ảnh. Thanh băn khoăn, sôi nổi vì tiếng hát đêm qua cứ rung động trong não cân, trong những mạch gân căng thẳng, đang âm thầm rồi lên cao và, sau cùng, vỡ tan như thủy tinh, - những mảnh thủy tinh âm nhạc còn đọng lại để mà nhảy reo tận đáy hồn. ánh trăng xanh vằng vặc nhuốm khắp hồn Thanh trong khi điệu hát trỗi lên. Hình như giữa điệu hát và đêm trăng có một liên lạc kỳ bí: mỗi lần Thanh nhớ đến tiếng hát hay là tiếng hát tự nhiên vụt nổi trong hồn thì ánh trăng xanh huyền hoặc lại hiện ra.

Thanh ngồi nhập định hàng giờ như thế rồi vụt dậy chạy về phía quãng sông có tiếng hát đêm qua. Mặt nước sâu thẳm lạnh lùng của ngành sông Cửu Long vẫn im lặng. Gió chiều ở rừng bên thổi náo nức lòng người. Thanh để ý ở chỗ uốn mình ngành sông có một hốc đá trắng tinh, cao như vươn lên trời xanh, nhưng không phải là một sự lạ dọc theo con sông dài thăm thẳm. Chàng ngờ vực rằng có một đám con gái lại dám đến tắm ở làn nước sâu mát rợn và xa vắng. Nhưng đêm qua Thanh có mê lầm đâu, -và chính tận mắt chàng đã thấy sáu bẩy thân hình nõn nà, lồ lộ nửa phần trên đang trững giỡn với trăng. Chỉ có tiếng hát, tiếng hát dị thường, chưa bao giờ nghe thấy ở trần gian làm thắc mắc lòng chàng.

Thanh bâng khuâng theo con đường cũ trở về, tự hẹn tối lại ra đây.

Trăng lên như trái ngọc giữa trời lưu ly. Thanh men ra phía bờ sông từ lúc trăng mọc, yên lặng đứng tựa cánh rừng âm thầm. Chàng đợi chờ, trong lúc đêm càng nhuốm màu hư ảo của trăng xanh bát ngát mỗi lúc càng sáng lạnh thêm. Đến khuya, vẫn không nghe thấy gì lạ, Thanh trở về ngờ vực băn khoăn. Đi quá được một góc rừng cạnh sông, đột nhiên Thanh bỗng nghe tiếng hát lạ lùng. Chàng tưởng tiếng hát còn ám ảnh vang dội trong hồn, nhưng, trong lặng im kết đọng lại giữa trời khuya, rõ ràng, lanh lảnh, tiếng hát lên cao. Thanh quay mình trở lại phía sông và, cảnh tượng đêm qua đột ngột hiện ra trước sự kinh ngạc của chàng. Thanh nhìn thấy lấp loáng những suối tóc tuôn chảy trên thân lụa, những cánh tay mềm mại cử động, những khuôn mặt phản chiếu ánh trăng trông xa như thực như hư. Và tiếng hát lên cao như rót vào hồn Thanh sững sờ, mê man. Chàng quên hẳn những sự toan tính ban ngày và đứng ngây dại trước sự cám dỗ huyền hoặc của điệu hát thủy tinh. Khung cảnh đẹp quá, Thanh để mặc cho hồn say sưa tận hưởng giây phút khoái trá đê mê, không còn nghĩ đến gì nữa hết. Người chàng cũng lửng lơ theo tiếng hát và mơ hồ như đang cùng trững giỡn với những thân hình xinh đẹp ngoài kia.

Tiếng hát bỗng ngắt và sóng nước xôn xao ánh trăng để lại dấu vết mong manh của một sự tan biến mơ hồ. Nhưng mặt sông chưa được bình tĩnh thì những nàng như đúc bằng ngọc thạch lại ở dưới nước hiện lên. Và đồng thanh tiếng hát bay bổng giữa trời xanh, nhẹ mỏng như sương khuya huyền ảo trong khi đoàn mỹ nữ cùng ngẩng đầu lên nhìn trăng sáng. Rồi thì những cánh tay nõn nà nắm lấy nhau tung nước trắng xóa, cả đoàn từ từ bơi ngược lên dòng sông phẳng lặng. Tiếng hát xa dần với những hình ảnh mờ dạng trên mặt nước sáng như gương.

Thanh muốn chạy theo nhưng mé sông quanh co hiểm trở. Chàng ngây dại đứng trông vời, nghe lắng cho đến khi mất hẳn. Trở về với mình, Thanh thấy bao nhiêu câu hỏi dồn dập đến. Chàng vẫn không hiểu rõ ràng sự vụt hiện của đoàn gái đẹp ở đâu ra. Và không một tiếng cười, không một tiếng nói trong khi trững giỡn, - ngoài ra tiếng hát thăng thiên, tấp tới vươn cao lên trăng, tiếng hát không thể có ở miệng người, tiếng hát đã say sưa, cám dỗ, nâng hồn chàng lên rợn cả chân thân.

Sáng ngày lại, Thanh đem câu chuyện gặp gỡ khác thường của mình ra nói với người thợ săn chủ trọ. Hắn nhìn Thanh ngạc nhiên rồi lạnh lùng nói:

- Tôi không biết!

Thanh đi quanh vùng gần trọn cả ngày để hỏi han, từ những người lớn đến các cô thiếu nữ Lào, và đâu đâu chàng cũng chỉ nhận được một câu trả lời như trên kia là không biết. Có người nhìn chàng một cách bí mật rồi chỉ lắc đầu không nói.

Sự ngờ vực càng làm cho Thanh thêm sôi nổi muốn khám phá cái không khí bí mật, kỳ ảo đang bao vây câu chuyện. Chàng ra quãng sông có tiếng hát trong hai đêm trăng sáng, đo chừng sự cách xa, định tối nay sẽ tự dẫn mình đến gần đoàn gái đẹp. Thanh vẫn là một tay bơi lội rất khá, nhờ những ngày luyện tập ở biển. ý tưởng đụng chạm với đoàn mỹ nữ có giọng hát siêu phàm làm cho Thanh khoái trá và rờn rợn.

Thanh ra đi lúc bắt đầu trăng lên đã hơi khuya. Chàng uống luôn ba cốc rượu mạnh để giữ lấy sự cương quyết vì thấy lòng mình ngờ ngợ. Trăng lên giữa trời thì khuya hẳn vì mùa trăng đã về hạ tuần, Thanh vẫn không thấy có gì biến đổi trên mặt sông thủy tinh. Hơi rượu tan dần với sương đêm xuống, nhưng chàng vẫn không nản lòng, cho đến khi vành trăng hơi khuyết ngã khuất về phía cánh rừng, Thanh còn ngồi đợi. Dòng nước lạnh lùng trôi xuôi giữa cảnh đêm rừng bí mật, âm thầm.

Đêm mai, Thanh lại ra bờ sông trước khi trăng lên và ngồi chờ cho đến khi nghe tiếng gà rừng gáy ở xa mới đành lòng về. Luôn mấy đêm như thế, Thanh cũng không nghe thấy gì hết. Chàng nghĩ có lẽ trăng bớt sáng nên những cô nàng không tắm và hát như trước nữa. Nhưng tiếng hát và hình ảnh thuần tuý giữa đêm trăng vẫn ám ảnh lòng chàng không thôi. Sự yên tĩnh của linh hồn Thanh đã bị phá rối bởi những âm điệu thủy tinh. Chàng bỏ ra đi về phía thượng Lào và hẹn mùa trăng tới sẽ trở lại chốn này.

Ở Luang Prabang, một buổi chiều vàng như thời xưa, Thanh đi chơi dọc theo bờ sông Nam Khan, bỗng một nhịp cười lanh lảnh, nả nớt gọi chàng nhìn xuống bến nước. Một đoàn con gái với những thân hình pho tượng óng ánh sắc trời chiều đang đùa tắm, lẩn vào những tiếng hát tình tứ, mơn man - những điệu hát Thanh vẫn thường nghe của các ả phù sảo.

Đây chỉ là những cô gái Lào tắm mát, hát nghêu ngao. Cảnh tượng linh động nhưng Thanh cảm thấy thật thà, khác hẳn với cảnh trí giữa đêm trăng huyền hoặc, lạ lùng đã ám ảnh lòng mình. Những cô nàng đang tắm thấy có người trai lạ đến bơi ra xa.

Thanh để ý rằng những ả bơi tài giỏi đang tung bắn nước vào nhau ở giữa sông và cười lên khanh khách, có những dáng điệu khác hẳn với những cô nàng đã gặp dưới trăng. Những thân hình cũng nhuốm một màu sắc da thịt khác với màu sắc mơ ảo của đoàn mỹ nữ hát lên những âm thanh kỳ dị. Có phải vì sự nhận xét lầm lạc của Thanh hay vì trăng xanh huyền hoặc? Luôn mấy hôm, Thanh ra đây, đứng sau cây ngắm những thân hình đẹp như tượng của các thiếu nữ Lào đi tắm mỗi chiều. Chàng nhớ đến sự gặp gỡ giữa hai đêm trăng sáng, và nhất là tiếng hát, tiếng hát chưa bao giờ chàng nghe bay ra ở những đôi môi nồng nàn, xinh đẹp của các cô nàng ở đây. Thanh càng lý luận, để tâm suy xét đến những âm thanh kỳ dị thì thấy mình càng lạc lối trong ngờ vực, mơ hồ mênh mông như đi giữa mùa trăng bát ngát, và chàng càng đi xa càng thấy rợn người lên.

Thanh trở lại chốn cũ đang lúc mùa trăng còn non. Trong những ngày bâng khuâng, u hoài điệu hát thủy tinh, chàng đã nghĩ đến các phương cách thiết thực để tìm ra những cô nàng trững giỡn dưới trăng. Đêm đêm cùng với trăng lên, chàng ra bờ sông chờ đợi. Nhưng sự kiên tâm của Thanh bắt đầu lung lay vì đã bảy hôm nay và đêm nay trăng mười bốn rạng ngời, chàng vẫn không nghe thấy gì hết, ngoài ra sự bí mật, huyền ảo đến chiếm lấn mình.

Sáng ngày hôm sau, trong lúc Thanh đang ngồi bâng khuâng, người chủ trọ thợ săn dẫn một người Tây săn bắn về nhà và nhờ chàng làm thông ngôn trong một cuộc đi săn lớn hôm nay. Thanh không từ chối nhưng đưa ra một điều kiện là người thợ săn phải nói thật sự bí mật đã giấu chàng về những cô nàng tắm, hát đêm trăng. Thấy hắn vẫn trả lời lắc đầu, Thanh không chịu đi nữa, bấy giờ hắn mới ngập ngừng hẹn đến khi đi săn về.

Cuộc đi săn thú dữ trong rừng già rất sôi nổi, nguy hiểm nhưng mà say sưa. Những cảm giác mãnh liệt kích thích người Thanh nhưng trí chàng vẫn nghĩ tới lúc về sẽ biết được rõ các nguyên nhân đã ám hoặc tâm hồn mình. Thỉnh thoảng một vài tiếng súng nổ làm Thanh choàng tỉnh. Cuộc săn bắn kéo dài đến chín giờ đêm, lúc trăng đã lên cao khỏi rừng. Thanh nóng lòng về ngay để ra bờ sông vì hôm nay trăng rằm, trăng xanh huyền hoặc như mùa trăng trước, và cũng đêm nay, chàng đã gặp gỡ những cô nàng.

Ban sáng ra đi theo đường tắt của rừng, trở về tối khó khăn, người thợ săn đã dặn bạn chèo thuyền chờ sẵn trên bến ở cửa rừng sâu để chở các thú săn được và người về. Chiếc thuyền độc mộc đi rất mau trên dòng Cửu Long Giang, gần một giờ đã tới ngành sông thẳng đường về nhà người thợ săn. Nước ở đây chảy đều hòa nên con thuyền từ từ đi lặng lẽ. Trăng sáng lung linh, mát rợn cả tâm hồn. Thanh nhắc nhở người thợ săn đến lời hứa hẹn, hắn trả lời vẫn nhớ nhưng không thể nói được trong lúc này, hãy đợi đến lúc thuyền cặp bến. Sự ngờ vực trong bao lâu của Thanh càng tăng lên cực điểm, và dưới trăng xanh, chàng cảm thấy rờn rợn cả người.

Bỗng trong im lặng mơ hồ, một thứ tiếng quái ảo vụt bay lên giữa không trung, rồi những tiếng khác đuổi theo, rung rinh, xao động cả trời đêm. Thanh rung động toàn thân nhận ra điệu hát thủy tinh đã từng nghe. Người Tây trố mắt nhìn về phía có tiếng hát kỳ dị, không phải của người; một câu hỏi hấp tấp không có trả lời, rồi người Tây đưa súng lên trong lúc người thợ săn và người Lào chèo thuyền kêu van hãy ngừng tay lại. Thanh ngây người như đã mất hồn theo tiếng hát. Chiếc thuyền vẫn lặng lẽ đi, còn cách xa chừng một trăm rưởi thước cái hốc đá trắng tinh với những bóng trắng lấp loáng giữa vùng nước bạc đang phát ra những âm thanh ghê người. Mũi súng của người Tây đã hạ xuống bỗng đưa lên, và một tiếng nổ kinh động làm tan vỡ những âm thanh thủy tinh, cùng một lúc những hình ảnh vụt biến mất trên mặt sông đầy trăng. Chiếc thuyền lại gần hốc đá trắng, mặt nước sâu thẳm lạnh lùng, bí mật phản chiếu trăng xanh huyền ảo. Thanh vụt đoán hiểu tất cả và thấy lạnh tận đáy hồn. Hai người Lào mặt nhợt nhạt, giữ một im lặng hãi hùng và người Tây tự nhiên cũng im bặt.

Sáng ngày lại, Thanh đang ngủ say vì thức rất khuya đêm qua, bỗng choàng dậy vì những tiếng ồn ào dưới nhà sàn người thợ săn.

- Nữ thủy thần của chúng ta đã bị giết! Nữ thủy thần của chúng ta đã bị giết!

Người Tây săn nằm đối diện với Thanh đang ngáy mê man cũng chồm dậy, rồi cả hai ló đầu ra nhìn xuống. Đám thổ dân quanh vùng đang tụ họp lại vừa hỏi han vừa kể lể bằng một giọng oán trách, buồn rầu. Thì ra những nàng lụa bạch đã hát trên sông là những nữ thủy thần hiền lành, xinh đẹp thường hiện lên trong những đêm trăng sáng. Và một nữ thủy thần bị bắn chết sẽ gieo tai họa khốn khổ vô cùng cho dân cư ở quanh vùng.

Thanh nói qua cho người Tây hiểu rồi hấp tấp xuống sàn chạy băng qua rừng ra phía sông. Chàng đến rẽ mấy người Lào đang xúm quanh khoảng cát trắng, ở trên một xác chết đang nằm sóng soài. Thanh quỳ gối xuống nhìn tận mặt nữ thủy thần, và kinh ngạc thấy gần như một nàng tuyệt đẹp trước mình. Đôi mắt xanh biếc với làn mi dài uốn cong nhìn lờ đờ - khuôn mặt rất người, đẹp một cách huyền hoặc - suối tóc xanh mướt tuôn chảy trên nửa thân hình lồ lộ - da thịt xanh mầu ngọc thạch để nổi những làn gân nhạt, và hai vú tròn trĩnh, trinh bạch, ngon lành như trái cây tươi. Nửa thân người nàng đẹp như pho tượng bán thân bằng cẩm thạch. Và nàng chỉ khác người gái đẹp ở phần dưới, là một nửa thân cá giải lớn, óng ánh những vẩy trắng bạc.

Thanh đỡ nàng lên và cảm giác đang nâng một con người lụa bạch có tiếng hát thuần túy, khêu gợi như trăng thanh. Người Tây săn cũng vừa đi đến, sửng sốt đứng nhìn cảnh tượng dị thường rồi nói nghẹn ngào, đầy ân hận:  - Tôi đã gần như giết một người... một người đàn bà đẹp.

Thế rồi trong lúc dân bản xứ làm lễ tống táng nữ thủy thần, người Tây săn rời bỏ chốn này như một người đi trốn. Còn Thanh, chàng ngây dại như người mất hồn.

Đêm hôm ấy, trong khung cảnh bí mật, lạnh lùng trên bờ sông, dưới trăng xanh huyền hoặc, chàng uống rượu say, đi thất thểu, ngâm nga rung động cả vùng.

Và khi trăng lặn, cũng vừa trời rạng đông, Thanh trở về nhà sàn sách va li ra đi, sững sờ như điên.

 

NGƯỜI CHẾT ĐẺ CON

(Tác giả: Khuyết danh)

 

Ở Vạn Ninh, tỉnh Quảng Yên, có một người đàn bà có chửa được bảy, tám tháng, mắc bệnh mà chết. Nhà chồng chị ta nghèo quá, vợ chết không có tiền để làm đám tang cho chị, không có tiền mua quan tài chôn cất chị nên chỉ vùi lấp cái xác chị qua loa ở ngoài thành. Vì hổ thẹn nên anh ta không báo tin cho ai biết là chị đã thác.

Trong làng có một bà lão vốn quen biết chị hồi lúc trước, mở một cái quán bán chè nước vặt, cách mả chị ta khoảng một tầm mắt. Mấy ngày sau, bỗng thấy chị ta đem tiền đến mua bánh đường mang đi. Bà lão lấy làm lạ, nhìn dõi theo. Ðến mả, chị ta thoắt biến mất. Cứ như thế mấy ngày liền nên bà lão đã hỏi mua bánh để làm gì? Chị ta đáp:

- Mới đẻ không có sữa, con khóc không chịu được, phải đi mua bánh về mớm cho nó.

Bà vội tìm đến nhà gặp chồng chị và vội kể lại chuyện chị ta mua bánh về mớm con. Khi nghe xong anh nói:

- Không thể được. Có thể bà đã nhìn lầm người rồi chăng? Bà liền trả lời:

- Tuy tôi già hơi lẩm cẩm thiệt nhưng tôi đâu có hoa mắt đến nổi nhìn lầm người với lại tôi đây cũng quen biết với chị... Nếu anh không tin ngày mai đến mà xem.

Ngày hôm sau, anh chồng đến núp ở đằng sau cái quán theo dõi thực hư như thế nàọ

Khoảng trưa, quả nhiên chị ta tới quán. Chồng vội ló ra hỏi, chị ta không đáp, té chạy, loáng mắt đã biến mất. Anh chồng chạy đến tận mả, nghe bên trong văng vẳng có tiếng trẻ khóc. Ðào mả lên thì thấy một đứa bé trai nhỏ, nhau thai vẫn còn lòng thòng, đang nằm sấp trên bụng mẹ, quằn quại khóc. Mồm nó hãy còn dính những vụn bánh. Mọi người đều lo sợ cho nó là từ thay ma đẻ ra, nên mọi người đều tránh không ai dám lại gần. Người cha đem đứa bé về nuôi nấng bằng hồ cháọ

Ðứa bé sau này không khác gì những đứa bé bình thường khác.

 

LƯỠI GƯƠM ĐẪM MÁU

(Tác giả: Trọng Miên)

 

  Chuyện tôi sắp kể với bạn là chuyện tên Đức, kẻ chuyên sống bằng nghề cho vay nặng lãị

Hắn có khoảng vài trăm con nợ. Vài người trong số đó vì quá tuyệt vọng, vì không chịu nổi lãi suất kinh hồn của hắn, đã đi đến chỗ tự tử để tự giải thoát khỏi bàn tay đẫm máu của hắn. Số người bị lãi mẹ đẻ lãi con làm tán gia bại sản cũng không ít.

Các nạn nhân của hắn nguyền rủa hắn một trăm ngàn lần, hắn vẫn tỉnh bơ và vui cười ngoác cả miệng với họ miền là đừng có bớt số "phân" của hắn. Lạ thay, lời nguyền rủa thứ một trăm ngàn lẻ một đã kết thúc đời hắn một cách hết sức kỳ lạ.

Tôi nợ hắn hai triệu đồng, hắn tính tôi một số lời tóe máu, nhưng ác hại hơn cả là hắn lại coi tôi như một bạn thân... Điều này làm tôi bực mình, vì là bạn thân, tôi phải về hùa với hắn để dửng dưng trước những giọt lệ khóc than, những lời van xin của các nạn nhân của hắn.

*                *

*

Sáng hôm đó tôi thấy hắn ngồi ở bàn giấy, trước mặt hắn là một người trẻ tuổi, nước da tái mét, nhưng rất đẹp trai. Người tuổi trẻ đang năn nỉ:

- Bác Đức ơi, tôi thật không thể trả nợ bác ngay được, nhưng tôi van bác, xin đừng vội siết nợ. Mẹ tôi đang đau, nếu bà biết bị đuổi khỏi nhà, chắc bà chết mất. Bác làm phước cho tôi gán bức tranh này. Đây là tác phẩm quí giá nhất của tôi và tôi mong sẽ để đời; tôi đã vẽ đi vẽ lại cả trăm lần mà vẫn chưa thật vừa ý, và cũng chưa hoàn tất hẳn. Tôi cảm thấy như vẫn còn thiếu một cái gì đó. Chưa biết rõ là cái gì, nhưng rồi tôi sẽ tìm thấy và sẽ hoàn tất tác phẩm tuyệt vời này. Xin bác tạm nhận tranh này để trừ vào món nợ của tôi.

Đức cười gằn. Thấy tôi, hắn gọi tôi vào và chỉ cho xem bức tranh khổ trung bình đang đặt dựa vào tủ sách. Xem tranh tôi phục quá; ít khi tôi gặp một bức tranh đẹp như vậy. Tuy đề tài rất tầm thường: một người tráng sĩ, tay vung một lưỡi gươm, đằng sau là khói lửa từ một kinh thành đang cháy.

Thấy tôi thích, nhà họa sĩ nghèo cho biết anh đã nằm mơ thấy mình là người tráng sĩ trong khói lửa đó từ lâu lắm, bây giờ coi như vẽ gần xong mà anh vẫn chưa quyết định đặt tên cho bức họa...

- "Ông thiếu tôi "hai cây rưỡi" vàng, ông Trọng Cư", Đức bỗng lên tiếng. "Nhưng bức tranh của tôi giá trị có thể gấp đôi!". "Có lẽ, nhưng phải trong cả trăm năm nữa, tôi đâu có sống tới lúc đó!".

Tôi chợt nhận thấy ánh mắt hơi có vẻ chịu của Đức. Hắn phán: - Thôi được, tôi thương cậu lắm nên mới tạm nhận và gia hạn cho cậu ba tháng nữa phải trả đủ cho tôi số vốn, số lãi coi như đổi tranh.

Trọng Cư nói như muốn khóc:

- Bức tranh để đời của tôi mà chỉ được số tiền lãi thôi sao? Nhưng thôi, cũng được vì bây giờ tôi không lựa chọn gì được.

Người họa sĩ buồn bã bước ra cửa, Đức còn nói với theo: - Khi nào trở lại thanh toán, nhớ đặt tên cho bức tranh nhé!

Bức tranh sau đó được treo lên tường ngay sau bàn giấy của Đức.

*                *

*

Ba tháng qua mau như gió thoảng. Trọng Cư không kiếm được tiền trả.

Chàng cầu khẩn, van xin, hứa hẹn đủ điều nhưng không lay chuyển nổi lòng Đức, tên vua cho vay nặng lãi. Ngày thừa phát lại mang "giấy tống xuất" lại căn nhà của họa sĩ nghèo, viên chức này thấy hai mẹ con nhà họa sĩ nằm chết cong queo trên chiếc võng duy nhất, bên cạnh một nồi chào gà.

Trên bàn có một lá thư gởi cho tên Đức: "Tôi đã hứa đặt tên cho tranh, vậy tên nó là TUỐT GƯƠM TRẢ HẬN". Đức không hài lòng, hắn bảo:

- Tên bức tranh này không hay, hơn nữa bây giờ thằng họa sĩ ngỏm rồi, trả hận bằng cách nào?

Hắn không biết rằng hắn vừa thốt lời thách thức quỷ thần!

*                *

*

Một buổi sáng lại chơi, tôi thấy Đức có vẻ bồn chồn nóng nảy: - Này cậu, cậu nhìn bức tranh xem có thấy gì lạ lạ không?

Thấy tôi trả lời "Không thấy", hắn có vẻ hài lòng và giơ tay vuốt trán, tôi chợt thấy trán hắn ướt đẫm mồ hôi.

- Tôi thật là hay tưởng tượng, cậu có biết không, tôi hôm qua tôi khó ngủ quá nên thức dậy đi ra văn phòng. Đêm qua sáng trăng, căn phòng được chiếu sáng, cậu biết tôi thấy cái gì không? Tôi bổng thấy như tay tráng sĩ trong tranh động đậy, động đậy... rồi khiếp quá, tôi có cảm tưởng như hắn thò tay ra muốn nắm lấy cổ tôi...

Tôi bảo:

- Anh khùng quá, làm gì có chuyện kỳ quái đó! Nếu thấy không thích thì lấy dao rạch quách bức tranh là xong!

- Xong sao được, ai đền tôi "hai cây rưỡi" vàng đây, rồi còn bao nhiêu là phần trăm lời nữa!

*                *

*

Ba ngày sau, tên Đức mà tôi gặp không còn là tên Đức quen thuộc với nụ cười ngoác tận mang tai. Hắn già đi ít ra vài chục tuổi. Hắn run rẩy nhìn tôi bằng đôi mắt lạc thần:  - Trời ơi, quỷ quá ông ạ. Đêm qua thằng tráng sĩ bước ra hẳn khỏi tranh để chực chém tôi, nhìn xem kìa, nhìn xem kìa thanh gươm bây giờ NẰM NGANG trong khi lúc trước nó được giơ lên! Nhìn xem! Ghê rợn quá!

Tôi thấy lạnh xương sống. Mình cũng điên như hắn chăng? Thật phi lý, nhưng sao thanh gươm bây giờ đây lại đang NẰM NGANG trong tay người tráng sĩ thật!

Tôi thúc Đức đem rạch nát ngay bức tranh, nhưng óc biển lận của hắn đã thắng cả sự sợ hã. Hắn không tin tranh có thể hại hắn thật.

*                *

*

... Đức đã chết.

Người ta tìm thấy thi thể hắn ngồi chết ở trên ghế, cổ bị đứt gần lìa khỏi người; lưỡi gươm chém vạt cả vào thành ghế.

Tôi sợ hãi liếc mắt nhìn lên tấm tranh: lưỡi kiếm vấy máu tới gần cán.

  

 

 

LƯỠI GƯƠM ĐẪM MÁU

Chịu trách nhiệm xuất bản:

       BÙI CAO TIÊU

Biên tập:   NGUYỄN CẨM HƯƠNG

Sửa bản in: GIANG MINH TRƯỞNG

Trình bày bìa: SONG THÀNH

 

In 1.200 cuốn khổ 13x19cm, tại Xưởng in NXBGTVT

Số trích ngang xuất bản: 380-2009/CXB/27-53/ThaH,

In xong và nộp lưu chiểu Quý IV năm 2010

.............................................................................................................

- Cập nhật theo bản lưu trữ tại tại Công ty TNHH Văn Hóa Bảo Thắng.

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.

.

0 comments:

Đăng nhận xét