100
CÂU HỎI PHẬT PHÁP (tập 1)
Tác
giả: Thích Phước Thái ; Nhà xuất bản Quang Minh 2007
*
1. Nghi thức quá
đường.
Hỏi: Nghi
thức thọ trai quá đường, khi tụng bài cúng dường, tại sao bàn tay trái phải co
2 ngón lại và dựng đứng 3 ngón lên, rồi để chén cơm lên trên đó? Còn bàn tay
mặt thì bắt ấn, rồi đưa lên ngang trán. Xin hỏi: Điều này có ý nghĩa gì?
Đáp: Nghi thức thọ trai quá đường là một trong
nhiều nghi thức của Phật giáo. Mỗi tôn giáo đều có những lễ nghi hành trì đặc
biệt của tôn giáo đó. Phật giáo cũng thế. Đây là nghi thức mà chỉ có trong các
chùa thuộc hệ phái Bắc Tông (Đại Thừa); còn Phật giáo Nam Tông (Tiểu Thừa) thì
không có thực hành nghi thức giống như thế nầy. Vì lẽ, Phật giáo Bắc Tông chịu
ảnh hưởng sâu đậm Phật giáo Trung Hoa. Mà Phật giáo Trung Hoa rất chú trọng đến
phần lễ nghi hình thức. Đây cũng là một sắc thái văn hóa đặc thù của họ. Tuy
nhiên, hình thức lễ nghi, theo Phật giáo, chúng chỉ có tác dụng là phương tiện
chớ không phải cứu cánh. Phật giáo chủ trương: “Sự, Lý phải viên dung”. Nương
sự để hiển lý hay tức lý để hiển sự. Vì vậy, mọi nghi thức trong thiền môn, đều
có một ý nghĩa tiêu biểu đặc thù của nó.
Hình
ảnh ba ngón tay (ngón cái, trỏ và út) dựng đứng lên giữ một tư thế rất vững
vàng, giống như hình ba trái núi đứng sừng sững, đó là biểu trưng cho Tam vô
lậu học. Tam vô lậu học là ba môn học rất quan trọng trong Phật giáo. Ba môn
học đó là gì? Tức là Giới học, Định học và Huệ học. Có thể nói, toàn bộ hệ
thống giáo điển của Phật giáo đều xây dựng trên ba môn học nầy. Chúng tóm thâu
tất cả và hỗ tương với nhau rất là chặt chẽ. Nếu thiếu một trong ba, thì giáo
lý Phật giáo sẽ sụp đổ ngay. Giống như ba ngón tay đưa lên, nếu thiếu một ngón,
thì ta không thể nào giữ vững chén cơm được. Vì thế nên kinh nói: "Nhơn
Giới sanh Định và nhơn Định mới phát Huệ." Người tu hành muốn chóng thành
quả vị Phật, thì không thể nào xao lãng ba môn học nầy. Tuy nhiên, trong ba môn
học nầy, thì Huệ học đóng vai trò quan trọng hơn. Dù hành giả tu môn nào, nếu
thiếu trí huệ thẩm sát chỉ đạo thì không thể nào thành tựu kết quả tốt đẹp
được.
Còn
tay mặt bắt ấn, đó là ấn Cam lồ. Cam là ngọt. Lồ là sương mốc. Cam lồ
là những hạt sương ngọt dịu tươi mát. Cam lồ là tượng trưng cho từ bi. Trong
đạo Phật trí huệ và từ bi luôn luôn đi đôi với nhau. Chúng hỗ tương nhau không
thể tách rời ra được. Nếu chỉ có trí huệ mà không có từ bi, thì đó là loại trí
huệ khô, không làm lợi ích cho chúng sanh. Ngược lại, chỉ có từ bi mà thiếu trí
huệ kèm theo, thì đó là thứ từ bi mù quáng.
Thí
dụ một người đam mê cờ bạc thua hết tiền, đến xin tiền bạn để họ tiếp tục chơi
nữa. Khi đó, nếu bạn vì thương mà cho tiền họ, thì chẳng khác nào bạn tiếp tay
cho họ lún sâu vào con đường nghiện ngập tội lỗi. Như thế, thì bạn có từ bi mà
thiếu trí huệ quan sát tường tận, nhà Phật gọi đó là thứ từ bi mù quáng. Thế
nên, Phật dạy người Phật tử luôn luôn trang bị cho mình đầy đủ cả Bi lẫn Trí.
Mà trí huệ là cái dẫn đầu để hướng dẫn lòng từ bi của chúng ta đặt đúng nơi
đúng chỗ. Như thế, mới ích lợi cho mình và cho tất cả chúng sanh. Do đó, mà hai
tay bắt ấn phải để ngang nhau không cao không thấp, đó là tiêu biểu cho Bi và
Trí phải luôn song hành đi đôi với nhau vậy.
Tại
sao phải đưa lên ngang trán? Thật ra là đưa lên ngang chân mày, gọi là “cử án
tề mi”. Đưa lên ngang chân mày là tiêu biểu cho lòng tôn kính. Bởi vì ngày xưa,
theo tập tục của người Trung Hoa, mỗi khi người dưới dâng thực phẩm hay đồ vật
cho người trên, thì phải đưa lên ngang chân mày, để biểu lộ lòng kính trọng rất
mực. Trong Kiều có câu:
Hiên
sau treo sẵn cầm trăng
Vội
vàng Sinh đã tay nâng ngang mày.
Hai
câu này diễn tả lúc Kiều sang nhà trọ của Kim Trọng và được Kim Trọng ra phía
sau hiên lấy cây đờn nguyệt cầm rồi hai tay trân trọng đưa lên ngang mày để
dâng cây đờn cho Kiều. Đó là tỏ ý kính trọng Kiều vậy. Sỡ dĩ như thế, là vì Kim
Trọng muốn noi theo tích xưa: Nàng Mạnh Quang là người vợ hiền, mỗi khi dâng
cơm lên cho chồng là Lương Hồng ăn, nàng thường nâng mâm cơm cao ngang lông
mày. Trong truyện Quan Âm Thị Kính cũng có câu:
Án
kia nâng ở ngang mày,
Sạch
trong một tiết, thảo ngay một bề.
Như vậy, đưa lên ngang mày là để tỏ lòng kính trọng dâng cơm lên cúng dường Tam Bảo vậy.
2. Tại sao không thờ Tổ Tỳ
Ni Đa Lưu Chi làm sơ Tổ?
Hỏi: Theo
thiền sử, thì Tổ Tỳ Ni Đa lưu Chi là vị Tổ đầu tiên từ Trung Hoa mang Thiền
tông đến Việt Nam. Như vậy, lẽ ra chúng ta phải thờ Ngài là vị sơ Tổ Thiền tông
Việt Nam mới đúng. Tại sao lại phải thờ Tổ Bồ đề Đạt Ma?
Đáp: Thiền có nhiều phái. Đại loại có năm hệ
phái chính sau đây:
1.
Tỳ Ni Đa Lưu Chi 2.Vô Ngôn Thông 3. Thảo Đường 4. Tào Động 5. Lâm Tế. Tất cả
năm hệ phái nầy, đều bắt nguồn từ Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Vì Tổ Bồ Đề Đạt Ma là sơ Tổ
Trung Hoa. Sau đó, truyền cho Tổ Huệ Khả, rồi đến Tổ Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng
Nhẫn và sau cùng là Tổ Huệ Năng.
Từ
Tổ Huệ Năng truyền xuống cho các đệ tử. Từ đó về sau mới có chia các tông phái
thiền. Như vậy, chỉ thờ sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma là đã trùm khắp hết các thiền phái
khác. Còn nếu chúng ta chỉ thờ Tổ Tỳ ni đa lưu chi không thôi, thì làm sao trùm
hết các thiền phái khác được. Vì Tổ Tỳ ni đa lưu chi cũng chỉ là một thiền phái
như các thiền phái kia. Nếu thờ như thế, thì có tánh cách thiên lệch và không
thể đại diện cho các thiền phái hết được. Do đó, mà người ta chỉ thờ Tổ Bồ Đề
Đạt Ma là bao trùm khắp cả. Và như thế, thì không ai có thể chống đối được.
3. Kinh sách nào giúp cho
người mới học Phật.
Hỏi: Tôi
là người mới bước chân vào đạo, muốn tìm hiểu học hỏi Phật Pháp. Nhưng không
biết phải học hỏi kinh sách nào trước, cho nó có thứ lớp dễ hiểu hợp với trình
độ sơ cơ của tôi?
Đáp: Thưa bạn, qua câu hỏi của bạn, chúng
tôi biết bạn là người đang có nhiệt tâm muốn tha thiết nghiên tầm giáo điển của
Phật giáo. Đây là điều thật đáng kính và đáng khích lệ.
Về
kinh sách của Phật giáo thì có rất nhiều loại. Vì Phật giáo có cả một Đại tạng
kinh bằng chữ Hán. Hiện nay (2007) điều rất hãnh diện cho người Phật tử Việt
Nam chúng ta, theo chỗ chúng tôi được biết là, chư Tôn thiền đức đã dịch xong
bộ Đại tạng kinh từ chữ Hán sang chữ Việt. Đây là điều thật đáng vui mừng cho
Phật Giáo Việt Nam, nay đã có một Đại tạng kinh bằng chữ Việt. Tuy đã phiên
dịch xong, nhưng còn phải chờ đợi sự in ấn, ít nhứt cũng phải trải qua một thời
gian vài năm mới hoàn thành. Tất cả, lâu hay mau hoàn toàn đều tùy thuộc vào
phần tài chánh. Phần tài chánh nầy là do sự đóng góp của toàn thể Phật tử. Theo
Hội Đồng Phiên Dịch trong nước cho biết, công trình in ấn nhanh hay chậm đều do
sự đóng góp tài chánh của Phật tử khắp nơi. Nếu Phật tử tích cực đóng góp, thì
công trình thực hiện in ấn, chắc chắn là sẽ hoàn thành sớm hơn.
Tuy
nhiên, Đại tạng kinh Phật giáo dù đã được hình thành bằng Việt ngữ, nhưng đối
với người mới sơ cơ học Phật cũng không phải dễ dàng nghiên cứu học hỏi. Bởi có
rất nhiều Kinh, Luật, Luận khác nào như một khu rừng rậm, mà người đi vào quờ
quạng mò mẫm, rối rắm không biết lối ra. Nghĩa là, không biết nên học cái nào
trước cái nào sau. Đó cũng là điều rất khó cho người sơ cơ học Phật.
Thế
nên, theo tôi, nếu bạn muốn nghiên cứu học hỏi cho có hệ thống từ thấp lên cao,
thì từ trước tới nay, theo chỗ chúng tôi được biết, thì chưa có bộ sách nào
biên soạn hay hơn bộ Phật Học Phổ Thông. Bộ sách nầy do Cố Hòa Thượng Thiện Hoa
biên soạn. Toàn sách gồm có 12 quyển, gọi là 12 nấc thang giáo lý.
Sách
được trình bày qua Ngũ Thừa Phật Giáo. Mỗi Thừa đã được soạn giả trình bày qua
từng bài học, biên soạn rất công phu, trình bày rất sáng sủa, có thể nói, đây
là một loại sách giáo khoa, dễ học, dễ hiểu, giúp cho người học đở tốn thời
gian phải tìm tòi lục lọi các kinh điển khác. Thiết nghĩ, mỗi Phật tử chúng ta,
nên có bộ sách nầy được xem như là sách gối đầu giường.
Tuy
sách để là Phật Học Phổ Thông, nhưng cũng không kém phần quan trọng. Về Nhơn
Thừa và Thiên Thừa, bạn có thể đọc dễ hiểu. Nhưng từ Thanh Văn Thừa trở đi đến
Bồ Tát Thừa, gồm có các bộ kinh luận cũng không phải là dễ nhận dễ hiểu, nếu
không có thầy trực tiếp giảng dạy. Do đó, tôi thành thật khuyên bạn, tốt hơn
hết là bạn nên đến chùa học hỏi với quý thầy, những vị đã có trình độ Phật học
căn bản vững chắc. Hoặc giả bạn có thể trực tiếp ghi danh tham dự những khóa
học giáo lý do các chùa khai giảng, để từ đó bạn có một số vốn liếng căn bản
Phật học, rồi tìm đọc các bộ kinh luận khác, thì sẽ dễ tiến hơn. Đó là lời
khuyên thành thật của chúng tôi. Mong bạn hoan hỉ. Kính chúc bạn vững tiến trên
con đường tu học Phật Pháp.
4. Vấn đề sát sanh hại
vật.
Hỏi: Trong
khi trao đổi với một người bạn về giới thứ nhất không sát sanh. Tôi cho rằng
mạng sống giữa con người và con vật dù nhỏ nhít như con trùng hay con châu
chấu, cũng đều có mạng sống như nhau, cần phải được bảo vệ và tôn trọng. Nếu
giết hại chúng thì cũng phạm tội sát sanh như giết con người. Hay ngược lại,
nếu cứu mạng sống chúng thì cũng như cứu mạng sống con người, bởi vì mỗi loài
đều có tánh giác bình đẳng như nhau. Bạn tôi không đồng ý và cho rằng mạng sống
con người quan trọng hơn, nên cần phải được tôn trọng và bảo vệ hơn loài vật.
Như thế, thì xin hỏi: lý lẽ giữa tôi và bạn tôi ai đúng ai sai?
Đáp: Nếu bảo xác quyết đúng hay
sai, thì theo tôi, cả hai đều đúng, nhưng đúng chỉ ở một phương diện mà thôi.
Lý do tại sao? Bởi vì theo bạn, thì bạn đứng trên lập trường từ bi và lý tánh
để quyết định. Ngược lại, ông bạn của bạn thì đứng trên lập trường giá trị của
mạng sống mà so sánh quyết định. Vấn đề nầy, chúng tôi xin được góp ý như sau:
Về
phương diện từ bi, thì điều bạn nêu ra rất là hữu lý. Bởi Phật dạy, người Phật
tử phải luôn luôn nuôi dưỡng lòng từ bi với muôn loài. Vì mọi sinh vật đều có
mạng sống và chúng muốn được tự do sinh tồn. Theo lẽ công bằng, hễ mình biết
quý trọng thân mạng mình, thì kẻ khác hay loài khác cũng đều biết quý trọng
thân mạng của chúng. Do đó, người có lòng thương, thì không nở ra tay sát hại
từ loài người cho đến loài vật.
Tiến
thêm một bước nữa, Phật dạy tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. (Nhứt thiết
chúng sanh giai hữu Phật tánh, Kinh Niết Bàn). Trên thân tướng của mỗi loài,
tuy hình hài có khác nhau, mà tánh giác nào có khác nhau. Thế là, vì tôn trọng
tánh giác bình đẳng, mà không nên tàn sát sanh mạng, dù sanh mạng đó nhỏ nhít
như con trùng hay con châu chấu mà bạn đã nêu ra.
Như
vậy, điều mà bạn nêu ra, rất phù hợp với lời Phật dạy và cũng rất phù hợp với
lòng nhân của con người. Tôi dám quả quyết là bạn đúng. Tuy nhiên, nếu đứng về
phương diện giá trị mạng sống, cân phân nặng nhẹ, giữa mạng sống con người và
mạng sống con vật, thì sự quả quyết của người bạn của bạn là đúng.
Bởi
lẽ, chúng ta cần phải minh định rõ ràng về phạm vi của giới bất sát sanh nầy.
Trên nguyên tắc chủ yếu chính là Phật cấm người Phật tử không được sát nhơn.
Bởi giá trị mạng sống của con người, xét về hai mặt: sinh lý và tâm lý có nhiều
yếu tố thù thắng mà các loài động vật khác không thể sánh kịp. Do đó, mà người
ta gọi loài người là thượng đẳng, còn loài vật là hạ đẳng. Thử chúng ta xét qua
vài đức tánh căn bản:
-
Về trí năng, con người có một trí năng rất tinh khôn và khả năng phát minh sáng
tạo những kỹ thuật, những vật dụng máy móc tinh xảo, bằng chứng như các nhà
khoa học, bác học hiện tại. Đồng thời, con người có khả năng biện biệt phải
trái, thiện ác và biết tu tạo phước đức, làm sai trái, biết phục thiện, cải hối
và có tâm hướng thượng thăng tiến đến quả vị cao tột giải thoát, như chư Phật,
chư Bồ Tát chẳng hạn. Ngoài ra, con người còn có khả năng tư duy và một trí nhớ
rất siêu đẳng. Tóm lại, những yếu tố khả năng trí thức nầy, các loài động vật
khác làm gì có được.
-
Về phước báo, loài người có thân tướng thắng diệu, đẹp đẽ hơn loài vật nhiều.
Về cách sống loài người có văn minh, văn hóa cao hơn loài vật. Về thọ dụng thụ
hưởng, loài người thọ dụng thụ hưởng những thứ thực phẩm sang trọng như cao
lương mỹ vị v.v...
-
Về giá trị mạng sống, không cần phải biện minh dài dòng, ai cũng biết giá trị
mạng sống con người cao gấp trăm ngàn lần các loài động vật khác. Điều nầy
chúng ta thử xét nghiệm vào đời sống thực tế qua một vài trường hợp thí dụ điển
hình, chúng ta sẽ thấy rõ.
Thí
dụ trong nhà bạn, một hôm, con của bạn bị đau sắp chết, có thầy thuốc nói bệnh
nầy muốn trị hết, cần phải có một loại thuốc quý trị giá khoảng 20 ngàn Úc kim,
mới có thể trị được. Nghe thế, vì muốn cứu sống sanh mạng con bạn, chắc hẳn là
bạn sẽ sẵn sàng, dù phải vay nợ để có được số tiền đó trị liệu, miễn sao con
bạn lành mạnh, thì bất cứ giá nào bạn cũng không từ nan. Đồng thời, trong khi
đó nhà bạn cũng có con chó bệnh sắp chết và thầy thuốc cũng nói y như vậy, thử
hỏi bạn có chạy kiếm đủ số tiền đó để chữa trị cho con chó hay không? Hay là
bạn chỉ cho uống thuốc qua loa rồi cũng tùy theo nghiệp của nó mà phải chịu.
Như vậy, so hai sanh mạng, dĩ nhiên, sanh mạng con người được quý trọng gấp
trăm ngàn lần con vật.
Một
thí dụ khác, như có một bọn khủng bố xâm nhập vào nước Úc, chúng lùng bắt hết
những con ruồi, muỗi rồi đem giết sạch hết. Thử hỏi Chánh phủ Úc và nhơn dân Úc
sẽ đối xử với bọn khủng bố đó như thế nào? Họ cám ơn hay dốc hết toàn lực binh
hùng tướng mạnh đem quân đi đánh trả thù bọn khủng bố như người Mỹ đã làm. Sở dĩ
Mỹ trả thù, vì bọn khủng bố giết nhiều sanh mạng người. Chớ nếu như bọn chúng
giết hằng vạn hằng triệu con ruồi, con muỗi, thì chẳng những người Mỹ không tỏ
ra chút hờn giận mà còn cám ơn họ rối rít nữa. Bạn thấy sao? Mạng sống nào quý
hơn?
Nếu
như bạn cho rằng giết một con châu chấu, thì cũng phạm tội nặng như giết một
con người. Điều nầy e không đúng. Bởi vì, như trên đã nói, mạng sống con người
có giá trị lớn hơn muôn lần con vật, vậy thì không thể cho rằng phạm trọng tội
như nhau. Theo tôi, thì giết người là trọng tội, giết vật là tội nhẹ. Đối với
luật pháp thế gian cũng thế. Luật pháp chú trọng đến sự bảo vệ con người hơn là
con vật. Dù rằng con vật cũng được bảo vệ, nhưng không bằng con người.
Tóm
lại, qua những ý kiến lập luận của hai người thì, theo tôi, mỗi người đều đúng
ở một phương diện, như trên đã trình bày. Tuy nhiên, nếu kết hợp bổ sung hai ý
kiến trên lại, thì thiết nghĩ mới đầy đủ ý nghĩa của giới bất sát sanh nầy.
5. Dọn cơm cúng vong như
thế nào mới đúng?
Hỏi: Tôi
thường thấy lúc cúng vong, có ba chén cơm để ngang nhau. Chén cơm chính giữa
thì để một đôi đủa, còn 2 chén cơm 2 bên, thì chỉ để có 2 chiếc đủa. Xin hỏi,
điều nầy có ý nghĩa gì ?
Đáp: Nghi cúng cơm nầy là do tổ tiên ta bày
ra. Đây là một tập tục có từ ngàn xưa. Khi cúng để 3 chén cơm, một chén chính
giữa phải đầy cơm và 2 chén 2 bên thì lưng. Chén cơm và đôi đủa ở giữa là để
cúng cho hương linh mới chết, còn 2 chén và 2 chiếc đủa 2 bên là để cúng cho 2
bên vai giác, tức là tả mạng thần quang và hữu mạng thần quang. Thường là để
cúng 3 chén, 6 chén hoặc 9 chén, chớ để 5 chén là sai. Lý do để 2 chiếc đủa 2
bên, ý nói rằng, ma cũ thường ăn hiếp ma mới, nên chỉ để một chiếc mà không để
nguyên đôi. Nếu để nguyên đôi, thì hương linh mới chết đó khó có thể ăn được
trọn vẹn, mà bị các cô hồn giành giựt ăn hết vậy. Cần nói rõ, cách thức cúng
cơm nầy không phải là nghi thức của Phật giáo, mà là theo tục lệ tín ngưỡng
nhân gian xưa bày nay làm mà thôi.
6. Phật lên cung trời Đao
Lợi thuyết pháp bằng thân nào?
Hỏi: Phật
có 3 thân: Pháp thân, Ứng thân, Báo thân. Kinh Địa Tạng nói: Phật lên cung trời
Đao Lợi thuyết pháp cho Thánh Mẫu nghe. Vậy xin hỏi, khi lên cung trời thuyết
pháp, Phật đi bằng thân nào?
Đáp: Xin thưa ngay là Phật đi bằng Ứng thân.
Lý do tại sao? Bởi vì, đức Phật có lục thông. Trong lục thông, có một thông gọi
là Thần túc thông. Thông nầy có năng lực hiện thân tùy ý muốn tự do vô ngại.
Điều nầy, chúng ta cũng không lạ gì, khi đọc các sách truyện xưa, nhứt là
truyện Tàu. Như truyện Phong Thần chẳng hạn. Trong đó, diễn tả các vị có phép
lạ đằng vân giá võ hay độn thổ tàng hình v.v... Hoặc như các vị thiên tiên bay
qua lại tự do. Đó là những người chưa tu hành đắc đạo mà còn biến hóa như thế.
Ngược lại, đức Phật là một bậc Đại Giác Ngộ. Ngài có đủ thần thông lực dụng
biến hóa không lường mà có lẽ nào lại không bằng các vị tiên đó hay sao? Do đó,
Phật hiện thân ở các cõi, các nơi đều là cái ứng thân hay hóa thân chớ không
phải báo thân hay pháp thân vậy.
7. Ý nghĩa chắp tay như
thế nào?
Hỏi: Tại
sao người Phật tử khi tụng kinh lễ bái hoặc chào hỏi nhau lại chắp tay. Vậy xin
hỏi ý nghĩa chắp tay như thế nà ?
Đáp: Chắp tay, nguyên tiếng Hán Việt là Hiệp
chưởng. Tiếng Phạn là Ãnjali. Hiệp chưởng còn gọi là hiệp thập. Theo Từ Điển
Phật Học Huệ Quang tập 4 trang 2863 có giải thích như sau: “Chắp 2 bàn
tay, tập trung tư tưởng, cung kính lễ bái. Đây là cách lễ bái từ xưa ở Ấn Độ,
được Phật giáo thật hành theo.
Người
Ấn Độ cho rằng tay phải là tay thần thánh, tay trái là tay bất tịnh. Nhưng nếu
2 tay hiệp lại làm một thì trở thành sự hợp nhất giữa phương diện thánh thiện
và nhiễm ô, cho nên hiệp chưởng là biểu hiện bộ mặt chân thật nhất của con
người. Nghĩa " Bất cấu bất tịnh " trong Bát Nhã Tâm Kinh chính là ý
nầy.
Trong
các Kinh Luận có rất nhiều chỗ nói về hiệp chưởng, như Phẩm Phương Tiện Kinh
Pháp Hoa (Đại 9,9 Hạ) ghi :" Cung kính hiệp chưởng lễ"; Kinh Quán Vô
Lượng Thọ (Đại 12, 345 thượng) ghi: "Hiệp chưởng chắp tay, khen ngợi chư
Phật."
Ngoài
việc biểu thị ý cung kính trong tâm, hiệp chưởng còn biểu thị ý trở về nguồn
cội, đạt đến chỗ phi quyền, phi thật, sự lý khế hợp.
Theo
Đại Đường Tây Vực Ký 2, hiệp chưởng là cách thứ tư trong 9 cách lễ ở Ấn Độ.
Mật
Giáo phối hợp 2 tay với Kim Cang giới và Thai Tạng giới, hoặc lý và trí, hoặc
định và huệ v.v... đồng thời phối hợp 10 ngón với 5 đại, 10 Ba La Mật v.v...
Ngoài
ra, Đại Nhật Kinh Sớ 13 có nêu 12 cách hiệp chưởng :
1.
Kiên thật tâm hiệp chưởng (hai tay chắp chặt vào nhau các đầu ngón tay bằng
nhau).
2.
Hư tâm hiệp chưởng, còn gọi không tâm hiệp chưởng (hai tay chắp lại, các đầu
ngón tay bằng nhau, hơi rỗng ở giữa).
3.
Vị (hai) liên hiệp chưởng (các ngón tay bằng nhau chắp lại, lòng bàn tay phình
ra hình hoa sen búp).
4.
Sơ các liên hiệp chưởng (chắp tay 2 ngón cái và 2 ngón út dính lại, các ngón
kia hở ra, giống như hoa sen hàm tiếu).
5.
Hiển lộ hiệp chưởng (hai bàn tay chạm đầu, ngửa lên).
6.
Trì thủy hiệp chưởng (hai tay cũng ngửa lên như trước, dáng khum lại như đang
vốc nước).
7.
Quy mạng hiệp chưởng, còn gọi Kim cang hiệp chưởng (đặt ngón của bàn tay mặt
lên trên ngón của bàn tay trái).
8.
Phản xoa hiệp chưởng (hai tay chắp ngược đầu nhau đặt tay phải lên tay trái).
9.
Phản tịch (bối) hổ tương trước hiệp chưởng (lưng 2 bàn tay đâu nhau, tay
phải để ngửa trên lưng bàn tay trái ).
10.
Hoành trụ chi hiệp chưởng (hai bàn tay nằm ngửa, đầu 2 ngón trỏ đụng nhau).
11.
Phúc thử hướng hạ hiệp chưởng (hai bàn tay nằm úp, đầu 2 ngón trỏ đụng nhau).
12.
Phúc thủ hiệp chưởng (hai bàn tay úp xuống hai ngón cái chạm nhau).
Mười
hai loại hiệp chưởng nầy đều có ý nghĩa sâu xa khác nhau.
8. Tại sao khi cúng vong
tụng chú biến thực biến thủy?
Hỏi: Tại sao khi cúng vong hoặc tiến linh cho các
bậc Tôn Sư, lại đọc 2 bài chú: Biến Thực và Biến Thủy. Xin hỏi, điều nầy có ý
nghĩa gì?
Đáp: Biến thực chân ngôn hay biến thực chú,
hoặc biến thực đà la ni, đây là thần chú biến hóa thức ăn để cúng thí cho chư
thiên và ngạ quỷ. Về nguyên nhân có ra thần chú nầy, theo Từ Điển Phật Học Huệ
Quang quyển 1 trang 752 có ghi như sau: “Kinh Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà
La Ni có nói: Phật thuyết pháp ở Tăng già lam ni câu luật na thành Ca tỳ la.
Lúc bấy giờ, Tôn giả A Nan ngồi một mình nơi thanh vắng tu tập thiền định. Sau
canh ba, chính Tôn giả A Nan thấy một ngạ quỷ Diệm Khẩu, thân hình xấu xí khô
gầy, trong miệng lửa cháy, yết hầu nhỏ như đầu kim, tóc rối, răng móng dài nhọn
rất đáng kinh sợ.
Ngạ
quỷ ấy bảo A Nan rằng: Sau 3 ngày nữa A Nan sẽ chết và cũng đọa vào trong loài
ngạ quỷ. A Nan sợ hãi liền hỏi phải làm cách nào để được thoát khổ? Ngạ quỷ
Diệm Khẩu bèn chỉ rõ cho A Nan: Nếu cúng thí vật thực cho vô lượng ngạ quỷ cùng
trăm ngàn Bà La Môn Tiên (là một loại tiên trong loài quỷ) và cúng dường Tam
Bảo rồi hồi hướng công đức cho chúng để chúng được sanh lên cõi trời và người
ấy được tăng thêm tuổi thọ. Tôn giả A Nan liền đến chỗ Phật, đem việc ấy bạch
lên và cầu xin Phật chỉ dạy. Đức Phật vì ngạ quỷ Diệm Khẩu tuyên nói Đà la ni
biến thực chân ngôn có vô lượng oai đức tự tại quang minh thù thắng diệu lực.
Theo
Tiêu Thích Kim Cang Khoa Nghi Hội Yếu Chú Giải 2 thì hành giả niệm chân ngôn
nầy được 3 biến, 7 biến hoặc 21 biến thì nhờ thần lực của chân ngôn, các vật
cúng tự nhiên biến thành các món ăn ngon của chư thiên, món nào cũng đều rất
nhiều như cả núi Tu Di. Thực hành phép biến thực nầy, trước dùng Tịnh pháp
giới
chân ngôn chữ “Lam” và bắt ấn kiết tường gia trì 21 biến để làm cho thức
ăn được thanh tịnh, kế đó niệm Biến thực chân ngôn rồi sau niệm Phổ cúng dường
chân ngôn (Đại 92, 137 hạ) Án, nga nga nẳng, tam bà phạ, phiệt nhật ra
hồng".
Ngoài
ra, theo bộ Oánh Sơn Hòa Thượng Thanh Qui hạ của Nhật Bản thì có thêm chân ngôn
rảy nước trì tụng trong hội cúng thí cho ngạ quỷ (Đại 82, 446 trung) là: Nam mô
tát phạ đát tha nga đa, phạ lồ chỉ đế, án, tam bạt ra, tam bạt ra hồng.
9. Tại sao đưa linh cữu
còn ghé thăm nhà?
Hỏi: Những người
tu tịnh nghiệp theo pháp môn niệm Phật, mục đích là để cầu sanh Cực Lạc. Muốn
như thế, người tu, ngoài việc niệm Phật ra, còn cần phải có tâm niệm xả ly
luyến ái duyên trần. Thế nhưng, không hiểu sao, người tu tịnh nghiệp khi qua
đời lúc đưa linh cữu thiêu hay chôn, tôi thường thấy hay ghé lại nhà để viếng
thăm gia cảnh lần cuối. Xin hỏi: Điều nầy có trái với bản nguyện xả ly để cầu
sanh Tịnh Độ hay không?
Đáp: Vấn đề nầy, xin được giải thích qua hai
phương diện:
Về
phương diện đời, tức Thế tục đế mà nói, thì điều nầy không có gì trái với lẽ
đạo thường tình. Nói rõ hơn là rất phù hợp với tập tục văn hóa cổ truyền của
người Việt Nam. Theo quan niệm của tổ tiên chúng ta thì, con người sống có cái
nhà, thác có cái mồ. Vì vậy, nhà cửa đối với người Việt Nam rất là quan trọng.
Làm chi thì làm, việc đầu tiên là phải có căn nhà trước đã. Vì thế mới có câu
nói là an cư lạc nghiệp.
Khi
còn ở Việt Nam, phần nhiều là người bệnh qua đời ở tại nhà. Dù có chết tại bệnh
viện đi chăng nữa, thì thân quyến của người quá cố nhứt quyết là phải chở người
thân của họ đem về quàn tại nhà để lo việc ma chay tang lễ. Nhưng ngược lại, ở
Úc nầy thì có khác. Người chết phần nhiều là ở trong bệnh viện rồi sau đó người
ta đưa thi thể vào nhà quàn.
Bởi
thế, thi thể ít khi quàn tại nhà, vì có nhiều lý do bất tiện. Bởi vậy, nên khi
đưa linh cữu đi thiêu hay chôn, thì thân quyến của người chết (hoặc có sự di
chúc của người chết) hay cho linh xa ghé nhà để cho hương linh thăm nhà lần
cuối cùng. Tuy nhiên, điều nầy, nếu đứng về phương diện đạo lý giải thoát mà
nói, nhứt là đối với những người tu tịnh nghiệp với bản nguyện là sau khi xả bỏ
báo thân nầy nguyện sanh về cõi Cực lạc, thì việc làm nầy không mấy hợp lý. Lý
do tại sao ? Bởi có nhiều lẽ. Xin đơn cử một vài việc:
Thứ
nhứt, trái với bản nguyện lúc sanh tiền. Vì bản nguyện của người chuyên tu tịnh
nghiệp với một tâm nguyện tha thiết là sau khi bỏ báo thân nầy nguyện sanh về
Cực lạc. Đó là một nguyện vọng thiết tha duy nhứt của người chuyên tu tịnh
nghiệp. Đã có một bản nguyện thiết tha như thế, thì đối với việc nhà cửa của
cải vật chất, tất cả chỉ là những thứ phù vân hư huyển có gì quan trọng đâu mà
luyến tiếc viếng thăm. Vả lại, khi viếng thăm cũng đâu có mang theo được vật
gì, chỉ làm tổn hại chướng duyên cho bản nguyện cầu vãng sanh Cực Lạc mà thôi.
Thứ
hai, làm cho hương linh mất chánh niệm khởi tâm luyến ái. Kinh dạy: “Niệm
bất nhứt, bất sanh Tịnh Độ. Ái bất nhiễm, bất sanh Ta Bà”. Chánh niệm hay
tịnh niệm đối với người mới lâm chung thật là quan yếu. Khi chúng ta đưa họ trở
về nhà thăm lại những kỷ niệm mà hằng ngày họ thường ưa thích, chắc gì họ không
khởi niệm luyến tiếc. Hơn nữa, theo trong Kinh nói, những người chưa phải là
cực thiện hay cực ác, thì phải rơi vào thân trung ấm, tất nhiên thần thức của
họ rất là yếu đuối.
Chúng
ta chẳng những không trợ duyên hộ niệm cho họ thức tỉnh, mà còn gây cho họ một
thuận duyên ái nhiễm tham trước như thế, thì thử hỏi làm sao mà họ siêu thoát
cho được ? Chúng ta nên nhớ, Phật dạy, tâm tham ái là đầu mối của sanh tử,
chính nó là động cơ thúc đẩy thần thức tạo nghiệp để thọ khổ. Vì vậy, nếu trong
thân quyến thật sự thương thân nhân ruột thịt của mình, hãy nên nghe theo lời
Phật Tổ dạy mà suy xét lại. Nếu là liên hữu, thì càng nên cẩn trọng trong việc
dặn dò con cháu làm điều nầy. Vì nó chỉ có tác hại thêm, chớ không có lợi lạc
gì cả.
Mong
quý liên hữu nên bình tâm suy xét cho thật kỹ. Không ai thấy rõ sự lợi hại bằng
chư Phật chư Tổ. Phật Tổ đã dạy như thế, thì chúng ta chớ nên làm trái ngược
lại, mà phải chiêu cảm quả khổ. Chừng đó, dù có kêu than khóc lóc đến đâu, Phật
Tổ cũng không thể nào cứu chúng ta được. Chi bằng tốt hơn hết là tránh nhân khổ
thì không bao giờ gặt hái quả khổ. Mong lắm thay !
Thứ
ba, là trái với việc hộ niệm. Việc hộ niệm, tức trợ giúp cho người sắp lâm
chung giữ được chánh niệm hay tịnh niệm thật là hết sức quan trọng. Trong gia
đình, nếu có người bệnh sắp lâm chung, thì tất cả thân quyến, bạn bè có đến
thăm nên vì người bệnh mà hết lòng niệm Phật. Trường hợp ở xứ Úc nầy, việc hộ
niệm trực tiếp có phần khó khăn. Vì phần nhiều bệnh nhân khi bệnh nặng đều phải
nằm bệnh viện để điều trị. Do đó, mà việc hộ niệm của thân quyến hay bạn bè có
phần trở ngại. Tuy nhiên, chúng ta nên khéo quyền chước phương tiện bằng cách
là mở băng nhựa niệm Phật cho bệnh nhân vừa đủ nghe. Bệnh nhân nghe liên tục
như thế, thì rất là có lợi, vì dễ được định tâm niệm phật theo.
Đó
là một phương tiện hộ niệm rất tốt. Đó là nói, khi người bệnh còn có chút tỉnh
táo. Nếu như sau khi lâm chung rồi, trong những ngày đầu khi chưa thiêu hay
chôn, thì việc hộ niệm vẫn rất cần thiết để giúp cho hương linh. Hoặc niệm
phật, hoặc tụng kinh, hoặc dùng những lời thức nhắc cho hương linh tỉnh giác,
gắng dằn lòng chớ nên bi lụy khóc than mà gây tổn hại cho hương linh. Nhờ thế,
mà hương linh có phần nào hồi tâm chuyển ý, cộng thêm tập khí tu niệm hằng ngày
khi còn sống, thì hương linh mới sớm được siêu thoát. Ngược lại, đằng nầy,
chẳng những chúng ta không thiết thiệt hộ niệm như thế, mà còn tạo cho hương
linh một sự ái nhiễm tham đắm nhà cửa của cải, thì quả thật đó là một tai hại
vô cùng.
Tóm
lại, việc đưa hương linh ghé thăm nhà lần cuối qua câu hỏi của người hỏi, chỉ
giới hạn trong phạm vi của người tu tịnh nghiệp, thì chúng tôi cũng chỉ trả lời
góp chút thành ý trong phạm vi đó thôi.
Mong
rằng, những liên hữu đang tu tịnh nghiệp, xin quý vị cần nghiệm xét kỹ lại, để
cho việc cầu vãng sanh của mình không bị trở ngại. Điều nầy, ta cần phải chọn
và quyết định một trong hai. Nếu thuận theo duyên đời, thì rất trở ngại cho
việc vãng sanh của mình. Nếu theo bản nguyện của mình, thì đương nhiên là trái
lại với đời. Chúng ta là người tu hành trọn đời chỉ có một việc làm là niệm
phật cầu vãng sanh Cực lạc để thoát kiếp khổ đau luân hồi trầm luân nơi biển
ái, thì thà chấp nhận trái với đời hơn là trái mất bản nguyện của mình.
Còn
một điều ích lợi thực tế hơn nữa là không làm mất thời giờ của những thân hữu
tiễn đưa. Và như thế, thì hương linh càng tăng thêm phước. Bởi nếu vì mình mà
họ phải mất thời giờ, thì mình sẽ bị tổn phước. Đó là điều ích lợi thực tế
thiết thực.
Trên
đây, chỉ là những thành tâm góp ý của người giải đáp dựa theo kinh điển Phật Tổ
chỉ dạy, còn việc chọn lựa quyết định thì tùy ở nơi mỗi người.
10. Vấn đề bản ngã thật
giả thế nào?
Hỏi: Trong
Phật giáo, khi thì nói cái ngã không thật, khi lại nói cái ngã chơn thật. Lắm
khi lại còn đề cao cái ngã cho là độc tôn duy nhứt nữa. Như khi Phật mới ra đời
có nói câu: “Thiên thượng thiên hạ, duy Ngã độc tôn”. Tại sao đồng là ngã, khi
nói thật, khi nói không thật. Như vậy có mâu thuẫn chống trái nhau không ?
Đáp: Không có gì chống trái nhau cả. Chữ ngã
là đọc âm Hán tự, có nghĩa là tôi, ta, hay mình v.v... Để bạn hiểu rõ hơn về
chữ ngã, tôi xin trích một đoạn về phần định nghĩa chữ ngã trong bộ Từ Điển
Phật Học Huệ Quang Tập 5: “Ngã nguyên nghĩa là hô hấp, chuyển thành nghĩa
sanh mạng, tự kỷ, thân thể, tự ngã, bản chất, tự tánh, hoặc chỉ chung cho chủ
thể độc lập vĩnh viễn, tiềm ẩn trong nguồn gốc của tất cả vật và chi phối cá
thể thống nhất. Đây là một trong các chủ đề trọng yếu nhất thuộc thế giới tư
tưởng Ấn Độ”.
Phàm
nói ngã phải hội đủ ba yếu tố: “Chủ tể, thường nhứt và tự tại”. Cái
ngã mà Phật giáo phủ nhận hay chủ trương vô ngã, đó là chỉ rõ cái ngã do quan
hệ nhân duyên kết hợp. Đã do nhân duyên kết hợp, tất nhiên là nó không có chủ
tể, không thường nhứt và không được tự tại. Như cái thân xác mà chúng ta đang
mang đây, nhà Phật gọi là cái thân giả tạm, bởi do ngũ uẩn kết hợp. Ngũ uẩn đó
là: Sắc, thọ, tưởng, hành thức. Sắc chất thuộc về phần tứ đại, tức gồm có 4
nguyên tố tụ hợp tạo thành. Như đất, nước, gió, lửa. Bốn thứ nầy kết hợp trong
nhu cầu cưỡng ép. Bởi thế, nên chúng thường chống trái nhau và chính vì thế,
nên chúng ta thường hay đau yếu luôn luôn.
Đấy
là phần kết hợp vật chất. Còn về phần tinh thần hiểu biết, cũng do bốn thứ kết
hợp: Thọ, tưởng, hành, thức. Thọ là sự cảm nhận vui hoặc buồn, hoặc không vui
không buồn. Tưởng là nhớ lại những việc đã qua hay tưởng tượng đến những việc
sắp đến. Hành là sự biến đổi từng sát na của dòng tâm thức. Thức là sự phân
biệt phải trái tốt xấu v.v... Bốn thứ nầy cấu tạo thành hiện trạng tâm lý.
Như
vậy, mỗi thân thể chúng ta được cấu tạo bởi hai phần: Vật chất và tinh thần. Đã
nói cấu tạo, tất nhiên, là phải do nhiều thứ hợp lại, đã có hợp, tất phải có
tan. Đó là một định lý duyên sinh bất di bất dịch. Do đó, mà nhà Phật gọi thân
nầy là vô ngã (Bởi do nhiều yếu tố hợp thành tạm bợ không thật). Ngược
lại, cái ngã mà nhà Phật gọi là Chơn Ngã tức là cái “Ta” chơn thật.
Nói
đến cái Ta là chỉ cho chủ thể mạng sống. Nhưng mạng sống có hai: Giả tạm và
vĩnh hằng. Mạng sống giả tạm là mạng sống còn bị hệ thuộc trong phạm trù duyên
sinh nhân quả. Còn mạng sống vĩnh hằng, thì vượt ngoài phạm trù duyên sinh nhân
quả đối đãi. Mạng sống nầy, trong nhà Phật nói, có nhiều tên gọi khác nhau. Như
Chơn Ngã, Pháp Thân, Phật Tánh, Niết Bàn, Bản Lai Diện Mục, Chơn Lý Tuyệt Đối
v.v...
Đó
là một thực thể bất sinh bất diệt. Câu nói: “Thiên thượng thiên hạ, duy
ngã độc tôn”. Chữ Ngã đây là chỉ cho Chơn Ngã, chớ không phải là cái ngã
tầm thường do nhân duyên kết hợp. Ta không nên hiểu lầm cho rằng Phật tự cao tự
đại, nêu cao cái bản ngã của mình là trên hết. Chữ Ngã nầy là một trong bốn đức
tánh Niết Bàn mà trong Kinh Đại Bát Niết Bàn Phật đã nêu ra: Chơn Thường,
Chơn Lạc, Chơn Ngã, Chơn Tịnh.
Trong
Kinh Kim Cang Bát Nhã có bài kệ :
Nhược
dĩ sắc kiến ngã
Dĩ
âm thanh cầu ngã
Thị
nhơn hành tà đạo
Bất
năng kiến Như Lai.
Tạm
dịch :
Nếu
người nào dùng sắc thấy ta
Dùng
âm thanh cầu ta
Người
ấy hành đạo tà
Không
thể thấy được Như Lai.
Muốn
thấy được Như Lai phải thấy bằng cách nào? Không thể thấy bằng mắt thịt qua
hình ảnh sắc tướng của Phật (vì sắc tướng do duyên hợp, nên vô ngã) Cũng không
thể dùng tai nghe âm thanh của Phật mà cho là thấy Phật (vì tiếng cũng do duyên
hợp giả có) Như vậy, người nào chạy theo trên hình tướng hay âm thanh để tìm
phật, thì bị Phật quở là kẻ đó hành đạo tà, không bao giờ thấy được Phật.
Thế
thì, muốn thấy Phật, ta không thể thấy bằng mắt thịt mà phải thấy bằng tâm, tức
thầm nhận ra được cái thực thể hằng thanh tịnh sáng suốt, bất sanh bất diệt
trong mỗi con người của chúng ta, đó là thấy được Phật hay Như Lai. Như Lai ở
đây, ta phải hiểu là Phật pháp thân, chớ không phải là Phật báo thân. Mà Phật
pháp thân đó là tên khác của Chơn ngã hay Đại ngã. Người nào trực nhận được
tánh thể sáng suốt nầy, thì gọi người đó là ngộ đạo hay kiến tánh.
Tóm
lại, khi nói ngã không thật, tất nhiên, ta phải hiểu đó là cái ngã do nhân
duyên cấu tạo hợp thành. Tạm gọi là giả ngã (Giả có cái ta trống rỗng tạm sinh
hoạt trong một thời gian). Còn nói Chơn ngã, thì ta biết đó là cái Ngã
vượt ngoài duyên sinh đối đãi. Cái Ngã đó không hình, không tướng, tạm gọi là Chân
ngã hay Chân lý tuyệt đối v.v...
11. Ý nghĩa Phật bước đi
bảy bước.
Hỏi: Khi
đức Phật ra đời, Ngài bước đi bảy bước rồi dừng lại mà không bước tám bước hay
sáu bước, rồi trên mỗi bước lại có một hoa sen. Vậy xin hỏi: bảy bước là
tượng trưng cho ý nghĩa gì ?
Đáp: Vấn đề nầy
có nhiều thuyết giải thích khác nhau. Cho đến nay, người ta cũng chưa nhứt trí
là thuyết nào đúng. Vì mỗi thuyết có mỗi lập luận khác nhau. Có thuyết nói:
theo quan niệm của Phật giáo nói riêng và quan niệm của người Ấn Độ thuở xưa nói
chung, tất cả đều cho rằng: Sự hình thành của một thế giới là do sự cấu tạo của
nhiều hạt vi trần kết hợp lại. Nếu nói theo khoa học ngày nay là do nhiều
nguyên tử hay phân tử kết hợp. Từ những hạt vi trần nhỏ kết hợp lại thành những
vi trần lớn. Cứ như thế mà kết hợp dần lên thành ra một thế giới. Tuy nhiên, sự
kết hợp của những hạt vi trần nầy theo phương cách nào? Điều nầy, theo nhà Phật
nói, chính giữa có một cái hạt nhân chánh, rồi chung quanh có sáu hạt vi trần
phụ. Chung lại, theo danh từ chuyên môn của Phật giáo gọi là thất lân hư trần.
Tức là 7 hạt bụi rất nhỏ nhiệm gần như hư không kết hợp lại, nếu chẻ ra, thành
ra hư không.
Từ
thất lân hư trần hợp lại, thành một ngưu mao đầu trần (đầu lông con trâu). Từ
thất ngưu mao đầu trần hợp lại, thành một thố mao đầu trần (đầu lông con thỏ)
v.v..
Như
vậy, con số 7 có ra là do nhiều hạt bụi tạo thành. Nói rõ ra, là không có hạt
bụi nào tự nó đơn độc mà có, tất nhiên, là nó phải nhờ nhiều hạt bụi li ti khác
để tạo thành. Bởi thế, nên hình ảnh đức Phật khi mới giáng sanh, Ngài bước đi
bảy bước là để tiêu biểu cho Ngài bước đi khắp tất cả mọi nơi trên thế giới.
Đồng thời cũng để tiêu biểu cho pháp âm của Ngài nói ra vang dội khắp cả tam
thiên đại thiên thế giới. Còn hoa sen là tiêu biểu cho sự thanh khiết. Ý nói,
mặc dù đức Phật sanh ra trong cõi đời ô trược nầy, nhưng Ngài không bao giờ bị
nhiễm trần. Đó là vì nguyện lực của Ngài ra đời là để hóa độ chúng sanh vậy.
12. Phúng điếu người chết
có mắc nợ hay không?
Hỏi: Tôi
thấy có một vài đám tang trong giới Phật tử của mình, thân quyến có viết cáo
phó là: “Miễn Phúng Điếu”, (không nhận tiền) hỏi ra, thì họ nói: Nếu nhận
tiền, thì người chết phải mắc nợ. Vậy xin hỏi: nhận tràng hoa người ta phúng
điếu, thì người chết có mắc nợ hay không? Và nếu so sánh giữa tiền và tràng
hoa, thì cái nào có lợi ích thiết thực hơn?
Đáp: Nếu căn cứ theo luật nhân quả, thì phàm hễ
có vay, tất nhiên phải có trả. Nếu bảo nhận tiền, thì người chết mắc nợ, vậy
thì nhận tràng hoa, người chết không mắc nợ hay sao? Tràng hoa đâu phải tự
nhiên mà có, tất cũng phải dùng tiền để mua. Chẳng qua dưới một hình thức khác
thôi. Như vậy, bạn bè thân thuộc đến phân ưu phúng điếu, vì ai mà họ phúng
điếu, tất nhiên là vì người chết. Nếu không có người chết, thì họ đâu có phúng
điếu. Do đó, đương nhiên là người chết phải mang nợ.
Tuy
nhiên, vấn đề được đặt ra ở đây là, việc phúng điếu bằng tràng hoa phát xuất từ
đâu? Và có phải đó là một tập tục của người Việt Nam chúng ta hay không ?
Theo
chỗ chúng tôi được biết, thì việc phúng điếu bằng tràng hoa là do người Việt
mình ảnh hưởng người Tây phương. Vì người Tây phương họ rất yêu chuộng hoa
tươi. Chúng ta cũng không lạ gì, khi thấy họ đến thăm thân nhân hay bạn bè
thân, trên tay của họ thường có một bó hoa tươi. Đây là để biểu lộ tấm lòng
thân thương của họ. Đây cũng là một tập tục hay đẹp của họ. Do đó, nên người
mình bắt chước làm theo. Điều nầy, nếu xét theo phong tục xưa của ta, như trong
quyển Phong Tục Việt Nam của giáo sư Toan Ánh đã viết: “Phúng là lễ vật đi điếu
người chết, còn viếng nghĩa là thăm. Ta thường nói phúng viếng hoặc phúng điếu
nghĩa là đem lễ vật tới hỏi thăm nhà có tang.
Người
chết sau khi đã nhập quan và tang chủ đã làm lễ thành phục, con cháu khóc lóc,
bạn bè thân thuộc mới bắt đầu tới phúng điếu. Trước đó, cũng có người tới,
nhưng chỉ là để hỏi thăm và chia buồn cùng tang chủ chứ chưa có lễ viếng và
cũng chưa lễ trước linh cữu.
Lễ
phúng viếng thường là trầu cau trà rượu, hoặc những tay văn tự thì dùng những
bức trướng hoặc những đôi câu đối, trong nêu lên những đức hay tính tốt của
người chết.
Con
cháu cũng có câu đối để khóc ông bà cha mẹ. Những trướng đối của bạn bè thường
làm bằng lụa, bằng da màu xanh, vàng, trắng, còn những câu đối của con cháu chỉ
viết bằng chữ xanh hoặc chữ đen trên vải trắng.
Ở
thôn quê, người trong làng xã thường dùng tiền để phúng viếng, một cách trực
tiếp giúp đỡ thiết thực tang chủ trong lúc cần thiết v.v..." (Phong Tục
Việt Nam, Toan Ánh, trang 512, nhà xuất bản Đại Nam ).
Chúng
tôi trích dẫn những đoạn văn trên để chúng ta biết sơ qua về phong tục phúng
điếu của ông bà ta ngày xưa là như thế. Từ ngày người Tây phương có mặt ở xứ
ta, nhứt là trong thời kỳ chiến tranh có quân đội Mỹ, mỗi khi một quân nhân cấp
lớn tử trận, thì người chết sẽ được nhận những tràng hoa danh dự, tưởng niệm
thân thiết phúng điếu. Và cũng từ đó, người dân thành thị bắt chước theo hay
dùng hoa tươi hoặc hoa cườm để phúng điếu cho người chết.
Ngược
lại, ở thôn quê thì lại khác. Chúng ta thấy, trong làng xã có người mất, thì
người ta thường dùng tiền để phúng điếu. Đây là một hình thức trực tiếp giúp đỡ
cho tang chủ tiện bề chi dụng trong lúc cần thiết. (Người viết đã chứng kiến
nhiều đám táng ở thôn quê là như thế).
Đây
cũng là một tập tục rất hay và rất thực tế trong việc tương tế. Tổ tiên ta có
câu: “Nhứt gia hữu sự bá gia ưu”. Nghĩa là, một nhà có việc, thì trăm
nhà đều chung lo. Điều nầy, vừa nói lên tinh thần tương thân tương trợ của
người dân quê mộc mạc, cũng vừa nói lên tình đoàn kết keo sơn gắn bó tình tự
của một dân tộc hiền hòa.
Chính
vì tinh thần hỗ tương sớm tối có nhau nầy, nên ta thấy, ngoài việc bà con thân
hữu xúm xít nhau lại chung lo đám sám, họ còn nghĩ đến việc giúp đỡ tiền bạc
cho gia đình người chết có chút ít phương tiện để xoay trở tiêu phí trong việc
tang lễ. Vì vậy, ở thôn quê, ít có gia đình nào từ khước không chấp điếu. Vì họ
nghĩ, hôm nay mình nhận của người ta, thì mai kia mình sẽ đi trả lại. Giống như
một hình thức cho vay mà không lời vậy.
Tuy
nói là vì người chết, mà kỳ thật là vì giúp đỡ cho người sống. Nếu là người khá
giả, có đủ khả năng, thì họ sẽ đem số tiền mà bà con phúng điếu để làm những
việc từ thiện giúp ích cho xã hội hoặc cúng chùa v.v... Việc làm đó, hương linh
chẳng những không mắc nợ, mà còn được tăng thêm phước đức nữa. Còn nếu như
những gia đình nghèo không đủ khả năng chi dụng cho đám sám, thì tạm thời họ
dùng số tiền nầy để trang trải cho việc tang lễ, rồi sau đó, con cháu hoặc
người thân từ từ họ sẽ đi hoàn trả lại.
Như
thế, trên thực tế, ta thấy người chết như mắc nợ, nhưng xét cho cùng, thì đây
là một hình thức tương trợ lẫn nhau mà thôi. Theo tôi, đây là một hình thức
tương trợ vừa giữ được tập tục xưa mà cũng vừa ích lợi rất thực tế, nếu chúng
ta khéo sử dụng đồng tiền nầy vào những việc làm hữu ích cho xã hội.
Ngược
lại, đối với những tràng hoa, xét ra, chỉ tô điểm cho tang lễ thêm phần trang
trọng, chỉ dùng được một hai ngày, rồi sau đó khi đưa đám đến huyệt mộ hay đến
lò thiêu, thì những tràng hoa nầy cũng theo người chết mà vứt bỏ luôn, thật là
uổng phí! Chi bằng, nếu trong thân quyến e ngại sự nhận tiền phúng điếu của
bằng hữu, thì ta có thể làm theo phương cách mà Đại Đức Thích Phước Tấn trụ trì
chùa Quang Minh đã đề xướng một phương pháp phúng điếu mới, vừa có lợi ích
thiết thực cho xã hội mà cũng vừa đem lại sự lợi lạc cho hương linh.
Phương
pháp đó như thế nào? Nhân đám tang của phật tử Nguyễn Thị Hoàng Ánh, tịnh danh
là Tịnh Mẫn, là một liên hữu của Cực Lạc Liên Hữu Liên Xã Quang Minh Đạo Tràng,
Thầy kêu gọi quý Liên hữu phật tử mỗi người nhận một Tràng Hoa Công Đức. Tràng
hoa công đức nầy hình thức là một khổ giấy giống như phiếu công đức vậy. Thầy
in màu rất đẹp. Thầy trao phát cho những liên hữu phật tử nào đã phát tâm nhận
lãnh ghi vào. Ghi như thế nào? Có vị thì ghi sẽ hiến cúng 50 đô, hoặc 100 đô...
để gởi tặng cho các bệnh viện cô nhi, hoặc các bệnh viện cùi hay ung thư v.v...
Có
người thì hứa là sẽ tụng một bộ Kinh Pháp Hoa, có người thì phát nguyện mỗi đêm
niệm một ngàn câu hiệu Phật, có người thì phát nguyện làm bao nhiêu việc phước
thiện trong thời gian 49 ngày, tất cả những việc làm và những điều phát nguyện
trên, thảy đều hồi hướng cho hương linh sớm được siêu sanh Tịnh Độ.
Qua
việc đề xướng nầy, chúng tôi thấy quý liên hữu phật tử hưởng ứng rất mạnh mẽ.
Và mỗi người đem hết lòng thành của mình để thực hiện những điều mà mình đã
phát nguyện. Tất cả chỉ vì hương linh và cho hương linh. Đây mới thật là một
loại Tràng Hoa thật vô cùng quý giá. Âm vang của những việc làm nầy, như tụng
kinh, niệm phật, công quả, làm phước v.v... nó vẫn còn vang dội mãi cho đến
trải qua hết 49 ngày, chớ không như những đám khác, là khi bạn bè hay đồng đạo
đưa đám xong rồi, thì người chết sẽ đi vào trong quên lãng, không còn ai nhớ
biết đến để cầu nguyện dù đó là một câu hiệu phật.
Riêng
chúng tôi, chúng tôi nhận thấy điều nầy rất phù hợp với tinh thần vị tha của
Phật giáo và cũng rất phù hợp trong việc hộ niệm cho hương linh trong tinh thần
nhiếp tâm cầu nguyện, gọi là đức chúng như hải vậy.
Trên
đây, là góp chút thành ý của người phụ trách mục giải đáp nầy. Mong rằng tất cả
liên hữu, phật tử chúng ta, tưởng cũng nên suy xét lại cho thật kỹ, để chúng ta
có thể chuyển đổi qua một hình thức như Đại Đức Thích Phước Tấn đã làm vừa qua
trong đám tang của phật tử Nguyễn thị Hoàng Ánh. Qua đó, theo tôi được biết,
mọi người đều rất hoan hỷ tán đồng. Vì nó rất hữu ích cho cả hai: kẻ còn và
người mất đều được lợi lạc vậy.
13. Sự thờ Phật khác nhau
giữa Nam Bắc Tông Phật Giáo.
Hỏi: Cùng
tu theo đạo Phật, nhưng không hiểu sao giữa Phật giáo Nam Tông và Phật giáo Bắc
Tông lại thờ phụng Phật khác nhau ở trong các chùa. Bên Nam Tông thì chỉ thờ
duy nhứt một tượng Phật Thích Ca và các vị A la hán, giống người Ấn Độ. Ngược
lại, Phật giáo Bắc Tông, ngoài việc thờ đấng Trung Tôn đức Phật Thích Ca Mâu Ni
ra, còn thờ nhiều tượng Phật và Bồ tát khác nữa. Riêng hình tượng Phật Thích
Ca, thì quốc gia nào tạc tượng thờ giống người quốc gia đó. Xin hỏi: Tại sao có
sự khác biệt như vậy?
Đáp: Sở dĩ có sự thờ phụng khác biệt đó, là
do quan niệm về việc thờ phụng Phật của hai hệ phái khác nhau. Theo quan niệm
của Phật giáo Nam Tông, tức Phật giáo Nguyên Thủy, họ cho rằng, đức Phật Thích
Ca Mâu Ni là một con người bình thường như bao nhiêu con người bình thường
khác. Ngài cũng có những nhu cầu cho đời sống: ăn, mặc, ở v.v… và cũng chịu
chung một định luật vô thường chi phối, phải trải qua những nỗi thống khổ của
kiếp nhơn sinh là sanh, già, bịnh, chết. Tuy nhiên, Ngài chỉ khác hơn người
thường là ở chỗ, Ngài đã hoàn toàn giác ngộ, do sau khi xuất gia nỗ lực tu hành
mà thành đạt được đạo quả.
Ngược
lại, chúng sanh vì còn mê, nên tạo nghiệp thọ khổ trong vòng sanh tử luân hồi.
Phật đã thoát hẳn sanh tử luân hồi. Khác nhau ở điểm căn bản giữa mê và ngộ đó
thôi.
Theo
Nam Tông, thì ngoài đức Phật Thích Ca ra, không có một vị Phật nào khác. Do đó,
họ chỉ tôn thờ một hình tượng Phật Thích Ca và tạc hình tượng giống như người
Ấn Độ, bởi lẽ, Phật là người Ấn Độ đi tu thành Phật. Đó là một quan niệm dứt
khoát thực tiễn của hệ phái Phật giáo Nguyên Thủy, xuất phát từ bốn bộ kinh
Nikaya.
Ngược
lại, Phật giáo Bắc Tông (tức Phật giáo Phát triển hay Đại thừa), thì quan niệm
có khác. Theo Bắc Tông, thì đức Phật Thích Ca khác hơn người thường. Cái thân
của Phật, đó chỉ là cái ứng thân hay hóa thân thị hiện mà thôi. Vì muốn độ
chúng sanh, nhứt là loài người, nên đức Phật mới thị hiện ở nơi loài người để
tiện bề giáo hóa họ. Kỳ thật, thì đức Phật đã thành Phật từ vô lượng kiếp rồi.
Vì Bắc Tông quan niệm rằng, mỗi chúng sanh đều có Phật tánh hay pháp thân, mà
pháp thân thì lặng lẽ, không sanh, không diệt, trùm khắp cả pháp giới. Bởi thế,
nên không nơi nào, xứ nào mà chẳng có Phật. Cái thân Phật thị hiện người Ấn Độ,
chỉ là trong một giai đoạn tạm thời trong muôn triệu giai đoạn, một hóa thân
trong muôn triệu hóa thân.
Qua
đó, thì đức Phật Thích Ca không hẳn là người Ấn Độ mà là người của tất cả chúng
sanh. Vì tùy duyên ứng hiện hay hữu cảm tất ứng, nên người nước nào tưởng nhớ
Phật, thì Phật hiện người nước đó để giáo hóa. Những vị Phật khác cũng thế, các
Ngài hỗ tương để hóa độ chúng sanh và đồng thời giới thiệu công hạnh cho nhau.
Như
đức Phật Thích Ca giới thiệu nhân địa và công hạnh của đức Phật A Di Đà ở cõi
Tây phương Cực lạc, cho chúng sanh cõi nầy được biết, để niệm danh hiệu
Ngài mà cầu sanh về cõi đó. Đến chư Bồ tát cũng thế, các Ngài thị hiện
khắp các cõi. Bất cứ nơi nào có chúng sanh đau khổ, khẩn cầu cứu độ, thì các
Ngài thị hiện để cứu khổ. Đó là bản hoài của các vị Bồ tát, dù ở cõi Ta bà nầy
hay ở những quốc độ khác, như Bồ tát Quán Thế Âm chẳng hạn.
Đồng
thời, các vị Bồ tát cũng trợ lực cùng với chư Phật để độ sanh, mỗi vị đều có
những công hạnh thù thắng đặc biệt. Bởi do quan niệm như thế, nên chúng ta thấy
các nước Phật giáo theo hệ phái phát triển (Đại thừa), mỗi quốc gia đều tạc
hoặc tô vẽ hay đúc hình tượng Phật Thích Ca, đều có những nét giống người của
họ; vì như thế mới thực sự là Phật giáo của họ, vì mỗi người đều có ông Phật
của riêng mình. Và như thế, mới thực sự thân thiết gần gũi, dễ cảm hóa. Đây
cũng là một sắc thái văn hóa đặc thù. Vì vậy, nên các chùa Phật giáo Bắc Tông
đều tôn thờ nhiều vị Phật và nhiều vị Bồ tát.
14. Ý nghĩa tràng hạt.
Hỏi: Là
một phật tử tu theo pháp môn niệm Phật, con thường lần tràng hạt để niệm Phật.
Tuy nhiên, thú thật là con chưa hiểu rõ ý nghĩa của nó như thế nào. Tại sao
phải xâu kết làm 108 hạt, mà không phải là 107 hay 109? Như vậy, 108 có ý nghĩa
gì? Và tại sao khi niệm Phật, tay cần phải lần chuỗi? Nó có công dụng gì cho
việc diệt trừ phiền não không?
Đáp: Tràng hạt là một
phương tiện trong muôn ngàn phương tiện khác. Trong Phật giáo có vô số phương
tiện. Mọi hình thức pháp khí hay vật thể đều là những phương tiện. Tuy nhiên,
không phải vô cớ mà người ta bày ra. Dĩ nhiên, mỗi một hình thức của một vật
thể đều có một ý nghĩa biểu trưng đặc biệt của nó.
Thí
dụ như cái mõ, cái chuông, cái trống v.v… Điều quan trọng cần nêu ra là: Nương
phương tiện để đạt cứu cánh, tức như nhờ nôm mà bắt được cá, nhờ ná mà bắn được
chim. Nếu nói theo cung cách ngôn ngữ của nhà Thiền thì “kiến sắc minh
tâm”. Nói cách khác là: “nương sự để hiển lý, sự lý phải viên
dung”. Đó là cái chủ đích chính yếu mà Phật giáo nhắm tới và đó cũng là
thái độ khôn khéo của người tu học Phật.
-
Câu hỏi thứ nhứt là tại sao người ta xâu chuỗi kết 108 hạt mà không phải 107
hay 109 ?
Xin
thưa: sở dĩ có con số 108, là vì người ta đem 6 căn, 6 trần và 6 thức cộng
lại, thành ra thập bát giới (18) rồi nhân cho 6 món căn bản phiền não (tham,
sân, si, mạn, nghi, ác kiến) thành ra có con số là 108 (18 x 6 = 108). Tuy
nhiên, ở đây, chúng tôi cũng xin được giải thích thêm một chút về con số 108
tượng trưng nầy.
Như
chúng ta đều biết, trong khế kinh Phật có dạy, sở dĩ chúng sanh cứ trôi lăn mãi
trong vòng sanh tử luân hồi, gốc từ ở nơi vô minh. Mà vô minh có ra, gốc từ ở
nơi căn, trần và thức. Thường gọi chung là Thập bát giới.
Ba
thứ nầy, nếu xét kỹ, thì chúng ta thấy, lỗi là ở nơi căn và thức, chớ trần (6
trần cảnh: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) không có lỗi gì cả, vì chúng chỉ
là đối tượng nhận thức của căn và thức mà thôi. Khi căn (tức 6 căn: nhãn, nhĩ,
tỷ, thiệt, thân, ý) tiếp xúc với trần (6 trần nói trên) khởi thức (6 thức nói
trên) phân biệt. Khi ý thức phân biệt lại cộng thêm 6 món căn bản phiền não
vào. Nói rõ hơn là 6 món căn bản phiền não nói trên, chúng hợp tác cùng chung
làm việc với Ý thức một cách rất chặt chẽ, đắc lực, nên mới có phân biệt tốt
xấu, rồi sanh tâm yêu ghét. Cái niệm yêu ghét phát sanh là gốc từ ở nơi:
tham, sân, si. Đây là đầu mối của vô minh phiền não (vọng tưởng) .
Từ
đó, mới tạo nghiệp để thọ khổ. Nếu nói một cách nghiêm khắc và ngắn gọn hơn
nữa, thì như kinh Lăng Nghiêm, Phật có nêu ra: “luân hồi hay giải
thoát, gốc từ ở nơi 6 căn mà ra”. Như vậy, cho chúng ta thấy rằng, ba thứ
nầy tối hệ trọng mà mỗi hành giả cần phải thẩm sát thật kỹ để đoạn trừ phiền
não. Mà muốn đoạn trừ phiền não, thì hành giả cần phải có phương tiện, hay một
pháp môn hành trì. Đối với người tu tịnh nghiệp, thì Phật Tổ đều dạy cần phải
niệm Phật. Mà pháp môn niệm Phật, để đi đến nhứt tâm, thì bước đầu cần phải có
phương tiện để cột tâm. Phương tiện đó, ngoài câu niệm Phật ra, còn cần phải có
thêm tràng hạt để lần từng hạt theo mỗi câu hiệu Phật làm chuẩn cứ trong khi
niệm Phật công cứ vậy.
-
Đến câu hỏi thứ hai, tại sao khi niệm Phật, tay phải lần chuỗi?
-
Xin thưa rằng: không phải nhứt thiết ai niệm Phật cũng lần chuỗi cả. Điều nầy,
còn tùy theo căn tánh và thói quen của mỗi người. Tuy nhiên, đối với những liên
hữu nào đã phát nguyện niệm Phật công cứ, theo lời chư Tổ Liên tông đã chỉ dạy,
thì cần nên lần chuỗi để tiện bề đếm số đúng như lời mình đã phát
nguyện. Bởi vì đối với những người sơ cơ, nhiều nghiệp chướng như chúng
ta, tâm chưa thuần nhứt, còn dẫy đầy vọng tưởng tạp loạn, thì tốt hơn hết nên
dùng phương tiện tay lần chuỗi, để khi niệm Phật dễ cột tâm hơn, như trên đã
nói. Hơn nữa, chúng ta cũng thường nghe nói, người tu tịnh nghiệp, thì tam
nghiệp (thân, khẩu, ý) cần phải giữ thanh tịnh. Tay lần chuỗi thuộc về thân
nghiệp, miệng niệm Phật thuộc về khẩu nghiệp, ý chuyên chú vào câu hiệu Phật
không rời ra, thuộc về ý nghiệp. Rồi cũng trong kinh nói:“Tam nghiệp hằng thanh
tịnh, đồng Phật vãng Tây phương”. Như vậy, tay lần chuỗi cũng là mục đích để
ghi nhớ mỗi một hạt chuỗi là niệm một câu hiệu Phật, đồng thời cũng là để ghi
nhớ số không lộn lạo vậy.
-
Đến câu hỏi thứ ba, nó có công dụng gì cho việc diệt trừ phiền não không?
Xin
thưa: đương nhiên là có. Như trên đã nói, công dụng của nó chỉ là một phương
tiện như muôn ngàn phương tiện khác. Người ta dùng nó để niệm Phật. Nhờ lần
chuỗi ghi số câu mà tâm ít tán loạn hơn. Tuy nhiên, điểm căn bản để diệt trừ
phiền não, chính là ở nơi cái tâm. Người niệm Phật, tay lần chuỗi mà tâm lăng
xăng, nghĩ xằng, tính bậy, chạy đông, chạy tây, thì đó chỉ là miệng niệm cho có
niệm, chứ không thể nào kết quả định tâm được.
Mục
đích chính của việc niệm Phật là để được định tâm. Vì niệm Phật là nhớ Phật,
đằng nầy Phật không nhớ, mà nhớ những chuyện tào lao khác, niệm như thế, thì
đâu có đúng ý nghĩa niệm Phật. Thế nên, muốn sớm mau hết phiền não, thì hành
giả phải giữ tâm và tiếng cho hợp nhất và phải thường xuyên khắn khít nhau,
đồng thời niệm câu hiệu Phật phải thật cho rành rõ. Trong quyển sách Hạ Thủ
Công Phu niệm Phật, Đại lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh có khuyến nhắc người niệm
Phật bằng một bài kệ như sau:
Nam mô
A Di Đà!
Không
gấp cũng không hưởn
Tâm
tiếng hiệp khắn nhau
Thường
niệm cho rành rõ
Nhiếp
tâm là định học
Nhận
rõ chính huệ học
Chánh
niệm trừ vọng hoặc
Giới
thể đồng thời đủ
Niệm
lực được tương tục
Đúng
nghĩa chấp trì danh
Nhứt
tâm Phật hiện tiền
Tam
muội sự thành tựu
Đương
niệm tức vô niệm
Niệm
tánh vốn tự không
Tâm
làm Phật là Phật
Chứng
lý pháp thân hiện
Nam Mô
A Di Đà!
Nam Mô
A Di Đà!
Cố
gắng hết sức mình
Cầu
đài sen thượng Phẩm.
15. Ý nghĩa bánh xe chuyển
pháp luân.
Hỏi: Nhìn
phù hiệu bánh xe có 12 căm, có người nói, đó là bánh xe luân hồi. Họ giải thích
12 căm là tượng trưng cho Thập nhị nhân duyên. Có người lại nói, đó là bánh xe
Chuyển pháp luân. Xin hỏi: Qua 2 điều nói trên, không biết điều nào đúng ?
Đáp: Nếu bảo điều nào đúng, thì chúng tôi
xin được thưa ngay: người nói bánh xe có 12 căm, tượng trưng cho bánh xe
luân hồi là đúng. Lý do tại sao? Tại vì giáo lý 12 nhân duyên từ “Vô minh đến
Lão tử” là một chuỗi xích, một vòng lẩn quẩn mà chúng sanh bị trói buộc
mãi trong “Tam giới lục đạo”. Muốn thoát khỏi hay cắt đứt chuỗi xích
trói buộc nầy, thì mỗi người cần phải đoạn trừ vô minh, vì nó là tên thủ phạm
chính gây ra đau khổ. Do đó, người ta dùng hình ảnh bánh xe có 12 căm để nói
lên cái ý nghĩa luân hồi mà con người cứ mãi trầm luân thọ khổ.
Còn
bánh xe chuyễn pháp luân, thì người ta làm bánh xe có 8 căm để tượng trưng. Con
số 8 là tượng trưng cho Bát chánh đạo. Bát chánh đạo gồm có: Chánh
kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh
niệm, Chánh định. Vì trong Tứ diệu đế ( Khổ, Tập, Diệt, Đạo), thì Bát
chánh đạo thuộc về Đạo đế. Đạo đế gồm có 37 phần hay phẩm, thường gọi là 37
phẩm trợ đạo. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo gồm có: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần,
Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần và Bát chánh đạo
phần. Trong 37 phẩm trợ đạo nầy, thì Bát chánh đạo là quan trọng hơn cả.
Vì đó là tám con đường đưa chúng sanh đến chỗ giác ngộ giải thoát. Nói cách
khác, đó là 8 phương pháp diệt khổ để đạt được Niết bàn an lạc ( Diệt đế ). Do
đó, để nhắc nhở mọi người luôn nhớ đến tám con đường quan trọng nầy, nên người
ta dùng bánh xe có 8 căm để biểu trưng cho ý nghĩa chuyển pháp luân vậy.
16. Chư thiên thỉnh Phật
thuyết pháp.
Hỏi: Ai
cũng biết, Đức Phật vì lòng từ bi, nên Ngài mới thị hiện ra đời để hóa độ
chúng sanh. Đã thế, thì lẽ ra, sau khi Ngài chứng quả đạt đạo rồi, phải đi
thuyết pháp hoằng hóa độ sanh ngay, chớ tại sao lúc đầu Ngài có ý là muốn nhập
diệt, rồi phải chờ đợi chư Thiên cung thỉnh Ngài, bấy giờ Ngài mới chiều theo ý
chư Thiên mà đi hoằng hóa. Xin hỏi: Như thế, thì có trái với bản nguyện hay bản
hoài ban đầu của Ngài khi ra đời không ?
Đáp: Xin thưa, không có gì là chống trái cả.
Đọc lịch sử đức Phật, chúng ta đều biết, sau khi đắc đạo dưới cội bồ đề, hẳn
nhiên, lúc đầu, Ngài có ý định nhập diệt. Lý do tại sao? Bởi vì, cái chân lý mà
Ngài mới thâm chứng, nó quá cao siêu. Trong khi đó, căn cơ của chúng sanh thì
quá nông cạn, nên khó có thể lãnh hội. Cho nên, lúc đầu, đức Phật có khởi ý
muốn nhập Niết bàn.
Điều
nầy, nếu xét kỹ, chúng ta thấy rất hợp lý. Hợp lý ở chỗ, cái mà đức Phật muốn
đem ra chỉ bày cho chúng sanh, thì nó quá siêu việt vượt hơn trí năng thường
tình của con người. Nếu nói ra, chắc gì họ hiểu được. Chẳng những không hiểu
thôi mà họ còn kích bác chống lại, thì đó là một điều thật tai hại vô cùng.
Thí
dụ một người vừa mới tốt nghiệp tiến sĩ, có thể nào ông ta đứng trước giữa một
đám người mà trình độ học vấn của họ chưa xong lớp tiểu học, để thuyết giảng
cái đề tài luận án tiến sĩ mà ông ta mới vừa đạt được không? Ông ta biết chắc
rằng, họ không thể nào nghe mà lãnh hội được. Do đó, ông ta không thể nào đứng
ra thuyết giảng. Dẫu ông có thuyết giảng, người nghe không hiểu, họ sẽ sanh tâm
chê bai khinh thường và tệ hơn nữa là họ sẽ chống đối kích bác. Như thế, nếu không
khéo ông sẽ là người có tội. Vì chính ông gây ra cho người ta có niệm khinh
chê. Dù rằng, trong lòng ông ta rất thương xót những người đó.
Đức
Phật cũng thế. Lúc đầu, Ngài cảm thấy rất khó khăn trong sự du thuyết hóa độ.
Điểm
thứ hai, một chân lý cao siêu như thế, không thể tự nhiên Phật rao bày thuyết
giảng. Bởi chung quanh Ngài toàn là ngoại đạo. Hơn nữa, nếu Ngài nói liền, e
rằng, người ta có ý khinh thường. Cái gì người ta khao khát mong muốn, thì
điều mình nói mới có giá trị. Thế nên, phải có người cung thỉnh, Phật mới
thuyết giảng. Đây là một khía cạnh tâm lý rất độc đáo, mà ta cần phải học.
Vào tai ra miệng, không khéo trở thành khua môi múa mép. Vì thế, sự cung
thỉnh của các vị Phạm thiên thật đúng thời và hợp lý.
Nhờ
vào sự cung thỉnh của các vị đó, bấy giờ đức Phật mới nghĩ đến phương cách giáo
hóa. Đồng thời, Ngài quán sát căn cơ để rồi Ngài sẽ theo thứ lớp mà hóa độ.
Những ai hữu duyên, thì Ngài độ họ trước. Và cuối cùng, Ngài không bỏ sót một
ai. Ngài chuyển hóa tất cả, không một giai cấp nào mà Ngài không độ họ. Như
thế, lòng từ bi của Ngài thật quá tràn trề. Vì đó là bản hoài của Ngài ra đời.
Một bản hoài như trong Kinh Pháp Hoa đã nói: Khai « tri kiến
Phật » cho tất cả chúng sanh. Và mục đích tối hậu của đức Phật là mong
muốn mọi người đều thể nhập Tri kiến Phật đó.
17. Vấn Đề Quỷ Thần.
Hỏi: Đạo
Phật là đạo giác ngộ. Mọi sự mê tín không bao giờ đạo Phật chấp nhận. Thế thì
xin hỏi: Tại sao chúng tôi thấy rãi rác trong các kinh lại có nêu ra các vị
Thần, như Thiên Thần, lâm Thần, thọ Thần, Quỷ, Thần v.v... điều nầy, có ý
nghĩa gì ? Có phải Phật giáo cũng tin có Quỷ, Thần mơ hồ hay không? Và có phải
Phật giáo cũng tin tưởng vào đa Thần giáo không?
Đáp: Xin thưa, Đạo Phật dứt khoát không bao
giờ chấp nhận việc mê tín Thần quyền, nhứt là những vấn đề tin nhảm nhí, theo
một niềm tin mù quáng, không được điều động bởi lý trí. Phật giáo cũng không
chủ trương lấy việc cúng tế Quỷ, Thần như là một điều van xin cầu khẩn để được
các vị Thần linh ban phước, giải khổ. Tuy nhiên, theo quan niệm của Phật giáo,
thì giữa vũ trụ bao la, thế giới vô lượng, và lẽ dĩ nhiên có vô số chúng sanh
xuất hiện dưới mọi hình thức tùy theo nghiệp quả của mỗi loài mà có ra thiên
hình vạn trạng sai biệt. Sự sai biệt đó, theo kinh điển của Phật giáo cho chúng
ta biết, thì tùy theo nghiệp nhân của mỗi loài đã tạo, nên quả báo thọ thân
chẳng đồng.
Như
có loài sống ở dưới nước, như tôm, cá v.v... Có loài ở trên không, như chư
Thiên... Có loài sống trên đất liền, như loài người và các loài động vật, thực
vật khác. Như thế, Quỷ, Thần cũng là một loại chúng sanh như vô số chúng sanh
khác. Vì vậy mà rãi rác trong các kinh điển của Phật giáo, tiêu biểu như Kinh
Địa Tạng chẳng hạn, trong đó, Phật nêu ra có nhiều loại Quỷ, Thần. Nhưng nêu ra
như thế, để nói lên nghiệp cảm sai biệt của mỗi chúng sanh trong thế giới lục
đạo luân hồi, chớ không phải Phật nêu ra như thế là có ý chấp nhận Quỷ, Thần có
quyền ban phước giáng họa, để rồi Phật khuyên mọi người nên tin tưởng cúng bái
Quỷ, Thần .
Điều
nầy là một điều tối kỵ trong Phật giáo. Kinh Phật còn cho chúng ta biết thêm về
thế giới quan, có chúng sanh hữu tình, có loài chúng sanh vô tình, có loài hữu
hình hữu tướng, có loài vô hình vô tướng vân vân và vân vân. Tất cả đều tùy
theo căn thức và nghiệp cảm mà có ra vô số sai khác. Như thế, thì không có một
chúng sanh nào cai quản chúng sanh nào, ngoại trừ sự hỗ tương sinh thành theo
luật nhân duyên nhân quả.
Do
đó, Đức Phật không bao giờ khuyên dạy bất cứ ai cầu xin nơi Quỷ, Thần, vì Quỷ,
Thần vẫn còn là một chúng sanh cũng vẫn đang chịu khổ như bao nhiêu chúng sanh
khác, chưa biết bao giờ thoát khỏi, nếu như Quỷ, Thần đó không biết hồi tâm
chuyển ý lo tu niệm.
Tóm
lại, theo giáo lý của Phật giáo, Phật giáo có nói đến các loại Quỷ, Thần, như
là một chúng sanh bị nghiệp cảm thọ báo mang hình hài nghiệp thức trong loài
đó, chớ Phật giáo không chấp nhận quyền năng của bất cứ vị Thần sáng tạo nào,
dù là nhất Thần, hay đa Thần cũng thế.
Hơn
thế nữa, Đức Phật chưa bao giờ khuyên đệ tử của Ngài tin tưởng vào Thần quyền.
Và cũng không bao giờ chấp nhận cho đệ tử của Ngài cúng bái, cầu khẩn van xin
điều nầy việc nọ với Quỷ, Thần. Nếu là đệ tử của Phật, đã quy y theo Phật giáo,
thì trong 3 điều quy y có một điều Phật răn cấm là không được quy y với Thiên,
Thần, Quỷ, Vật. Ngay cả như chư Thiên, người phật tử cũng không được nương tựa.
Lý do tại sao? Xin thưa, vì các vị trời cũng vẫn là một chúng sanh, nói rõ hơn,
họ với ta sánh vế thì ngang nhau, vì ta cùng họ đều là đệ tử của Đức Phật. Tất
nhiên là huynh đệ với nhau. Chẳng qua là họ hơn ta ở chỗ thọ dụng phước báo mà
thôi.
Nhưng
có một điều họ thua ta là không gặp Phật pháp để tu. Một khi họ hưởng hết phước
báo rồi, họ cũng phải trở lại nhơn gian để bắt đầu tu lại. Như thế luận cho
cùng cũng chưa biết ai hơn ai? Nói thế, để thấy các vị trời hơn phước ta một
bậc, thế mà Phật còn cấm người phật tử không được nương theo họ, hà tất gì đối
với các loại Quỷ, Thần là những vị kém phước báo hơn chư Thiên, thế mà ta lại
tin tưởng quy y với họ sao? Tin tưởng như thế, thì chỉ chuốc lấy thêm tai hại
cho ta mà thôi, vì chính mình đã đi ngược lại với giáo lý nhân quả Phật
dạy, và gởi gắm thân phận mình ở một nơi mơ hồ mông lung nào đó, mà quên đi
hạnh phúc hay khổ đau, tất cả đều do chính mình định đoạt lấy đời mình.
18. Sự khác biệt giữa Phật
Đản và Phật Lịch.
Hỏi: Giữa
Phật Lịch và Phật Đản khác nhau như thế nào ?
Đáp: Hai danh từ nầy khác nhau rất xa. Phật Lịch
là nói Phật nhập Niết Bàn. Còn nói Phật Đản là chỉ cho Phật ra đời. Căn cứ theo
lịch sử, thì kể từ khi Phật ra đời cho đến khi Phật Nhập Diệt là 80 năm, tức
ứng thân Phật sống được 80 tuổi. Do đó, nên mới có con số khác biệt giữa Phật
Đản và Phật Lịch.
Nói
Phật Đản là người ta tính thời gian từ lúc Phật ra đời cho đến nay (2007) là
2631 năm. Lý do tại sao có ra con số 2631 nầy ? Bởi vì Phật ra đời trước Tây
Lịch 624 năm (Theo tài liệu Phật Học Phổ Thông Khóa thứ nhứt, Bài thứ 2
nói về Lược Sử Phật Thích Ca Mâu Ni, do cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa biên
soạn) .
Năm
nay tính theo Tây Lịch là 2007 Đem con số 2007 nầy cộng với 624 thành ra là
2631 (2007 + 624 = 2631). Còn Phật Lịch, thì người ta đem con số 624 (trước Tây
Lịch) trừ đi 80 năm Phật tại thế, thành ra còn lại là 544 năm, rồi đem con số
544 cộng với 2007 thành ra là 2551. (624 - 80 = 544 + 2007 = 2551 ) Như vậy
tính theo năm nay là 2007, thì Phật Lịch là 2551 năm. Còn Phật Đản là 2631 năm.
19. Ý nghĩa những từ ngữ
diễn tả Phật ra đời.
Hỏi: Cùng
là nói lên ý nghĩa Phật ra đời, tiếng Anh chỉ dùng một từ là Buddha Birthday,
trong khi đó thì tiếng Việt của chúng ta lại dùng nhiều từ ngữ diễn tả quá, nào
là đản sanh, giáng sanh, thị hiện, xuất thế, lâm phàm, giáng trần
v.v...Vậy xin hỏi: ý nghĩa của mỗi từ ngữ nầy như thế nào? Và nó có giống
nhau hay là khác nhau?
Đáp: Qua câu hỏi nầy cho chúng ta thấy rằng,
ngôn từ của tiếng Việt ta rất là phong phú. Cùng một vấn đề, nhưng lại có rất
nhiều từ ngữ để diễn tả. Không phải như tiếng Anh chỉ có một từ ngữ để diễn tả
thôi. Thế thì, ta phải hãnh diện về ngôn từ của ta rất là giàu có về từ ngữ chớ
không phải nghèo nàn.
Những
từ ngữ diễn tả trên, về danh từ tuy có khác, nhưng về ý nghĩa của mỗi từ ngữ
thì không có khác mấy.
Danh
từ « đản sanh » là nói lên ý nghĩa sự ra đời của Đức Phật
nhằm đem lại cho muôn loài (trong đó loài người là quan trọng nhứt) một niềm
vui hân hoan xán lạn, và đồng thời cũng là để tô điểm cho cõi đời nầy thêm
nhiều hương hoa tươi đẹp.
Còn
chữ « giáng sanh » hàm có nghĩa là Đức Phật từ một nơi cao
xa mà xuống một chỗ thấp để sanh ra. Chữ « thị hiện », ý
nói rằng, Đức Phật tu hành đã thành Phật trải qua nhiều đời nhiều kiếp rồi, nay
vì muốn hóa độ chúng sanh ở cõi Ta bà nầy, nên Ngài giả đò hiện ra cái thân
hình bằng xương bằng thịt như bao nhiêu con người trần tục khác, (Nhưng có điều
khác là thân Ngài có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp) để cho Ngài dễ bề cảm hóa chúng
sanh mà thôi. Nên trong kinh thường gọi cái thân Phật thị hiện là ứng thân, tức
là một trong 3 thân Phật vậy.
Danh
từ « xuất thế » có nghĩa là ra đời. Chỉ cho Đức Phật vì
thương xót chúng sanh đang trầm luân trong biển ái vô minh nghiệp thức tràn đầy
khổ lụy, nên Ngài xuất hiện ở thế gian nầy để cứu độ họ chóng được giải thoát.
Còn
chữ « lâm phàm »: lâm là đến, phàm là chỉ cho cõi đời ngũ
trược ác thế nầy. Nghĩa là ý nói rằng, vì chúng sanh đang lăn lộn trong cõi đời
trược ác nầy, nên Đức Phật thương xót mà đến cõi nầy để độ họ.
Chữ « giáng trần » cũng đồng nghĩa như giáng thế hay giáng
sanh.
Tóm
lại, những từ ngữ mà chúng tôi tạm giải thích khái lược qua, chúng ta thấy
rằng, mỗi từ ngữ nó đều có mang một ý nghĩa đặc biệt của nó. Tuy phạm vi ý
nghĩa rộng hẹp có khác, nhưng tựu trung cũng đều nói lên ý nghĩa chỉ cho Đức
Phật ra đời để hóa độ chúng sanh. Hiện nay, danh từ Phật Đản là một danh từ rất
được thông dụng phổ cập trên thế giới, hầu hết mọi người đều hay nói đến.
20. Sự khác biệt giữa cúng
dường Tam Bảo Và Trai Tăng.
Hỏi: Sự
phát tâm cúng dường Tam Bảo và cúng dường Trai Tăng giống nhau và khác nhau như
thế nào?
Đáp: Xét chung, trên căn bản hay động cơ
chính yếu của sự phát tâm thì có phần nào giống nhau. Vì cả hai đều có tấm lòng
tốt và cả hai đều muốn gây tạo phước duyên với Tam Bảo. Như vậy là giống nhau
trên căn bản phát tâm lành.
Tuy
nhiên, nếu xét vi tế hơn, thì đôi khi cũng không giống nhau hẳn. Lý do tại sao?
Bởi vì sự phát tâm nầy còn tùy theo tâm địa khởi phát của mỗi người rộng hẹp
khác nhau, tức là cái chánh nhân gây tạo bất đồng, và lẽ đương nhiên khi kết
quả cũng bất đồng. Bất đồng ở điểm nào? Nếu khi phát tâm cúng dường mà tâm ta
phát khởi rộng lớn, vì lợi ích chúng sanh, muốn cho Tam Bảo mãi mãi được trường
tồn trên thế gian, để mọi người biết đến mà tu tạo phước đức, được an vui giải
thoát. Phát tâm như vậy, gọi là phát tâm rộng lớn. Và khi kết quả phước báo
cũng rộng lớn.
Ngược
lại, nếu khi cúng dường mà ta chỉ mong cầu chư Phật, Bồ tát gia hộ độ trì cho
bản thân mình hoặc cho gia đình mình được bình an. Đồng thời được mua may bán
đắt, nhà cửa giàu sang, con cái thành tài đỗ đạt, mọi sự đều được hanh thông
như ý muốn, người phát tâm cúng dường như vậy, gọi là phát tâm nhỏ hẹp, cộng
thêm có lòng tham muốn quá ích kỷ, chỉ nghĩ riêng cho mình và gia đình mình
thôi.
Do
sự phát tâm ích kỷ nhỏ hẹp đó, kết quả cái phước báo cũng rất là nhỏ hẹp. Đó là
điểm khác biệt vi tế ở nơi cái nhân khi phát tâm cúng dường. Đó là nói giống
nhau và khác nhau ở nơi tâm niệm cũng như giống nhau và khác nhau ở nơi mục
đích đạt được.
Còn
nếu xét trên hình thức, thì giữa cúng dường Tam Bảo và cúng dường Trai Tăng rất
khác nhau. Khác nhau như thế nào? Xin thưa, nói Tam Bảo gồm có Phật, Pháp và
Tăng.
Cúng
dường Phật Bảo là như thế nào? Về Phật, thì tuy rằng Đức Phật không còn
tại thế, nhưng để tưởng nhớ công ơn lớn lao mà Đức Phật đã giáo hóa chúng
sanh, nên người ta tạc tạo hoặc chạm đúc những hình tượng để tôn thờ. Do đó,
nên người Phật tử phát tâm ủng hộ tịnh tài để thỉnh tượng Phật thờ phụng trong
các chùa, hoặc xuất tiền thỉnh tượng Phật về thờ ở nhà v.v... đều được gọi là
cúng dường Phật Bảo.
Cúng
dường Pháp Bảo là như thế nào? Vì muốn cho chánh giáo của Phật mãi
được lưu truyền sâu rộng trên thế gian, nên người phật tử cùng nhau góp tiền
lại để in kinh ấn tống cho mọi người cùng tụng đọc, hiểu đạo mà tu hành, thì đó
gọi là hùng phước cúng dường Pháp Bảo.
Cúng
dường Tăng Bảo là sao? Nếu Phật, Pháp đã có mà không có chư Tăng, Ni những
bậc tu hành chơn chánh, để thay Phật hoằng truyền thuyết giảng giáo pháp của
Phật, thì người phật tử tại gia cũng không thể nào am hiểu được để ứng dụng tu
hành.
Thế
nên, người phật tử cần phải tu tạo phương tiện bằng cách Tứ sự cúng dường (y
phục, sàng tòa, thực phẩm và y dược) để cho chư Tăng Ni có thêm chút ít phương
tiện tu hành cũng như trong việc hoằng hóa. Đó gọi là cúng dường Tăng Bảo.
Nói
tóm lại, đây là cúng dường Thế Gian Trụ Trì Tam Bảo. Còn cúng dường Trai Tăng,
chỉ trong phạm vi nhỏ hẹp. Đây là người Phật tử noi theo tấm gương hiếu hạnh
của Tôn Giả Mục Kiền Liên, thiết lễ Trai tăng cúng dường để cầu siêu độ cho mẫu
thân của Ngài.
Buổi
lễ Trai tăng nầy, được các chùa thực hiện vào ngày rằm tháng 7 âm lịch hằng
năm, sau khi chư Tăng Ni làm lễ Tự Tứ mãn hạ. Từ đó, mới có lễ Trai tăng truyền
thống nầy. Do cớ đó, nên người Phật tử mỗi khi trong thân quyến của họ có người
thân qua đời, (thông thường đến 49 ngày cúng chung thất), thì họ thường hay
thiết lễ Trai tăng ở trong chùa hoặc ở tại nhà (thường là tổ chức Trai
tăng ở chùa nhiều hơn, vì có nhiều tiện lợi) để cầu siêu độ cho người quá cố.
Như vậy, buổi lễ nầy, những phẩm vật mà người phật tử dâng lên cúng dường chỉ
riêng chư Tăng Ni hiện tiền được quyền hưởng dụng. Nói rõ ra, những tài vật nầy
là thuộc quyền sở hữu cá nhân của những vị có mặt trong buổi lễ Trai tăng đó
thôi.
Điều
nầy, không có liên hệ gì đến phần cúng dường Tam Bảo như đã nói ở trên. Phần
trên là phần chung, thập phương tăng đều có quyền hưởng dụng. Còn phần nầy là
phần riêng của mỗi người. Mặc dù trong Tam Bảo có cúng dường tăng, nhưng đây
cũng là của chung của Tam Bảo mà chư Tăng Ni không có quyền xử dụng tài vật đó
cho riêng mình, ngoại trừ Phật tử ủng hộ riêng thì được. Đó là điểm khác biệt
giữa cúng dường Tam Bảo và cúng dường Trai Tăng đại khái là như thế.
21. Người tăng sĩ lấy họ
Thích từ lúc nào?
Hỏi: Tại
Việt Nam, tất cả tu sĩ Phật giáo không phân biệt nam nữ đều lấy họ Thích. Xin
cho biết truyền thống nầy chỉ có ở Việt Nam hay còn được áp dụng tại một vài
quốc gia khác nữa? Ngoài ra, cũng xin cho biết truyền thống nầy phát xuất từ
nguyên do nào và từ khoảng nào trong lịch sử?
Đáp: Về câu hỏi
thứ nhứt, xin được giải đáp qua 2 phương diện :
Thứ
nhứt, xét chung, trên nguyên tắc, thì không riêng gì tu sĩ Phật giáo Việt Nam,
mà tất cả tu sĩ Phật giáo khắp nơi trên thế giới, đều mang chung họ Thích cả.
Vì Đức Phật là họ Thích. Những vị nầy được mệnh danh là con đầu lòng của chánh
pháp; là trưởng nam của lịch sử truyền thừa, là con của đấng Điều Ngự, thì lẽ
đương nhiên là các ngài phải lấy họ Thích rồi. Xét chung trên nguyên tắc là như
thế.
Thứ
hai, nếu xét riêng, thì có khác. Vì việc lấy họ Thích, không phải là một
quy luật chung áp dụng cho tất cả. Vấn đề nầy, còn tùy theo đặc tính và sở
thích của mỗi người. Không phải ai cũng đặt cho mình là họ Thích cả, ít ra là
về cách xưng hô cũng như trên những văn kiện giấy tờ. Đối với những tu sĩ Phật
giáo Việt Nam, có rất nhiều vị, kể từ khi xuất gia cho đến khi viên tịch, các
Ngài không bao giờ lấy chữ Thích. Không những thế, có vị còn để ngay tên đời
của mình trên những kinh sách đã trước tác cũng như dịch thuật. Trường hợp như
cố Đại Lão Hòa Thượng Hành Trụ, Ngài thường để là Sa Môn Lê Phước Bình. Còn
nhiều vị khác nữa. Chỉ nêu đơn cử thế thôi. Có nhiều vị chỉ để pháp danh hay
pháp hiệu mà thầy tổ đã đặt cho, hoặc là lấy bút hiệu gì đó v.v... chớ các Ngài
không tự xưng mình là Thích. Đôi khi có người lại thích chơi chữ hay mỉa mai
châm biếm, họ nói là Thích Đô La chẳng hạn...
Đọc
sử Phật giáo Việt Nam, chúng ta thấy sử ghi lại các bậc cao tăng thạc đức thời
xưa, hầu hết các Ngài không bao giờ để họ Thích trước pháp danh hay pháp hiệu
của các Ngài. Như Vạn Hạnh, thì để là Vạn Hạnh, còn hai chữ Thiền sư do
người ta tôn xưng Ngài, vì Ngài tu thiền đạt ngộ được lý Thiền, nên người
ta gọi Ngài là Thiền sư. Chỉ có thế thôi.
Riêng
về các quốc gia khác, theo chỗ chúng tôi được biết qua một số tài liệu sách
báo, thì chúng tôi không thấy họ để chữ Thích (Sàkya) bao giờ. Ngoại trừ Phật
Giáo Trung Hoa và Đài Loan, hiện nay thì có một số vị lấy họ Thích. Nhưng phần
nhiều chúng tôi thấy họ thường để 2 chữ Pháp sư ở đầu. Như Pháp Sư Tịnh
Không chẳng hạn.
Về
câu hỏi thứ hai, nguyên nhân và thời điểm nào lấy họ Thích? Xin thưa: Về
vấn đề nầy, trong quyển Từ Điển Phật Học Hán Việt có nêu rõ như sau: “Đạo Phật
hồi mới truyền sang Trung Quốc, các tăng còn được gọi bằng họ thế tục của mình,
hoặc lấy họ Trúc, hoặc lấy họ của bậc sư phụ, như ngài Chi Độn vốn họ Quan, vì
sư phụ là ngài Chi Khiêm, nên lấy họ là Chi. Ngài Bạch Đạo Du vốn họ Phùng, học
với ngài Bạch thi lê mật đa, nên lấy họ Bạch.
Đến
ngài Đạo An, một cao Tăng Trung Hoa đời Đông Tấn (312 - 385) tức thế kỷ thứ tư
Tây Lịch, mới bắt đầu nói: Đức Phật có họ là Thích Ca, nay những người xuất gia
nên theo họ của Phật, tức họ Thích. Về sau khi Kinh A Hàm được đem về, trong
Kinh cũng nói như vậy. Do đó khắp thiên hạ đều theo. Trong quyển Dị Cư Lục 22
có chép: “Sa môn từ thời Ngụy Tấn lấy họ theo của thầy dạy. Ngài Đạo An suy tôn
Đức Thích Ca, bèn lấy chữ Thích làm họ. Sau lại thấy A Hàm nói: Bốn con sông
nhập vào bể, không còn có tên của con sông. Bốn họ Sa môn, đều dòng họ Thích.
Từ đấy trở thành lệ cố định, các Sa môn bắt đầu lấy họ Thích.”
22. Sự khác biệt giữa Tứ
Đại Và Thất Đại.
Hỏi: Ý
nghĩa Tứ đại và Thất đại khác nhau như thế nào?
Đáp: Tứ đại và thất đại đương nhiên là có sự khác
biệt. Tứ đại là nói theo kinh điển của hệ Phật Giáo Nguyên Thủy (Tiểu Thừa) ý
nghĩa của nó hạn hẹp. Còn nói thất đại là nói theo hệ Phật Giáo phát triển (Đại
Thừa). Ý nghĩa của nó rộng hơn.
Tứ
đại gồm có: đất, nước, gió, lửa. Bốn yếu tố nầy kết hợp lại chỉ tạo nên một vật
thể mà thôi. Đất là chất cứng, tức ở thể đông đặc. Nước là chất trơn, tức ở thể
lỏng. Gió là chất động, tức ở thể hơi (biến dịch). Lửa là chất nóng, tức ở thể
ấm. Lẽ ra phải thêm vào một đại nữa đó là không đại. Vì bất cứ vật thể nào, nó
cũng cần có những lỗ trống để thở mới sinh tồn được. Như thân người cần phải có
những lỗ trống, thì máu huyết mới lưu thông và hơi thở (phong đại) mới vận hành
điều hòa. Nhờ thế, con người mới sống được. Điều nầy, khoa học đã chứng minh
cho chúng ta thấy rất rõ qua kiến hiển vi.
Nói
thất đại ngoài 4 yếu tố: đất, nước, gió, lửa ra, người ta còn thêm vào 3 đại
nữa, đó là không đại, kiến đại và thức đại. Riêng về kiến đại và thức đại,
nghĩa của nó cũng có rộng hẹp khác nhau. Kiến đại cũng là sự hiểu biết, nhưng ở
một trình độ thấp hơn thức đại. Như các loài thú vật, thuộc loại động vật hạ
đẳng, trình độ hiểu biết nhận thức của chúng so với loài người thì kém hơn
nhiều. Do đó, chúng chỉ có kiến đại chớ không có thức đại, chỉ có loài người
mới có đầy đủ cả 7 đại mà thôi.
23. Phóng sanh như
thế nào mới đúng ý nghĩa?
Hỏi: Vào
những ngày Đại Lễ của Phật giáo như Phật Đản, Vu lan, con thường thấy một vài
Phật tử mua chim hay bồ câu để phóng sanh. Nhưng họ mua không thả liền, mà họ
đem vô chùa để nhốt chờ quý thầy làm lễ rồi mới thả. Có khi thầy bận việc,
không làm lễ liền phải nhốt chúng trong lồng có khi qua cả đêm đến sáng hôm
sau, đợi đến lúc thầy rảnh mới làm lễ thả, hoặc có khi phải chờ đến giờ hành lễ
chánh thức (trường hợp như lễ Phật Đản) mới phóng sanh. Xin hỏi: phóng sanh như
thế có đúng với ý nghĩa phóng sanh hay không? Và người mua vật để phóng sanh
như thế có phước đức nhiều không ?
Đáp: Điều nầy, nếu xét kỹ, ta thấy không đúng với
ý nghĩa phóng sanh cho lắm. Thật ra, đúng nghĩa phóng sanh là sau khi mua con
vật phải thả ngay. Động cơ phóng sanh là gì? Phải chăng tất cả đều do lòng
từ bi mà ra. Vì lòng từ bi, nên thương xót con vật nào đó đang bị đau khổ kêu
la cầu cứu. Chúng ta vì thương chúng không nở nhìn thấy chúng phải chết một
cách đau thương, nên người Phật tử động lòng trắc ẩn từ bi mà bỏ tiền ra để mua
chúng. Nhưng sau khi mua xong, thì tức tốc phải thả chúng ra ngay, để chúng
được tự do thoải mái.
Người
xưa nói: “Nhứt nhựt tại tù, thiên thu tại ngoại.” Nghĩa là: một ngày
bị nhốt trong lao tù, bằng một ngàn năm sống được tự do ở bên ngoài. Như thế,
thì mới đúng với ý nghĩa phóng sanh. Và như thế, mới thực sự có phước và mới
thực sự là thể hiện đúng với lòng từ bi Phật dạy.
Ngược
lại, đằng nầy không thế. Mua rồi phải đem vô chùa chờ thầy làm lễ mới phóng
thích. Gặp lúc thầy bận việc, không quan tâm tới, thế là những con vật bất hạnh
kia phải kêu la, chen lấn đạp nhau trong lồng, thật là đau khổ. Nếu chúng nói
được, thì chúng sẽ cất cao giọng mà nói to lên rằng: “Xin mọi người hãy
thương xót chúng tôi mà giùm ơn thả chúng tôi ra ngay, chớ đợi tới giờ mới làm
lễ rồi khi làm lễ, thầy lại kéo dài giọng tụng ê a nữa, như thế chắc là chúng
tôi phải chết mất đi thôi! Thà rằng hãy để cho người ta bắt chúng tôi mà họ làm
thịt xơi chúng tôi đi, thì chúng tôi khỏi phải kéo dài sự đau khổ lê thê như
thế nầy! Chớ các người ra ơn tế độ chúng tôi cái kiểu nầy, thì thật là tội
nghiệp cho chúng tôi quá!”
Lời
kêu than của chúng thật là hữu lý. Sự thật là như thế. Có khi chờ thầy làm lễ
xong, có con thì chết, có con thì què quặt bay đi không nổi... Như vậy, thì lại
càng thêm tội chớ nào có phước đâu! Thử hỏi chúng ta làm lễ để ai chứng minh?
Phật hay Bồ Tát? Hay chư Tôn Đức Tăng Ni? Chắc chắn Phật và Bồ Tát không thể
chứng minh kéo dài sự đau khổ của chúng sanh như thế nầy rồi! Chư Tôn Đức Tăng
Ni ư? Những vị nầy đầy lòng từ bi cũng không thể nào nhẫn tâm nhìn thấy cảnh tượng
đau thương kêu la thảm thiết chúng bị nhốt lâu như thế!
Tóm
lại, cũng một việc làm, mới nhìn thì thấy như là có phước lắm, nhưng nếu không
khéo, thì trở thành mang tội. Thế thì phóng sanh như thế, chẳng những không
đúng ý nghĩa của việc phóng sanh mà nó còn không được phước như ý mình muốn. Vì
vậy, mong rằng người Phật tử khi có hảo tâm muốn mãi vật phóng sanh, thì nên
lưu tâm hơn về việc làm nầy.
24. Sự khác biệt Tam Thừa.
Hỏi: Phật
Pháp thì có một, nhưng tại sao lại có ra ba thừa ?
Đáp: Lý do có ra ba thừa sai khác là y cứ
vào trình độ hiểu biết rộng hẹp, sâu cạn, cao thấp bất đồng của mỗi chúng sanh.
Từ đó, trong Phật Pháp mới có chia ra sự sai biệt nầy. Tất cả, cũng chỉ vì nhắm
thẳng mục đích làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh mà thôi.
Trong
Khế Kinh có nêu ra một thí dụ. Thí như có 3 con thú: thỏ, nai và voi đồng lội
qua một con sông. Con thỏ nhỏ con lại có đôi chân ngắn, nên chỉ bơi lội 2 chân
là đà trên mặt nước thôi. Con nai thì to con hơn và đôi chân lại dài hơn, nên 2
chân lội lưng chừng nước. Còn con voi thì thân thể to lớn vạm vỡ và có đôi chân
bự lại dài hơn, nên đôi chân của nó lội đạp xuống tới đất.
Con
thỏ là dụ cho hàng Thanh văn thừa. (Tiểu Thừa) Thanh Văn vì trí kém, tâm hẹp,
nên dụ như con thỏ vừa nhỏ con lại vừa có đôi chân ngắn chỉ bơi lội là đà trên
mặt nước. Con nai là dụ cho Duyên giác thừa. (Trung Thừa) Vì trí huệ của hàng
Duyên Giác cao rộng hơn Thanh Văn, nên dụ như con nai, vì con nai lớn con và có
đôi chân dài hơn con thỏ. Đến con voi là dụ cho Bồ tát thừa (Đại Thừa ). Vì trí
huệ nhận thức ở nơi các pháp của hàng Bồ Tát hơn hẳn hàng Nhị Thừa (Thanh Văn
và Duyên Giác) nên dụ như con voi, vì hình thể của con voi vừa to lớn mập mạp
lại có thêm đôi chân bự và dài, nên lội sâu hơn 2 con kia.
Qua
thí dụ nầy chúng ta thấy, con sông thì chỉ có một, tức Phật Pháp chỉ có một, mà
thú thì có ba. Ba con thú là tiêu biểu, nói lên sự sai biệt của ba thừa. Chính
vì sự sai khác đó, nên trong Phật Giáo mới tạm chia ra có ba thừa. Kỳ thật chỉ
có một Thừa, tức Phật Thừa mà thôi, như trong Kinh Pháp Hoa đã nói rõ.
25. Niệm Phật cầu vãng
sanh có ích kỷ hay không?
Hỏi: Có
người nói, những người tu Tịnh Độ niệm Phật cầu vãng sanh về Cực lạc, thì những
người đó thật là ích kỷ, chỉ nghĩ riêng cho mình được lợi lạc, mặc cho những
người thân hay bạn bè nói rộng ra là tất cả mọi người ở cõi Ta bà nầy ai khổ
mặc ai, miễn sao phần mình được sung sướng thì thôi. Xin hỏi: người nói như thế
có hợp lý hay không ?
Đáp: Nếu bảo rằng có hợp lý hay không, theo
tôi, thì chỉ hợp lý ở một giai đoạn nào đó thôi, chớ không thể nói là hợp lý
hoàn toàn. Nếu khẳng quyết cho rằng những người niệm Phật cầu sanh Tây phương
Cực lạc là hoàn toàn ích kỷ chỉ nghĩ cho riêng mình. Lời trách nầy, e có hơi
quá đáng! Vì sao? Bởi vì bản nguyện của người niệm Phật cầu sanh Tây phương, họ
không phải nguyện về Cực lạc để rồi thọ hưởng những thú vui bên đó luôn, mà tâm
nguyện của họ, chỉ về bên đó tiếp tục tu học một thời gian, cho đến khi nào
hoàn toàn giác ngộ thành Phật, chừng đó, họ sẽ trở lại cõi Ta bà nầy để hóa độ
chúng sanh.
Như
vậy, rõ ràng họ không phải là những kẻ bạc tình bạc nghĩa. Chẳng qua cũng chỉ
vì lòng thương mọi người, mà họ không muốn cùng nhau chết chìm, khi mình chưa
biết lội, mà dám xông pha nhảy xuống nước cứu vớt người. Họ không muốn mạo hiểm
phiêu lưu như thế. Vì vậy, để được an toàn bảo đảm trong việc cứu vớt người,
chính họ phải tìm cách bảo đảm cho mình có một nội lực thật vững chắc trước,
rồi sau đó, họ sẽ trở lại cứu độ mọi loài. Như thế, quả họ là những người biết
lo xa, và biết dự phòng vững chắc. Việc họ làm, không phải tùy hứng hay ngẫu
nhiên, mà họ chỉ làm đúng theo những gì mà Đức Phật Thích Ca chỉ dạy, giới
thiệu.
Thế
thì, trong thời gian họ vắng mặt ở cõi nầy, người ta coi họ như là người ích
kỷ. Nhưng kỳ thật, không hẳn là như thế. Thí như những vị xuất gia, khi vào
chùa, họ xa lìa cha mẹ, bà con họ hàng, những người thân thuộc, bạn bè thân
thiết. Thời gian ở chùa, các ngài quyết chí tu học. Chả lẽ trong thời gian ở
trong chùa tu học, thì những vị nầy lại là những kẻ ích kỷ, bạc tình bạc nghĩa
hết hay sao? Mới nhìn qua như là có ích kỷ, nhưng xét sâu hơn, chưa hẳn là
như thế. Vì sau khi ngộ đạo, các ngài vân du hóa đạo làm lợi ích cho chúng
sanh.
Như
vậy, khi các ngài không còn có mặt ở ngoài đời, giam mình tu học ở trong chùa,
hay một nơi nào khác, thì người ta cho rằng các ngài là yểm thế hay ích kỷ?
Nhưng đây lại là thời gian mà các ngài chuẩn bị hành trang tư lương cho mình
khả dĩ thật chu đáo chín mùi, để sau nầy các ngài ra hoằng pháp lợi sanh. Thế
thì, ta lại vội trách các ngài ích kỷ được sao? Nếu vội trách như thế, xét
ra, thật hơi quá đáng! Nếu không muốn nói là quá hàm hồ nông cạn.
Lại
thêm một thí dụ nữa. Thí như có một sinh viên ở nước Việt Nam ta, anh ta nghe
sự giới thiệu của một giáo sư đại học rất tài giỏi, ông ấy nói rằng, ở bên Mỹ
có một trường đại học chuyên đào tạo những người có khả năng chuyên ngành kỹ
thuật điện tử, đây là ngành mà anh thấy rất thích hợp cho khả năng anh. Sau khi
nghe vị giáo sư đó giới thiệu, anh ta quyết tâm bằng mọi cách phải qua được bên
Mỹ để học. Tâm nguyện của anh là sau khi anh học xong chương trình của trường
đại học đó giảng dạy, bấy giờ anh sẽ trở về lại Việt Nam để dấn thân phục vụ
làm việc, hầu giúp ích cho đồng bào anh.
Như
vậy, việc anh sinh viên qua Mỹ du học, và cưu mang một tâm nguyện như thế, thử
hỏi: anh sinh viên kia có ích kỷ hay không? Chả lẽ trong thời gian anh vắng mặt
ở quê nhà để đi qua nước người du học, thì ta lại lên án kết tội anh sinh viên
đó là người ích kỷ chỉ nghĩ cho riêng mình được sao? Bạn sẽ nghĩ thế nào về
người kết tội anh sinh viên đó như thế?
Cũng
vậy, sở dĩ hôm nay, người ta biết được Pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh về thế
giới Cực lạc là do từ kim khẩu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giới thiệu. Cũng
như anh sinh viên kia, sở dĩ anh biết được trường đại học bên Mỹ, là nhờ sự
giới thiệu của vị giáo sư đó. Và khi nghe xong, anh sinh viên kia không phải tự
nhiên mà qua được bên Mỹ để học, tất phải hội đủ những điều kiện theo sự đòi
hỏi của trường đại học ở Mỹ. Vì ở đây có rất nhiều thuận duyên tiện lợi cho sự
trau dồi học hỏi của anh ta.
Cũng
thế, người muốn vãng sanh về thế giới Cực lạc của đức Phật A Di Đà cũng phải
hội đủ 3 điều kiện: Tín, Nguyện và Hạnh. Và đồng thời ở cõi đó có nhiều thắng
duyên thuận lợi hơn.
Sau
khi hội đủ điều kiện rồi, anh sinh viên kia, khi sang Mỹ du học, anh ta chỉ có
một tâm nguyện duy nhất là sau khi tốt nghiệp mãn khóa, có mảnh bằng tiến sĩ
trong tay, anh ta sẽ trở lại quê nhà để thi thố tài năng để làm lợi ích cho quê
hương xứ sở của mình.
Cũng
thế, người niệm Phật sau khi về Cực lạc có đủ mọi thắng duyên tu học, nỗ lực tu
học cho đến khi nào hoàn toàn giác ngộ, bấy giờ họ sẽ trở lại cõi nầy để hoằng
hóa lợi sanh. Một tâm nguyện như thế, thì tại sao ta cho họ là ích kỷ?
Có
người lại nói, họ chưa hề thấy ai từ cõi Cực lạc trở về? Đã là do nguyện
lực độ sanh của Bồ tát, thì làm sao chúng ta biết rõ họ từ đâu đến. Và sách sử
cũng đã chứng minh cho chúng ta thấy, khi nào có ai phát hiện ra các Ngài là Bồ
tát, thì các Ngài sẽ ẩn diệt ngay. Trường hợp như các Ngài Hàn Sơn, Thập Đắc
hay như Hòa Thượng Thiện Đạo, sử nói Ngài là hóa thân của đức Phật A Di Đà.
Tóm
lại, theo tôi, thì những người niệm Phật phát nguyện vãng sanh về Cực lạc để
tiếp tục tu hành (tất nhiên là có sự đảm bảo hơn cõi nầy về mọi mặt, theo như
lời Phật Thích Ca giới thiệu) sau đó, họ sẽ trở lại cõi nầy để hoằng hóa độ
sanh đúng theo bản nguyện của họ. Như thế, xét bề ngoài thì dường như có ích
kỷ, nhưng xét về bên trong, tức tâm nguyện, thì không có gì là ích kỷ cả. Vì
bản nguyện đó, cũng chỉ nhắm vào chúng sanh mà nguyện, tất nhiên là thuận theo
bản hoài của chư Phật, trừ phi, những ai chỉ nguyện cho mình về Cực lạc không
thôi mà không phát đại nguyện hoàn lai Ta bà để độ sanh, người như thế, thì
đáng trách là quá ích kỷ chỉ nghĩ đến sự lợi lạc cho riêng mình, không đoái
hoài thương cảm ai cả. Như thế, thì quả là trái với lòng từ bi Phật dạy.
Người như thế, mới nên đáng trách. Ngược lại, thì ta không nên vội trách.
26. Ý Nghĩa Vu Lan Và
Tự Tứ.
Hỏi: Ý
nghĩa của Vu Lan Bồn là gì? và tại sao ngày rằm tháng 7 còn gọi là ngày lễ
Tự tứ? Vậy ý nghĩa của hai chữ Tự tứ là gì?
Đáp: Vu lan bồn, phiên âm từ chữ Phạn là
Uilambana (Hành sự). Còn gọi là Ô lam bà noa. Dịch là Đảo huyền, chỉ nỗi đau
khổ cùng cực. Trong quyển Huyền Ứng Âm Nghĩa 13 có giải thích như sau: “Vu lan
bồn, là nói sai. Nói đúng là Ô lam bà noa, dịch là Đảo huyền.
Theo
phép nước Tây Trúc vào ngày Tự Tứ của chư tăng, người ta mua sắm thực phẩm, đặt
cổ bàn linh đình, dâng cúng Phật Tăng để cứu cái khổ treo ngược (đảo huyền) của
người đã mất. Xưa nói là một cái chậu đựng thức ăn, đó là nói sai”. Vu Lan Bồn
Kinh Sớ Tông Mật nói: “Vu Lan là từ ngữ của Tây Vực, nghĩa là Đảo huyền, bồn là
âm của Đông Hạ vẫn là đồ dùng cứu chữa. Nếu theo cách nói của địa phương thì
phải nói là cứu đảo huyền bồn.”
Trong
quyển Vu Lan Bồn Tâm Ký quyển thượng của Nguyên Chiếu bác lại: “Theo Ứng Pháp
Sư Kinh Âm Nghĩa thì: Tiếng Phạm Ô lam bà noa dịch là đảo huyền, nay xét Ô Lan
tức là Vu Lan, Bà noa là cái chậu. Thế là 3 chữ đều là tiếng Phạn. Nhưng
âm thì có sự xê xích sai lầm.” Đó là ý nghĩa của 3 chữ Vu lan bồn.
Còn
Tự tứ là gì ? Tự tứ là một thuật ngữ của Phật giáo. Tiếng Phạn là Pravaranà
(Bát Thích Bà) cách dịch cũ là Tự tứ, cách dịch mới là Tùy ý. Buổi lễ nầy được
diễn ra vào ngày cuối cùng của 3 tháng an cư kiết hạ, theo luật tiền an cư là
ngày 16 tháng 7, hậu an cư là ngày 16 tháng 8, ngày đó mọi người tự nêu ra các
tội lỗi mà mình đã phạm phải trước mặt các vị Tỳ kheo khác, và tự sám hối, nên
gọi là Tự tứ. Còn gọi là Tùy ý, vì là tùy theo ý của người khác mà nêu ra các
lỗi mình phạm phải, nên gọi là Tùy ý. ( Từ Điển Phật Học Hán Việt trang 1447 )
Đó
là chúng tôi trích dẫn nguyên văn trong quyển Từ Điển Phật Học Hán Việt để giải
thích ý nghĩa của 2 chữ Tự tứ. Ở đây, chúng tôi cũng xin được nói rõ thêm
về ý nghĩa của buổi lễ quan trọng nầy. Đây là một buổi lễ mà chư Tăng Ni sau 3
tháng an cư kiết hạ, ai có lỗi lầm gì phải tự phát lồ sám hối trước đại chúng.
Hoặc đại chúng thấy, nghe, hay nghi vị nào đó có phạm tội lỗi, thì có thể chỉ
bảo cho vị đó sám hối.
Quả
đây là một tinh thần tự giác cao độ của đạo Phật. Thông thường, ai cũng che đậy
những lỗi lầm của mình, ít ai dám phơi bày cái lỗi lầm của mình cho người
khác biết. Bởi thế có câu: “Xấu che, tốt khoe.”
Ngược
lại, đằng nầy chư Tăng Ni không vì tự ái bản ngã cá nhân, mà tự thổ lộ những
điều sái quấy của mình trước mặt mọi người. Bởi do sự thành thật chỉ lỗi cho
nhau trong tinh thần hòa ái, tương kính, nên chư Phật trong mười phương thảy
đều hoan hỷ. Do đó, nên ngày nầy còn gọi là ngày Phật hoan hỷ là như thế.
27. Chư tăng chú nguyện có
siêu độ hay không?
Hỏi: Việc
chư tăng chú nguyện cho bà Mục Liên Thanh Đề thoát khỏi kiếp ngạ quỷ. Xin hỏi:
Việc cầu nguyện đó ảnh hưởng thế nào đối với người có tội lỗi? Và việc làm
nầy có rơi vào mê tín hay không?
Đáp: Qua câu hỏi trên, để tiện trả lời,
chúng tôi xin được tách ra làm 2 câu hỏi :
1- Việc
cầu nguyện đó ảnh hưởng thế nào đối với người có tội lỗi? Xin thưa: Rất có
ảnh hưởng. Tuy nhiên, việc ảnh hưởng đó, nó còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Nếu
những yếu tố tốt, thì ảnh hưởng kết quả tốt. Ngược lại, thì không như thế.
Những
yếu tố tốt như thế nào? Như trường hợp bà Mục Liên Thanh Đề, sở dĩ bà được
thoát khỏi cảnh khổ ngạ quỷ, là vì bà có nhiều yếu tố thắng duyên tốt .
Thứ
nhứt, là ngài Mục Kiền Liên con của bà rất là chí hiếu. Ngài đã hết lòng tha
thiết trong việc thiết lễ trai tăng cúng dường đúng theo lời Phật dạy.
Thứ
hai, chư Tăng, những người chú nguyện cho bà đều là những vị tu hành thanh tịnh
suốt thời gian 3 tháng an cư kiết hạ. Nhờ tâm các Ngài thanh tịnh, nên sức chú
nguyện của các Ngài có một ảnh hưởng rất mạnh đến mục tiêu mà các Ngài nhắm
tới. Mục tiêu đó là bà Mục Liên Thanh Đề.
Điều
nầy, nếu nói theo triết học, thì gọi là: “Thần giao cách cảm”. Tuy vô
hình, nhưng nó có một sức mạnh rất mãnh liệt. Người xưa nói: “Thành tâm sở
chí, kim thạch vị khai.” Nghĩa là: Sức thành khẩn tha thiết hướng đến đâu,
có thể chẻ núi phá vàng đến đó. Xin nêu ra đây một câu chuyện để chứng minh:
Trong
quyển Niệm Phật Thập Yếu trang 104, cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm có thuật câu
chuyện như sau: “ Có một vị bên Pháp tuổi trẻ, góa vợ, buồn lòng đến miền
quê du ngoạn để giải khuây. Nhân khi ngụ ở nhà người thợ rèn, thấy cô gái con
gia chủ có sắc đẹp, mới tỏ thật chuyện mình, xin cưới cô nầy làm vợ, và được
chấp thuận. Nhưng lúc chưa làm lễ cưới, bác sĩ đã ăn nằm với cô gái, rồi bỏ về đô
thị. Người thợ rèn thấy con gái mình bụng ngày một lớn, còn chàng sở khanh kia
thì tuyệt tích như cánh chim hồng, nghĩ mình nhà nghèo thế yếu không thể kiện
thưa, tức giận quá mỗi buổi chiều cầm búa đập vào tấm sắt kêu gọi tên vị bác sĩ
đòi đánh bể đầu, để tiết bớt niềm phẩn hận. Nhưng ở đô thành cứ vào 5 giờ
chiều, vị bác sĩ nọ bổng ôm đầu rên la, chữa trị đủ cách vẫn không khỏi.
Sau
người bạn của bác sĩ trong lúc về thăm quê, vào buổi chiều đi ngang nhà thợ rèn
nghe tiếng đập sắt và kêu gọi tên bạn mình trách mắng, mới vào gạn hỏi. Khi
hiểu rõ sự việc, suy gẫm ra biết nguyên nhân căn bệnh của bạn mình. Ông về
khuyên vị bác sĩ phải đến xin lỗi và cưới cô gái con người thợ rèn. Sau khi hôn
lễ thành, bệnh vị bác sĩ mới khỏi.”
Qua
đó, chúng ta thấy, tâm lực có một sức mạnh vô hình như thế.
Thứ
ba, là bà Mục Liên Thanh Đề. Bà ta mới thực sự là yếu tố chính và quan trọng
hơn hết. Sự gia trì của Phật cũng như sức chú nguyện của chư tăng, tất cả đều
là những tác động trợ duyên tốt. Và nhờ sức trợ duyên mạnh mẽ đó, mà đánh động
được tâm thức của bà ta. Bà ta đã ăn năn hối cải, và tha thiết sám hối. Nhờ sự
thành tâm cải hối đó, mà bà được siêu thoát sanh lên cõi trời Thiên Hoa Quang.
Kinh
nói: “Tội tùng tâm khởi, tùng tâm sám. Tâm nhược diệt thời, tội diệc vong.
Tội vong, tâm diệt lưỡng câu không, thị tắc danh vi chơn sám hối”. Nghĩa
là: Tội lỗi từ tâm (vọng) khởi, cũng từ tâm mà sám. Khi tâm lặng rồi, thì tội
cũng tiêu. Tội tiêu, tâm lặng cả hai đều không còn nữa, đó mới thật là chơn
thật sám hối.
2- Việc
làm nầy có rơi vào mê tín không? Xin thưa: Việc làm nầy, chẳng những không
phải là mê tín mà lại còn rất phù hợp với tinh thần giác ngộ của Đạo Phật. Tức
là tinh thần tự giác. Lý do tại sao ? Trước hết, xin dẫn ra đây một vài mẩu
chuyện ngắn, do Hòa Thượng Thích Thanh Từ thuật kể trong quyển Bước Đầu Học
Phật, để chứng minh.
Hòa
Thượng nói: Mặc dù đây là những mẩu chuyện có tánh cách ngụ ngôn, nhưng để
chúng ta thấy cái tinh thần tự giác của Đạo Phật. Đức Phật có kể lại tiền thân
của Ngài: “Thuở nọ Ngài là đứa con bất hiếu. Khi Ngài chết rồi vào địa
ngục. Ngay trong ngục tối, Ngài thấy ở đàng xa một đóm lửa sáng rực đi đến dần
dần tới Ngài. Tới gần, Ngài nhìn rõ ra là người đang bị một vòng lửa cháy rực
trên đầu. Người đó rên la thảm thiết. Khi tới gần, Ngài hỏi: Anh ơi, anh làm
tội gì mà chịu khổ lắm vậy? Chàng đó nói: Không giấu gì ông, thuở xưa tôi ở
nhân gian, vì bất hiếu với cha mẹ, nên giờ đây tôi mới khổ như thế nầy.
Ngài
hỏi: tới bao giờ anh mới hết tội đó ?
Chàng
kia đáp: Chừng nào ở nhân gian có người nào bất hiếu như tôi, đến thế cho tôi,
thì tôi mới hết.
Vừa
nói thì vòng lửa bên đầu anh kia chụp qua đầu của Ngài. Ngài bị đốt cháy đỏ
rực, đau khổ quá Ngài rên la thảm thiết. Khi tỉnh lại Ngài hỏi: “ Đầu tôi bị
vòng lửa đốt cháy như thế nầy, thưa anh chừng nào mới hết, mới khỏi cái khổ
nầy? Anh kia nói: Chừng nào có người ở trên nhân gian bất hiếu như ông, xuống
thế cho ông thì ông mới hết”.
Khi
đó Ngài liền nhớ cái khổ bị đốt như thế nầy đau đớn vô ngần, nếu có người chịu
khổ như mình thì tội nghiệp họ quá, chi bằng để một mình mình chịu khổ thôi.
Cho nên lúc đó Ngài liền phát nguyện: “Nguyện tất cả người trên thế gian, từ
đây về sau đừng có ai bất hiếu như tôi, để một mình tôi chịu cái khổ nầy suốt
đời suốt kiếp”. Ngài vừa nguyện xong, bất thần vòng lửa bay đâu mất. Ngài thấy
Ngài sanh lại ở chỗ khác tốt đẹp, không còn vòng lửa nữa.
Qua
câu chuyện đó tuy có tánh cách ngụ ngôn, nhưng cho chúng ta thấy rõ một khi
phát tâm từ bi rộng lớn, phát tâm đạo đức, thì bao nhiêu cái khổ cái xấu tan
đi.
Thêm
một câu chuyện nữa. Phật kể lại: “Một thuở nọ Ngài là một thợ săn hung ác tàn
bạo. Sau khi chết đọa vào địa ngục. Khi đó quỷ sứ bắt Ngài kéo một chiếc xe
cồng kềnh, phía sau có người cầm roi đánh. Ngài kéo nặng nề quá. Kéo qua chỗ
tra tấn người Ngài thấy những người khác bị đánh đập hành hạ đau khổ rên siết
quá đổi. Ngài động lòng thương nguyện rằng: “Tôi xin thế tất cả cái đau khổ của
những người ở trong đây! Tất cả cái khổ của những người đang chịu, xin để cho
mình tôi chịu”. Ngài vừa phát nguyện như vậy thì tự thấy Ngài không còn ở địa
ngục nữa.
Thuật
qua 2 câu chuyện trên, Hòa Thượng kết luận: “Qua 2 câu chuyện trên đó, chúng ta
thấy bà Thanh Đề, sở dĩ ra khỏi vòng ngạ quỷ không phải chư Tăng có tài xuống
đó dẫn bà lên. Không phải có một ông Diêm Vương hay ông chúa ngục nào mở thả
bà, ân xá cho bà. Cũng không phải ông Phật trên đài sen xuống cứu bà, mà chính
vì tinh thần sáng suốt và ý chí mạnh mẽ cầu tiến của chư Tăng đồng chung một
tâm niệm hướng về bà, mong bà cải đổi tâm niệm xấu xa. Do sự giao cảm đó mà bà
tỉnh giác, chính bà tỉnh giác biết được tội lỗi của bà, nên bà hối hận chừa bỏ.
Do đó, bà thoát khỏi cái khổ ngạ quỷ. Thoát khỏi là do tâm hối cải tỉnh giác
chứ không phải do sức bên ngoài bắt mình hay thả mình. Đó là sự thật do tinh
thần tỉnh giác của con người mà ra. Chỗ đó đối với quý vị hơi lạ, nhưng sự thật
là thế”.
Cũng
theo tinh thần tự giác đó, chúng tôi xin được nêu ra một thí dụ cụ thể và thực
tế hơn. Thí dụ: Ông A bị ghiền á phiện rất nặng, (dụ như bà Thanh Đề vì tạo
nghiệp ác phải đọa vào ngạ quỷ) con ông là anh B rất hiền từ chí hiếu và kính
trọng thương ông (dụ như Ngài Mục Kiền Liên). Vì quá thương xót tình cảnh
nghiện ngập của người cha, nên anh A tìm đủ mọi phương cách để khuyên cha. Một
hôm, anh ta trông thấy người cha lên cơn ghiền dữ dội, tứ chi rả rời, thân thể
gần như hết cựa quậy, trong khi đó, thuốc lại không có, anh ta chạy tìm được
chút ít đem về cho cha. Người cha hút vào, sau đó tỉnh lại. Chứng kiến cảnh đau
thương đó (dụ như Ngài Mục Kiền Liên dùng tuệ nhãn xem thấy người mẹ đang bị cơn
đói khát hoành hành đau khổ ngút ngàn) anh ta quyết định tìm cách cứu cha thoát
khỏi bệnh ghiền.
Bấy
giờ, anh ta nghĩ đến vị Thầy của anh ta, là một bậc tu hành giới luật nghiêm
minh, đạo cao đức trọng (dụ như Đức Phật). Anh ta đến quỳ bạch xin thầy chỉ dạy
cách nào để cứu thoát người cha ra khỏi bệnh ghiền. (dụ như Ngài Mục Liên bạch
Phật để Phật chỉ dạy cách cứu mẹ Ngài). Vị thầy đó bảo anh ta, nếu con muốn cứu
thoát cha con bỏ hút á phiện, thì con nên vì cha mà hết lòng mua sắm những thứ
mà cha con thường ưa thích nhất, đồng thời con nên cung thỉnh quý thầy khác mà
hằng ngày cha con kính trọng, cũng như một số bạn bè thân thuộc nhứt của cha
con, rồi chọn ngày mời mọi người đồng đến hiệp lực cùng con để cùng nhau khuyên
cha con cai nghiện. (dụ như Ngài Mục Liên sắm sanh lễ vật và cung thỉnh chư
tăng chú nguyện).
Anh
A thực hiện đúng theo những gì thầy dạy. Hôm đó là một ngày rất đẹp, khí trời
ấm áp (dụ như ngày rằm tháng 7) anh A trịnh trọng mời cha đến ngồi vào bàn ghế
sang trọng và trước những vật dụng quý giá mà người cha thường mong ước. Sau
khi người cha ngồi vào ghế, bấy giờ , anh A và những người thân thuộc
trong gia đình đến quỳ trước mặt người cha, đồng khẩn khoản tha thiết lên tiếng
khuyên cha nên vì bản thân, vì con cái và vì bạn bè thân thuộc mà nên cương
quyết cai nghiện ma túy cho bằng được. Thêm vào đó, quý thầy có mặt cũng như
toàn thể bạn bè cũng đồng lòng hết lời chí thiết khuyên bảo.
Trước
tình cảnh đó, người cha quá xúc động đến rơi lệ, nghẹn ngào và rồi ông ta dõng
dạt tuyên bố trước mặt mọi người rằng: “Kể từ ngày hôm nay, tôi cương
quyết sẽ cai nghiện. Không phải nói suông bằng lời cho mọi người vui, mà tôi
nhứt quyết thực hiện bỏ hút cho bằng được. Vì tôi đã sáng mắt nhận ra sự tai
hại khốc liệt của thứ ma túy nầy rồi”! Nói xong, mọi người đều vui lên như
ngày mở hội. Nhứt là người con trai chí hiếu của ông vui mừng không kể xiết. Và
từ đó trở đi, người ta thấy ông ta đã bỏ hẳn và thân thể của ông được mạnh khỏe
trở lại như xưa. Thế là ông đã tự cởi trói được cái khổ mà từ lâu nay nghiệp
ghiền ma túy nó đã treo ngược xiết cổ ông.
Qua
thí dụ đó cho chúng ta thấy rằng, sở dĩ người cha bỏ được á phiện, là chính do
ông ta cương quyết cải hối chừa bỏ, còn mọi người chỉ là trợ duyên tốt giúp cho
ông ta tăng thêm phần ý chí nghị lực mà thôi. Còn chánh nhân chính là ông ta.
Chính nhờ lòng chí thành tha thiết thương cha của anh A, tức con trai của ông,
là trợ lực chính giúp cho ông ta từ bỏ được. Lời khuyên của mọi người (Dụ như
sự chú nguyện của chư tăng) đã đánh động được sự tỉnh giác của ông. Như thế, sự
cai nghiện của ông có kết quả tốt là do ông tự ý thức và tự tỉnh giác lấy. (Dụ
như bà Thanh Đề được thoát hóa là do chính bà tự cải hối ăn năn tâm địa
độc ác của bà). Điều nầy, tuyệt nhiên không do ai cầu nguyện mà được cả.
Như vậy, rõ ràng nào có phải là mê tín đâu !
28. Danh Xưng Quán Thế Âm
Và Quán Tự Tại.
Hỏi: Danh xưng
Quán Thế Âm Bồ Tát và Quán Tự Tại Bồ Tát là một vị Bồ Tát hay hai vị Bồ Tát
khác nhau ?
Đáp: Chỉ là một vị Bồ Tát Quán Thế Âm chớ
không phải hai. Sở dĩ có tên gọi khác nhau như thế, là vì đứng trên hai
phương diện mà nói. Gọi Quán Thế Âm là đứng về mặt tu nhân. Vì Bồ Tát Quán Thế
Âm khi còn ở địa vị tu nhân, thì Ngài dùng nhĩ căn để tu, gọi
là : “Phản văn văn tự tánh”, có nghĩa là Ngài nghe lại tánh nghe
của chính mình.
Thông
thường, chúng ta khi nghe tiếng là chạy theo tiếng, phân biệt tiếng hay tiếng
dở v.v…Ít có ai nghe lại tánh nghe của mình. Tiếng thì lúc có lúc không, còn
tánh nghe thì thường hằng không bao giờ vắng mặt với mình. Nhưng khổ nổi là tất
cả chúng ta đều nhận ở nơi tiếng mà quên mất tánh nghe thường hằng. Do đó,
trong Kinh Lăng Nghiêm Phật quở là: “Quên mình theo vật.”
Ngược
lại, Bồ Tát Quán Thế Âm nhờ ứng dụng tu đúng phương pháp Phật
dạy: « Phản văn văn tự tánh » mà Ngài chứng được Nhĩ căn
viên thông, hoàn toàn làm chủ chính mình không còn lệ thuộc ở nơi thinh trần...
tới lui tự tại vô ngại, bấy giờ gọi Ngài là Quán Tự Tại. Như vậy, danh xưng
Quán Tự Tại là đứng về phương diện quả vị mà nói.
29. Tịnh Độ tông có truyền
thừa Tổ vị không?
Hỏi: Về
sự truyền thừa Tổ vị, bên Thiền tông thì ai cũng biết, nghĩa là có sự truyền
thừa hẳn hoi. Ngược lại, bên Tịnh Độ tông, thì đâu có sự truyền thừa như thế.
Thế thì tại sao gọi các Ngài là Tổ?
Đáp: Đúng vậy.
Bên Tịnh độ không có sự Tổ Tổ tương truyền như bên Thiền tông, nhưng các Ngài
sở dĩ được tôn xưng là Tổ, bởi có nhiều lý do. Tiêu biểu như bốn lý do sau đây
mà chúng tôi thấy trong phần Dẫn Nhập nói về Liên Tông Thập Tam Tổ của cố Hòa
Thượng Thích Thiền Tâm có nêu ra như sau: “ Sở dĩ chư Tổ Liên Tông được tôn
xưng các Ngài là Tổ, bởi do các vị Tăng Tục tu môn niệm Phật đời sau họp lại
chọn lựa ra những vị siêu xuất mà suy tôn lên.
Sự
siêu xuất đó được biểu lộ qua bốn quan điểm chính yếu sau đây :
1-
Về phần kiến thức :
-
Phải là các bậc thông hiểu thâm sâu cả Tông lẫn Giáo.
-
Giải ngộ Phật Pháp đến mức Thượng Thừa.
2-
Về Phần Đạo Hạnh :
-
Phải giữ giới phẩm tinh nghiêm, hoàn toàn thanh tịnh.
-
Tu hành tinh tấn.
-
Lâm chung hiện rõ thoại tướng vãng sanh.
3-
Về Phần Hoằng Hóa :
-
Phải có công lao lớn trong việc tuyên dương pháp môn Tịnh độ.
-
Hộ trì chánh pháp không tiếc thân mạng.
-
Khuyến dắt, dẫn đạo đến ngàn muôn người niệm Phật.
4-
Về Phần Trước Tác Phiên Dịch :
-
Phải có trước tác (biên soạn) tối thiểu từ ba bộ sách khuyến dạy hoặc hoằng
tuyên Tịnh độ trở lên.
-
Phải có khả năng phiên dịch và chú sớ Kinh điển đến mức Thượng Thừa.
Bốn
điều kiện nầy phải hoàn toàn đầy đủ hết mới được suy tôn lên hàng Tổ sư Tịnh
độ.
30. Sự khác biệt giữa
chánh niệm và vô tâm.
Hỏi: Giữa
Chánh niệm và Vô tâm khác nhau như thế nào ?
Đáp: Giữa Chánh niệm và Vô tâm khác nhau ở
điểm căn bản là: Chánh niệm là một trong Bát chánh đạo, nó thuộc về hệ giáo lý
Phật Giáo Nguyên thủy. Chánh niệm có nghĩa là ghi nhớ những điều hay, lẽ phải,
những điều lợi lạc cho mình cho người, những đạo lý chân chính quý trọng cao
siêu. Nói rõ ra chữ chánh niệm nầy ta có thể hiểu là làm việc gì ta nhớ đến
việc đó. Tất nhiên, là ta phải chăm chú vào việc ta làm, không để tâm nhớ nghĩ
đến chuyện khác.
Còn
Vô tâm là thuộc về Thiền tông. Thiền tông nói Vô tâm, không có nghĩa là không
có tâm gì cả, như cây đá, mà Vô tâm ở đây có nghĩa là không có tâm chấp trước
vào các sự vật. Nói cách khác là không dấy khởi vọng niệm phân biệt ở nơi
tiền trần. Tâm thể phải luôn luôn vắng lặng.
Ngược
lại, chánh niệm còn có dấy tâm khởi nghĩ vào những động tác hay việc làm. Vì
thế, Chánh niệm và Vô tâm không thể giống nhau. Vô tâm chỉ tương đồng với Chánh
định. Vì Chánh niệm chưa phải là chặng cuối cùng, mà Chánh định mới là chặng
cuối cùng của Bát chánh đạo.
31. Ý nghĩa chữ vạn.
Hỏi: Tại
sao trước ngực của tượng Phật Thích Ca có hình chữ Vạn? và ý nghĩa của chữ vạn
như thế nào? Và không hiểu lý do tại sao hình chữ Vạn có khi có chiều xoay bên
phải, có khi có chiều xoay bên trái?
Đáp: Chữ vạn là một trong 32 tướng tốt của
Đức Phật. Đây là biểu thị cái công đức của Phật. Sở dĩ nó ứng hiện ở nơi ngực
của Phật là để nói lên cái ý nghĩa giác ngộ vẹn toàn của Phật. Ở chính giữa
ngực là tượng trưng cho lý Trung Đạo, không kẹt hai bên, vượt ngoài đối đãi.
Về
ý nghĩa của nó, theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang giải thích, thì nó có nghĩa là
cát tường hải vân hay cát tường hỷ toàn. Còn về chiều xoay bên phải, bên trái
không đồng nhứt, thì cũng theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang giải thích như sau:
“
Hình chữ Vạn,(xin vẽ chữ vạn có chiều trên xoay về bên trái vào đây) vốn là dấu
hiệu biểu thị sự tốt lành ở Ấn Độ thời xưa. Ngoài Ấn Độ thì Ba Tư, Hy Lạp đều
có phù hiệu nầy, thông thường được xem là tượng trưng cho mặt trời, ánh chớp,
lửa, nước chảy.
Ở
Ấn Độ thời xưa, Phật giáo, Bà La Môn giáo, Kỳ na giáo, đều sử dụng chữ nầy. Đầu
tiên, người Ấn Độ cho rằng phù hiệu nầy là sợi lông xoắn ở ngực của Phạm thiên,
Tỳ thấp nô (Phạn: Visnu), cát lật sắt noa (Phạn: Krsna) và thông thường coi đây
là dấu hiệu của sự tốt lành, thanh tịnh, tròn đầy. Trong Phật giáo, chữ Vạn
(chiều trên xoay về bên trái ) là tướng tốt lành ở trước ngực của Phật và hàng
Bồ tát Thập Địa, về sau dần dần trở thành dấu hiệu đại biểu cho Phật giáo.
Xưa
nay có nhiều thuyết nói về chữ vạn. Về Hán dịch chữ vạn, Cưu ma la thập và
Huyền Trang dịch là chữ « Đức », Ngài Bồ đề lưu chi thì dịch là chữ Vạn, biểu
thị ý nghĩa công đức tràn đầy. Còn trong Tống Cao Tăng Truyện 3 thì cho rằng
nếu chữ Vạn (chiều trên xoay về bên trái) mà dịch là vạn thì chẳng phải dịch ý
mà là dịch âm. Nhưng âm của chữ Srivatsalaksana ban đầu không được đưa vào Kinh
truyện, đến năm 639 thời Võ Tắc Thiên mới đặt ra chữ nầy, đọc là vạn và cho
rằng chữ nầy có ý nghĩa là nơi nhóm hợp của muôn điều tốt lành. Nhưng chữ Vạn
(chiều trên bên trái) vốn là một ký hiệu chứ chẳng phải là một chữ. Sở dĩ xưa
nay đọc liền là vạn tự một mặt là do tập quán, chủ yếu nhất là do lầm lẫn khi
dịch từ tiếng Phạn sang Hán. Vì chữ Phạn Laksana, dịch âm là Lạc sát nẳng,
nghĩa là tướng; mặt khác chữ Phạn aksara dịch âm là Ác sát la, nghĩa là Tự. Có
lẽ 2 âm Laksana và aksara gần giống nhau cho nên ý nghĩa của chúng bị lẫn lộn.
Nói theo đây thì chữ Vạn (chiều trên bên trái) tự nên đọc là tướng, (vạn tướng)
mới phù hợp với nghĩa gốc của chữ Phạn.
32. Mười Hai Loại Cô Hồn.
Hỏi: Xin cho biết
12 loại chúng sinh hay cô hồn gồm có những loại nào ?
Đáp: Mười hai loại cô hồn gồm có :
1.
Lụy triều đế chúa (các vua chết vì phản loạn, tai nạn đổi đời)
2.
Quan tướng vương triều và Oai tướng phản thần.
3.
Bá quận danh thần.
4.
Bạch ốc thư sinh.
5.
Xuất trần thượng sĩ (tức là hàng tu sĩ chỉ nói suông lời Phật dạy, không thực
hành pháp và còn bị vướng mắc một cái gì đó ).
6.
Huyền môn đạo sĩ.
7.
Thương gia lữ khách và kẻ buôn tảo bán tần.
8. Chiến
sĩ trận vong.
9.
Sản phụ bất hạnh (lúc thai sản mất cả mẹ lẫn con).
10.
Khuyết tật thiếu tu.
11.
Cung phi mỹ nữ và hạng buôn hương bán phấn.
12.
Tù nhân tử tội.
Ngoài
ra, còn phải kể đến kẻ chìm sông lạc suối, kẻ nằm cầu gối đất, kẻ cơ bần khất
cái và kẻ gieo giếng thắt dây...” (Theo quyển sách “ Cốt Tủy Giáo Lý Phật, Bốn
tiến trình đi tới Hạ Thủ Công Phu” của tác giả Tâm Tịnh, trong phần Thay Lời
Tựa Viết Cho Một Người Khách Đường Xa )
33. Tụng Kinh ở nhà có cần
đánh chuông mõ không ?
Hỏi: Ở nhà, chúng con thường
tụng kinh vào những buổi tối, nhưng con không biết đánh chuông mõ, vậy chúng
con chỉ tụng niệm không cần đến chuông mõ có được không? Và tụng như thế nào
mới được lợi ích?
Đáp: Việc tụng niệm, mục đích là để hiểu
nghĩa lý trong kinh, xem Phật dạy những gì, rồi từ đó chúng ta áp dụng vào đời
sống hằng ngày. Như thế mới có lợi ích. Vì vậy, khi tụng đọc, chúng ta nên tụng
đọc chậm rãi, không nhứt thiết là phải có chuông mõ. Sở dĩ có chuông mõ là vì
có nhiều người tụng đọc. Công dụng của mõ là để giữ trường canh để mọi người
tụng đọc, cho nó có nhịp nhàng hòa âm với nhau, không có kẻ tụng trước, người
tụng sau. Nên việc đánh mõ cũng khá quan trọng.
Người
đánh mõ cần phải học cách đánh sao cho nó giữ trường canh đều đặn. Bởi thế,
trong Thiền môn gọi người đánh mõ là Duyệt chúng. Duyệt là vui vẻ, chúng là
nhiều người, nghĩa là làm cho mọi người trong thời khóa lễ tụng niệm, tất cả
đều được an vui. Như thế, thì người đánh mõ mới có phước. Bằng ngược lại, không
biết cách đánh, trường canh nhịp điệu không đều, khi thì nhanh quá, lúc lại
chậm quá, làm cho mọi người tụng đọc không hài lòng, nổi phiền muộn. Như thế, thì
người đánh mõ càng thêm mang tội.
Còn
người giữ bên chuông để thỉnh chuông, gọi là Duy Na. Duy na có nghĩa là người
điều khiển buổi lễ. Thường ở chùa, vì có nhiều người tụng niệm, nên cần phải có
chuông mõ.
Ngược
lại, ở nhà, nếu Phật tử chỉ tụng niệm một mình, thì không cần phải đánh mõ
chuông. Nếu như trong nhà đã có mõ chuông, thì khi tụng niệm muốn đánh cũng
được không có sao. Tuy nhiên, tốt hơn là không cần sử dụng đến những khí cụ
nầy. Trường hợp không có thì thôi. Khi tụng niệm, tùy theo sức khỏe và thói
quen, tụng lớn tiếng hay nhỏ tiếng hoặc tụng niệm thầm đều được cả.
Xin
nhắc lại, mục đích của sự tụng niệm cốt để hiểu rõ nghĩa lý trong kinh qua
những lời Phật dạy, để từ đó, chúng ta đem ra ứng dụng vào đời sống, như vậy
mới có lợi ích thiết thực. Nếu như, khi tụng mà không hiểu rõ nghĩa lý Phật
dạy, thì Phật tử nên đến chùa cầu chư Tăng, Ni chỉ dạy cho.
34. Nêm nếm đồ mặn vào
những ngày ăn chay.
Hỏi: Con ăn chay một năm 4 tháng, một tháng
con ăn 10 ngày, nhưng những ngày ăn chay, con phải nấu cơm cho gia đình ăn. Cho
nên khi nấu ăn, con vẫn nêm nếm bình thường, vì sợ gia đình ăn không ngon, rồi
dư thức ăn bỏ thì tội, nên con làm như vậy có được hay không?
Đáp: Người Phật tử phát nguyện ăn chay là
một điều tốt. Vì ăn chay, mục đích là để nuôi dưỡng lòng từ bi, tránh bớt việc
giết hại sinh vật. Tuy nhiên, vì còn sống chung trong gia đình, lại là người
nội trợ lo việc nấu nướng cho gia đình, nên khi nấu cần phải nêm nếm thức ăn.
Thật ra, việc nêm nếm không có gì là tội lỗi cả. Vì xưa kia, Đức Lục Tổ Huệ
Năng khi còn trong thời gian lánh nạn, sống chung với những người thợ săn, nên
mỗi bữa ăn, Ngài hái rau bỏ luộc chung trong nồi thịt của họ, rồi Ngài vớt lấy
rau mà ăn. Ngài ở ngôi vị Tổ, vì hoàn cảnh bắt buộc phải ăn như thế.
Nay
Phật tử cũng vì hoàn cảnh gia đình, nên không thể vì mình mà để những người
thân: chồng con trong gia đình phải mất vui. Theo chúng tôi, thì việc nêm nếm
đó không có gì tội lỗi cả. Điều quan trọng là ở nơi tâm ý của mình. Nếu trong
khi nếm thử như thế, mà mình khởi tâm tham muốn thèm thuồng, thì điều đó là có
lỗi. Có lỗi là tự mình dối với lòng mình, chớ không có lỗi với ai. Còn nếu,
trong khi nêm nếm mà không có tác ý thèm muốn, thì không sao. Vậy, Phật tử nên
tự hỏi lại lòng mình có như thế không? Nếu có, thì tốt hơn hết là hãy để cho
những người ăn mặn chính họ tự nêm nếm lấy.
35. Ý nghĩa kiết thất và
đả thất.
Hỏi: Kiết thất,
đả thất và kết kỳ niệm Phật ý nghĩa của chúng giống nhau hay khác nhau?
Đáp: Kiết thất, đả thất và kết kỳ niệm Phật
ý nghĩa không khác nhau. Cả ba danh từ nầy, đều có một ý nghĩa chung là hành
giả tránh bớt duyên trần để yên tu. Kiết thất là ở trong ngôi nhà nhỏ hay một
gian phòng, dứt hết duyên ngoài, chỉ chuyên tu (tùy theo pháp môn mà hành giả
đã chọn) như niệm Phật trong khoảng bảy ngày. Nhưng tại sao phải bảy ngày,
không sáu ngày hoặc tám ngày? Kinh dạy: “Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn nào,
nghe nói đến Phật A Di Đà, giữ niệm danh hiệu, hoặc một ngày, hoặc hai ngày,
hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày một
lòng không loạn”. Trong Kinh không nói chỉ sáu ngày, hay quá đến tám ngày,
cho nên người tu Tịnh độ xưa nay căn cứ theo kinh quy định thời gian để kết kỳ
niệm Phật trong bảy ngày. Từ đó, hành giả có thể tùy ý tăng thời gian thêm hoặc
21 ngày hay 49 ngày v.v… Mục đích là để hành giả đạt được Chánh định hay
Nhứt tâm bất loạn mà thôi.
Còn
nói Đả thất, chữ đả có nghĩa là đánh. Nói đủ là “đả thành nhứt phiến”,
nghĩa là đánh cho thành một khối tịnh niệm. Đả thất niệm Phật có khi nhiều
người đồng tu, hoặc chỉ một người cho dễ được thanh tịnh. Như vậy, ba danh từ
tuy có khác, nhưng, tựu trung ý nghĩa cũng giống nhau.
36. Ý nghĩa tướng lưỡi
rộng dài.
Hỏi: Trong
Kinh Di Đà có nói tướng lưỡi của Phật rộng dài che khắp cả tam thiên đại thiên
thế giới. Xin hỏi: hiện tượng nầy như thế nào? Có đúng như vậy không?
Đáp: Hiện tượng đó, chỉ là ý nghĩa tiêu biểu
tượng trưng thôi. Chớ không phải là có thật như vậy. Ý nói: Sở dĩ Phật được
tướng lưỡi rộng dài như thế, do vì trải qua vô số kiếp, Phật chưa từng nói
dối, nên mới được như vậy. Ngược lại, phàm phu chúng ta vì trải qua nhiều đời
nói dối, nói thêu dệt, nói lời trau chuốt để gạt gẫm thiên hạ, mưu đồ trục lợi
cho mình, nên kết quả, tướng lưỡi của chúng ta hiện nay dài không quá 3 tấc.
Trong
Kinh nói: người nào ba đời không nói dối, thì lưỡi le ra đụng tới chót mũi.
Kinh diễn tả nêu ra như thế, nhằm mục đích khuyên chúng ta không nên nói dối,
mà phải nói lời chân thật. Lời nói chân thật, kết quả nói ra ai cũng tin và
nghe theo. Nếu như, chúng ta y theo kinh mà giải nghĩa, tướng lưỡi của Phật
trùm khắp như vậy, thì làm sao Phật nói chuyện thuyết giảng. Cho nên nói: “Y
kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, ly kinh nhứt tự, tức đồng ma thuyết”. Qua lời
nói nầy, chúng ta cần phải cẩn trọng trong khi giảng giải kinh điển Phật giáo.
37. Chư Thiên dâng hoa
cúng dường.
Hỏi: Trong
kinh diễn tả, khi Đức Phật thuyết pháp có các chư thiên đến tung hoa cúng
dường. Xin hỏi: chư thiên từ cõi nào đến? và hoa từ đâu mà có?
Đáp: Nếu bảo chư Thiên từ cõi nào đến, thật
sự chúng tôi không biết. Chỉ thấy trong kinh nói là chư Thiên ở các cõi Trời,
như cõi Dục gồm có 6 cõi Trời: Tứ thiên vương thiên, Đao lợi thiên, Dạ ma
thiên, Đâu suất thiên, Hóa lạc thiên và Tha hóa tự tại thiên. Nhưng thực
tế, thì chúng ta không thấy. Mà không thấy, thì làm sao nói được.
Tuy
nhiên, theo chỗ chúng tôi hiểu, thì chư Thiên cũng từ nơi con người mà ra, chớ
không có ở đâu xa. Tại sao chúng tôi dám nói như thế? Bởi vì, chúng ta thử
nghiệm xét kỹ lại coi: Phật, Bồ tát, Thanh Văn, Duyên Giác… những vị nầy từ đâu
mà có? Có phải các ngài từ cõi nào xa xôi đến đây không? Hay tất cả cũng chỉ là
con người? Đã là con người, thì các ngài cũng có một đời sống: ăn, mặc, ở bình
thường như chúng ta. Chẳng qua các Ngài khác hơn chúng ta là ở chỗ trình độ
giác ngộ của các Ngài hơn chúng ta mà thôi. Xét nhân địa tu hành và quả vị đạt
được của những vị nầy mỗi mỗi đều có sai khác. Căn cứ trên nhân và quả mà các
Ngài có những tên gọi khác nhau. Nhưng tựu trung cũng là con người và sống ở
cõi nầy.
Chư
Thiên cũng thế. Những vị nầy cũng là con người, nhưng khác hơn con người thường
là ở chỗ, những vị nầy do thực hành Thập Thiện mà kết quả được thụ hưởng phước
báo an vui hơn những người giữ 5 giới và những người không biết tu hành giữ
giới. Nên gọi những vị nầy là Trời. Như vậy, thì chúng ta thấy nó rất thực tế
trong sự tu hành. Tất cả đều căn cứ trên quả vị đạt được mà có những tên gọi
khác nhau đó thôi. Đây là theo chỗ nghiên cứu hiểu biết của chúng tôi. Dĩ
nhiên, mỗi người có những lý giải và nhận xét hiểu biết khác nhau.
Nhưng
theo tôi, lý giải nào cũng phải phù hợp và phải dựa trên thực tế. Vì đạo Phật
là đạo thực tế, không viễn vông mơ hồ, huyền hoặc. Nếu bảo rằng, chư Thiên ở
các cõi khác đến, cõi đó ở đâu? Và hình thù của họ ra sao? Nhân địa tu hành của
họ, chỉ là tu mười điều lành thôi. Nếu họ từ các cõi khác đến, tất nhiên họ
phải có thần thông. Thần thông của họ phải nhanh hơn gấp mấy ngàn lần phi
thuyền hiện nay.
Các
khoa học gia dùng phi thuyền khám phá các hành tinh khác, bay lượn khắp trong
không gian, cho đến nay cũng chưa tìm thấy một vị Trời nào cả. Như vậy, hiện
tại có người, họ cố gắng giữ đúng mười điều lành, nhưng họ nào có thần thông
đâu. Những vị xuất gia tu hành hiện nay, dĩ nhiên các ngài nầy tu hành phải
vượt hơn mười điều lành, nhưng thực tế, ta chưa từng thấy vị nào có thần thông
biết bay từ nơi nầy đến nơi kia. Thần thông của những vị nầy là máy bay, thì
có. Chư Thiên không phải từ cõi khác đến, thì làm gì có hoa từ cõi khác.
Tóm
lại, qua những luận cứ trên, theo tôi quả quyết, trong kinh nói chư Thiên cũng
chính là con người mà thôi. Nhưng con người giữ tròn Thập Thiện, nên được phước
báo an vui hơn những người thường khác. Và hoa họ dùng để cúng dường Phật,
cũng chính là những đóa hoa ở trên mặt đất nầy. Chỉ có thế thôi.
38. Ý nghĩa danh hiệu
Đại Thế Chí và sự động đất.
Hỏi: Danh hiệu Đại Thế Chí có ý nghĩa gì? Và
trong kinh có nói: Khi Phật ra đời đại địa rúng động. Vậy xin hỏi: hiện tượng
quả đất rúng động nầy có giống với hiện tượng động đất hiện nay không?
Đáp: Danh hiệu Đại Thế Chí là tiêu biểu cho
người có một trí huệ siêu việt và một ý chí, nghị lực phi thường. Ngài là một
vị Bồ tát hầu cận bên đức Phật Di Đà. Căn cứ theo tượng Tam Thánh (Di Đà, Quán
Âm, Thế Chí) thì Ngài đứng bên hữu và Bồ tát Quán Âm đứng bên tả. Ngài tiêu
biểu cho đại trí huệ. Bồ tát Quán Âm tiêu biểu đại từ bi. Bi và trí phải
song vận. Cả hai không thể thiếu một trong sự tu hành, cũng như khi ra giáo
hóa. Thế nên Bồ tát Đại Thế Chí và Bồ tát Quán Âm không tách rời nhau.
Ngài
luôn dùng trí huệ soi sáng để hóa độ chúng sanh ở cõi đời uế trược nầy.Vì trí
huệ có công năng phá tan mọi si mê. Hình ảnh của Ngài nói lên một sức mạnh trí
huệ phi thường mà người tu hành cần phải có. Nhờ có trí huệ chỉ đạo nên mới dẹp
trừ hết vô minh phiền não.
Có
như thế, thì hành giả tu hành mới mau được giải thoát. Nên mỗi khi niệm đến
danh hiệu Ngài, chúng ta nhớ đến trí huệ sáng ngời và ý chí kiên cường dũng
mãnh của Ngài. chúng ta quyết noi gương Ngài và kiên quyết vượt thắng mọi
chướng duyên thử thách trên bước đường tu học. Có thế, thì mới xứng đáng niệm
danh hiệu Ngài. Và chúng ta mới có được lợi ích.
Còn
nói Phật ra đời, cả đại địa đều chấn động, đây cũng là một sự tiêu biểu mà
thôi. Thường khi có một vị Thánh nhơn ra đời, thì có những hiện tượng khác
thường. Điều nầy nói lên một sự kỳ đặc mà người thường không bao giờ có. Sự
chấn động đó không phải là như động đất hiện nay. Nếu cả đại địa đều động đất
như hiện nay, thì cả nhơn loại làm sao sống sót. Như vậy, Phật ra đời có ích
lợi gì cho nhơn loại đâu? Chẳng những không đem đến sự lợi ích cho nhơn loại,
mà còn hủy diệt nhơn loại nữa. Như thế, sao gọi là Phật được?
Hiện
tượng động đất hiện nay là một hiện tượng tự nhiên của thiên nhiên. Đó là dấu
hiệu cho chúng ta biết quả địa cầu đã đến hồi nứt rạn và đi lần đến tan hoại.
39. Thờ Phật Thích Ca mà
chào nhau A Di Đà.
Hỏi: Tại
sao ở cõi nầy, đại đa số đều thờ Phật Thích Ca, mà Phật tử gặp nhau, thì lại
chào nhau bằng câu Phật hiệu A Di Đà Phật mà không niệm Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật?
Đáp: Vì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là giáo chủ
ở cõi Ta Bà nầy, nên người ta tôn thờ Ngài là để nhớ đến công ơn giáo hóa lớn
lao của Ngài. Nhờ sự chỉ giáo của Ngài mà người ta noi theo tu hành nên được
giải thoát. Do đó, hầu hết các chùa Phật giáo Bắc Tông cũng như Nam Tông đều
kính trọng tôn thờ Ngài. Còn về danh hiệu của Ngài, người ta chỉ niệm vào những
dịp lễ lộc hoặc vào những thời khóa lễ tụng niệm. Chớ người ta không niệm danh
hiệu Ngài khi gặp và chào nhau. Bởi lẽ, phật giáo có nhiều Tông phái, nhưng chỉ
có những người tu theo Tịnh độ tông mới chào nhau bằng câu Phật hiệu A
Di Đà mà thôi. Còn các Tông phái khác, thì không có.
Sở
dĩ những liên hữu phật tử khi gặp và chào nhau như thế, mục đích là để họ thức
nhắc cho nhau về một vị Giáo Chủ mà họ đang hướng lòng về mong mỏi gặp Ngài.
Đây là một cách chào nhau vừa lịch sự trang trọng mà cũng vừa thức nhắc cho
nhau đừng quên câu hiệu Phật. Vì người tu Tịnh Độ, lấy câu trì danh Phật hiệu:
“Nam Mô A Di Đà Phật” làm phương châm hành trì. Bất luận thời gian và nơi chốn
nào, hành giả cũng phải lưu tâm nhớ niệm. Có thế, thì mới mong đạt thành ý nguyện
vãng sanh về Cực lạc. Do đó, nên việc thức nhắc cho nhau bằng cách chắp tay xá
chào và cả hai đồng niệm câu A Di Đà Phật, thật là hợp lý và hữu ích.
40. Làm sao cho mẹ con
khỏi tội.
Hỏi: Vào
những ngày thọ Bát, con nhờ con của con chở giùm, thì thấy nó không vui. Con
kêu xe taxi đi, khi đến chùa thọ Bát tu học, thì con cảm thấy rất buồn. Vậy xin
hỏi làm sao cho hai mẹ con đều không mang tội?
Đáp: Nếu Phật tử buồn vì nhờ con chở đến
chùa mà nó không vui lòng giúp cho, thì tôi thành thật khuyên Phật tử không nên
buồn. Vì Phật tử nhờ mà nó không chở, đôi khi nó có những lý do riêng của nó.
Phật tử nên chịu khó tìm hiểu mà cảm thông với tuổi trẻ ở xứ nầy. Nếu nó không
chở, Phật tử kêu taxi đi, thì có gì đâu phải buồn và cũng không có gì là mang
tội cả.
Nếu
Phật tử buồn, thì chỉ thêm thiệt thòi cho mình trong ngày thọ Bát tu học mà
thôi. Mục đích phật tử đến chùa tu học là để cho tâm được an tĩnh vui vẻ. Chớ
nếu như mang tâm sự buồn phiền thì đâu có lợi ích gì! Cho nên, khi nào mình nhờ
con mà nó vui vẻ giúp chở giùm, thì đó là đứa con có hiếu và rất tốt. Vì nó ý
thức bổn phận làm con, biết yêu thương tôn kính và đây cũng là dịp tốt để chúng
nó báo ân phần nào cho cha mẹ. Còn nếu nó không chở, thì mình nên tự xét, biết
đâu vì mình thiếu phước, nên không thể nhờ con được.
Xét
như thế, thì mình lại cố gắng tu nhiều hơn. Phật tử nên tìm hiểu: vì sao nó
không chở mình? Phật tử có làm gì nó buồn không? Hay là tại vì nó làm việc gì
đó mệt nhọc, hoặc thức khuya học hành hay cuối tuần tiệc tùng với bạn bè, nên
nó cảm thấy mệt mỏi cần phải ngủ thêm cho đủ sức khỏe. Như thế, thì Phật tử nên
thương và cảm thông nhiều hơn, chớ đừng có thái độ trách móc hay la rầy làm
mình mất vui mà chúng nó cũng mất vui. Đã mất vui, thì việc đi chùa của Phật tử
thật sự không được lợi ích.
Tốt
hơn hết, là Phật tử nên khéo léo linh động mà xử sự sao cho việc đi chùa của
mình và trong gia đình đều được hòa thuận an vui, như thế, mới xứng đáng là một
Phật tử hiểu đạo tu hành và mới cảm hóa được gia đình. Bằng ngược lại, thì sẽ
gây thêm sự phiền não cho mình và cho gia đình mà thôi.
Không
nên vì một việc nhỏ nhoi như thế, mà làm cho gia đình mất đi hòa khí. Nhứt là
tình mẹ con phải bị sứt mẻ. Đôi khi chúng nó còn chê cười mình là chỉ biết đi
chùa thôi, chớ thật sự không biết tu hành gì cả. Vì người biết tu là phải luôn
sửa đổi tâm tánh, làm thế nào cho phiền não tham, sân, si… càng ngày càng mỏng
dần, thì điều đó mới hay và mới thực sự là người biết tu hành.
Tóm
lại, nếu phật tử nhờ nó mà nó không chở, phật tử buồn giận nó, thì lòng phật tử
bất an. Như vậy, thì chính mình càng thêm phiền não, sự tu hành không được tiến
bộ. Còn con của phật tử không phải có tội với Phật mà chỉ có lỗi là làm cho
phật tử không vui. Như vậy, tốt hơn hết là mẹ con nên hiểu và thông cảm, thương
yêu giúp đỡ cho nhau, thì thật là tốt đẹp biết mấy. Và như thế, thì việc tu
hành hay đi chùa của phật tử cũng như bổn phận làm con trả hiếu phần nào cho
cha mẹ, cả hai đều được lợi ích thiết thực vậy.
Kính
chúc phật tử nên cố gắng an nhẫn tu hành.
41. Sau khi thọ bát về nhà
nấu đồ ăn mặn có lỗi không?
Hỏi: Ngày
con đi thọ bát đến chiều về nhà. Khi về nhà, con làm thức ăn mặn cho con của
con ăn. Xin hỏi: như thế có được hay không?
Đáp: Câu hỏi của Phật tử không nói rõ là khi Phật
tử thọ Bát từ sáng đến chiều trong ngày chủ nhật, hay là thọ Bát ngày thứ bảy
mà Phật tử không ngủ lại chùa, chiều lại về lo cơm nước cho con. Nếu Phật tử
chỉ thọ Bát ngày chủ nhật, sáng thọ giới tu học đến chiều xả giới, thì việc nấu
nướng của Phật tử không có gì sai trái.
Ngược
lại, nếu Phật tử phát nguyện thọ Bát trong thời gian 24 tiếng đồng hồ, nghĩa là
từ sáng thứ bảy cho đến sáng chủ nhật mới xả giới, thì việc về nhà nấu mặn của
Phật tử, nó không đúng luật Phật chế. Vì Phật tử đã phát nguyện tịnh tu trọn
một ngày đêm ở tại chùa, mà Phật tử về nhà ngủ nghỉ, như thế là đã trái với
luật Phật chế cho người tại gia thọ Bát quan trai giới tập tu theo công hạnh
của người xuất gia rồi. Như vậy, nếu Phật tử hỏi về việc thọ Bát trọn một ngày
đêm, thì tôi thành thật khuyên Phật tử tốt hơn hết là nên sắp xếp việc nhà cho
ổn thỏa, trước khi Phật tử đến chùa thọ Bát. Có như thế, thì cả hai mới được an
vui, lợi ích.
42. Giải quyết thế nào
giữa mẹ con được vui.
Hỏi: Nếu
ngày thọ Bát, con của con cần đến con giúp một vài việc cần thiết, khi ấy, con
không đến chùa thọ Bát được, thì lòng con cảm thấy bất an. Còn nếu con không
nhận giúp cho con của con, thì nó không vui. Vậy xin hỏi: Phải giải quyết như
thế nào cho cả hai đều được vui vẻ?
Đáp: Việc nầy thật khó giải quyết cho cả hai
đều được lưỡng toàn. Vì ở đời, người ta thường nói: “Không ai có thể bắt cá hai
tay”. Nếu cố tình bắt như thế, thì rốt lại chỉ là uổng công mà không được gì
cả.
Trường
hợp trên, chúng tôi chỉ xin thành thật khuyên nhắc Phật tử, nên mở rộng cõi
lòng mà giúp cho con nó được vui vẻ. Bởi lẽ, Phật tử còn ở tại gia, đương nhiên
là nó còn sự quan hệ mật thiết trong gia đình rất lớn. Nếu chỉ vì sự lợi ích
cho riêng cá nhân mình, mà mình không nghĩ gì đến sự giúp đỡ cho kẻ khác, thì
điều đó nó cũng chưa đúng ý nghĩa của sự tu hành. Hơn nữa, sự giúp đỡ đó, lại
là giúp cho người thân ruột thịt của mình. Sự tu hành ở tại gia, Phật tử nên cố
gắng giữ làm sao cho mình và người, nói chung là trong gia đình đều được thuận
thảo trong ấm ngoài êm, như thế, mới thật là quý giá tốt đẹp. Bằng ngược lại,
mình chưa thật sự cắt đứt mối giây liên hệ, thì làm sao lòng không áy náy buồn
phiền khi mình làm theo ý mình.
Như
vậy, cả hai đều mất vui. Giả như, ngày hôm ấy, Phật tử nhứt quyết là phải tới
chùa thọ Bát, nhưng Phật tử nên tự tra vấn lại lòng mình, mình có thật sự an tâm
tu học hay không? Hay là thân tuy ở trong chùa, mà tâm thì mãi bị ray rứt dày
xéo khó chịu khi nghĩ đến mình không giúp được cho con mình.
Từ
đó, mình cảm thấy hối hận buồn lòng cho chính mình. Như vậy, thì thử hỏi suốt
ngày thọ Bát hôm đó, Phật tử có được yên tâm tu học với chúng bạn hay không? Và
có được chút gì lợi lạc cho tâm hồn hay không? Chẳng những không được lợi lạc
mà còn có tội nữa. Vậy tốt hơn hết, Phật tử nên giúp cho con của Phật tử và
đồng thời tìm cách giải thích cho chúng nó biết về việc đi chùa thọ Bát, tu
hành của phật tử. Mục đích là để cho chúng nó cảm thông mà sau nầy ít phải nhờ
vả đến Phật tử. Như vậy, thì tình mẹ con không bị sứt mẻ và càng yêu thương
nhiều hơn. Vì thỉnh thoảng chúng nó mới nhờ giúp giùm, chớ đâu phải nó nhờ
mình hoài như thế.
Tóm
lại, người Phật tử biết tu nên khéo léo linh động uyển chuyển trong việc tu
hành, chớ đừng có cố chấp quá mà làm mất đi sự hòa khí trong gia đình, nhứt là
tình mẹ con. Đó là điều trái với lẽ đạo và trái với sự tu hành của chúng
ta. Cố gắng càng tập tu hạnh hỷ xả chừng nào, thì Phật tử càng được an lạc
nhiều chừng ấy. Kính chúc Phật tử nên an nhẫn mà cố gắng tu tập.
43. Chỉ cạo tóc không xuất
gia bị người lầm nhận xá chào có lỗi không?
Hỏi: Con
chưa xuất gia mà đã cạo tóc, nên người ta lầm tưởng con là người xuất gia, mỗi
khi gặp con ai nấy cũng đều chắp tay kính cẩn xá chào, con cũng cung kính xá
lại. Xin hỏi: Như thế, con có bị tổn phước hay không?
Đáp: Việc đó không có gì là tổn phước cả.
Chẳng qua là người ta hiểu lầm mà thôi. Vả lại, Phật tử đâu có ý muốn như thế.
Nhưng trong khi người ta xá chào Phật tử, thì Phật tử cũng xá chào lại. Điều
đó, cả hai đều rất tốt. Bị tổn phước, với điều kiện là khi người ta cung kính
chắp tay xá chào Phật tử mà Phật tử không cung kính xá chào đáp lại. Chẳng
những thế, Phật tử lại còn có tâm đắc chí kiêu mạn, thích để người ta lầm tưởng
mà cung kính tôn trọng mình, xem mình như người xuất gia. Nếu Phật tử có tâm
như thế, thì không nên và sẽ bị tổn đức rất lớn. Bằng không, thì không có gì là
tổn phước cả. Phật tử yên tâm không có gì phải lo sợ.
44. Sức khỏe kém muốn xuất
gia ở nhà tu được không?
Hỏi: Con
có ý định xuất gia, nhưng vì lý do sức khỏe hay đau yếu bệnh hoạn, con không
thể ở tại chùa được. Vậy xin hỏi: sau khi xuất gia con có thể ở tại nhà tu được
không?
Đáp: Điều nầy chúng tôi không thể trả lời
dứt khoát được. Nếu Phật tử có ý muốn như thế, thì tốt hơn hết là nên trình bày
rõ cho vị thầy nào mà Phật tử định muốn thế phát xuất gia. Sau khi trình bày
cặn kẻ, thì tùy vị thầy đó chỉ dạy và giải quyết cho Phật tử được mãn nguyện.
Nhưng, theo ý tôi, Phật tử vì sức khỏe kém, hay đau yếu bịnh hoạn, tốt hơn là
Phật tử nên giữ hình thức của người tu tại gia, và cố gắng tập tu theo bản
nguyện của người xuất gia, là diệt trừ phiền não ra khỏi Tam giới, như thế,
được phần nào thì tốt phần ấy.
Nếu
Phật tử xuất gia mà không học hỏi và hành trì đúng theo hạnh nguyện của người
xuất gia, thì chỉ càng thêm tội mà thôi. Chi bằng Phật tử cứ tu tại gia, (vì
lớn tuổi yếu đuối không tu học ở trong chùa được) gắng công chí thành niệm
Phật, cầu vãng sanh, như thế, theo tôi, thì có lẽ tốt hơn. Trên hình thức, Phật
tử tuy ở tại gia, nhưng xét về tánh, thì Phật tử đang hướng về xuất gia. Bởi
xuất gia có 3 nghĩa: 1. Xuất thế tục gia. 2. Xuất phiền não gia. 3. Xuất Tam
giới gia. Về 3 nghĩa nầy, nếu Phật tử ở tại gia mà có ý hướng xuất gia, quyết
chí tu tập để ra khỏi nhà phiền não và tiến lên là ra khỏi nhà Tam giới (dục
giới, sắc giới và vô sắc giới) Được như thế, thì thân tướng tuy ở tại gia
mà tâm tánh thì đã xuất gia rồi vậy.
Mong
Phật tử suy xét lại cho thật kỹ trước khi quyết định một vấn đề rất hệ trọng
cho đời tu của mình. Đó là lời khuyên thành thật của chúng tôi. Kính chúc Phật
tử luôn được an vui mạnh khỏe và luôn tinh tấn tu hành.
45. Ăn chay trường nấu mặn
có tội không ?
Hỏi: Con
ăn chay trường, nhưng vì hoàn cảnh con phải nấu thức ăn mặn, phải xắt thịt cá
để nấu ăn, như vậy con có mang tội hay không?
Đáp: Việc ăn chay trường là chuyện phát
nguyện riêng của Phật tử. Điều đó rất tốt. Nhưng không vì thế, mà Phật tử không
nghĩ và lo đến những người khác trong gia đình. Đó là hoàn cảnh bắt buộc. Bởi
lẽ, Phật tử còn ở tại gia, chỉ ở trong phạm vi tu nhơn thừa, chưa phải là người
tu hạnh xuất thế. Nên việc nấu nướng cho gia đình, đó là bổn phận của Phật tử.
Việc
xắt thịt cá, nấu đồ ăn mặn, thì không có tội lỗi gì cả. Có tội lỗi là khi nào
Phật tử mua những con vật còn sống, rồi chính Phật tử ra tay giết hại chúng nó
để nấu cho gia đình ăn, thì điều đó là Phật tử đã phạm tội sát sanh. Đã thế,
thì việc ăn chay trường của Phật tử chỉ là vô ích mà thôi. Vì trái với lương
tâm và bản nguyện cũng như đã phạm giới sát.
Ngoài
ra, nếu Phật tử nấu ăn mà không có trực tiếp sát hại sanh vật, thì Phật tử yên
tâm không có gì là tội lỗi cả.
46. Ăn chay trường mà mua
thịt cá nấu cho gia đình ăn có tội không?
Hỏi: Con
ăn chay trường, thường ngày, sáng con tụng kinh Pháp Hoa và chiều lại niệm Phật
công cứ. Nhưng khi đi chợ, thấy thịt cá tươi ngon, con thường mua về nấu cho
con của con ăn. Xin hỏi: Như vậy con có tội hay không?
Đáp: Việc ăn chay trường và giữ đúng thời
khóa tụng niệm của Phật tử, thật là điều rất tốt và quý giá. Nhưng Phật tử nên
nhớ, Phật tử vẫn còn là người tu tại gia, tức tu theo nhơn thừa. Mà tu nhơn
thừa, thì Phật dạy người Phật tử giữ gìn 5 giới cấm căn bản. Việc giữ giới, tùy
theo mỗi người gìn giữ nghiêm nhặt hay không nghiêm nhặt và tùy theo nghiệp sát
hại nặng nhẹ mà quả báo có sai khác. Mặc dù Phật tử ăn chay trường, tụng kinh
niệm Phật, nhưng, vì còn sống trong gia đình, nên việc lo cho gia đình hay con
cái ăn uống là chuyện không sao tránh khỏi. Nói rõ hơn, đó là chuyện sinh hoạt
bình thường.
Tuy
nhiên, nếu Phật tử mua những con vật đã chết, ngoài thịt ra, thì không có gì
mang tội cả. Ngược lại, nếu Phật tử mua những con vật còn sống, rồi Phật tử tự
tay giết chúng để nấu ăn, thì điều đó, tất sẽ mang tội sát sanh. Và đó cũng là
phạm cái tội cố sát. Bằng ngược lại, Phật tử chỉ mua những con vật đã chết và
người ta đã làm sẵn, thì không đến đổi phải mang tội.
Đó
là luận theo tương đối, chớ nếu nói cho cùng, thì hiện chúng ta là phàm phu
sống trong vòng nghiệp thức sai sử, mọi hành động, ý nghĩ, nói năng, ít nhiều
gì chúng ta cũng đều có tội lỗi cả. Nên Phật tử chúng ta cố gắng giữ được phần
nào thì tốt phần đó. Bởi thế, giới luật tiếng Phạn gọi là Ba la đề mộc xoa,
Trung Hoa dịch là Biệt giải thoát. Nghĩa là giải thoát từng phần, từng giới.
Người Phật tử giữ được giới nào thì thoát khổ giới đó. Thí dụ chúng ta giữ giới
không trộm cắp, thì cuộc sống chúng ta khỏi phải lo sợ tù tội và quả báo đời
sau cũng được tốt đẹp.
47. Thờ Phật Thích Ca mà
niệm Di Đà.
Hỏi: Tại
sao trong chùa trên chánh điện thì thờ Phật Thích Ca, mà khi tu thì người Phật
tử lại niệm Phật Di Đà?
Đáp: Thờ Phật
Thích Ca, vì Ngài là giáo chủ cõi Ta bà nầy. Chúng ta ngày nay biết đến và tu
theo Đạo Phật, cũng nhờ sự thuyết giáo chỉ dạy của Ngài. Nên chúng ta tôn thờ
Ngài là để một mặt, nhớ đến công ơn giáo hóa của Ngài, mặt khác, cũng để noi
gương học hỏi và làm theo những điều Ngài đã thật hành được giác ngộ, giải
thoát.
Còn
tại sao phật tử khi tu lại niệm Phật Di Đà? Không phải người Phật tử nào khi tu
cũng trì niệm danh hiệu Phật Di Đà hết. Sở dĩ chúng ta niệm danh hiệu Phật A Di
Đà, lý do, là vì chúng ta là những người đang tu theo pháp môn Tịnh Độ. (Và chỉ
có những người tu theo pháp môn Tịnh độ). Mà pháp môn Tịnh độ lấy sự trì danh
niệm Phật làm tiêu đích chính. Do đó, nên Đức Phật Thích Ca khuyên chúng ta nên
cố gắng niệm danh hiệu Đức Phật Di Đà. Nếu chúng ta thiết thiệt niệm danh hiệu
Ngài, chẳng những hiện đời chúng ta được an lạc mà tương lai cũng được an lạc.
Ngoài
ra, chúng ta, vì căn cứ theo bản nguyện của Đức Phật Di Đà, trong 48 điều đại
nguyện của Ngài, nguyện nào Ngài cũng muốn tiếp dẫn chúng sanh về cõi nước của
Ngài. Nếu như có chúng sanh nào thành tâm tha thiết ngày đêm tưởng niệm đến
danh hiệu Ngài, thì khi lâm chung, Ngài sẽ phóng quang tiếp dẫn về cõi nước Cực
Lạc của Ngài. Bởi thế, nên người tu Tịnh độ đều hết lòng niệm danh hiệu Ngài để
được vãng sanh về Cực lạc. Ngược lại, những người tu theo các pháp môn khác,
thì không có niệm danh hiệu Ngài. Đó là tùy theo căn cơ trình độ và sở thích
của mỗi người.
48. Tại sao cha mẹ chết,
người xuất gia không lạy?
Hỏi: Tại
sao người xuất gia, khi cha mẹ mất mà không lạy lúc tẩn liệm cũng như lúc thiêu
hay chôn? Như thế, thì có phạm tội bất hiếu hay không?
Đáp: Xin thưa
ngay là không có gì phạm tội bất hiếu cả. Vì người xuất gia, trước khi vào chùa
cạo tóc, đã có xin phép cha mẹ và được cha mẹ đồng ý. Và trước khi làm lễ thế
phát xuất gia, người con lạy cha mẹ 3 lạy. Ba lạy đó, nói lên lòng biết ơn cha
mẹ và cũng để trả hiếu đáp đền lại công ơn giáo dưỡng sâu dầy của cha mẹ. Từ đó
về sau, người xuất gia không còn lạy cha mẹ nữa. Lý do, là vì sợ cha mẹ bị tổn
đức. Bởi người xuất gia, tuy hình hài là do cha mẹ sanh ra, nhưng huệ mạng là
do giới luật của Phật làm tăng trưởng. Mà “pháp thân huệ mạng” đối
với người xuất gia thật rất quan trọng. Nên sau khi thọ giới luật rồi, người
xuất gia phải gìn giữ một cách rất nghiêm nhặt. Nhứt là sau khi thọ giới Tỳ
kheo, tức Đại giới hay Cụ túc giới, thì người xuất gia càng phải thận trọng gìn
giữ nhiều hơn nữa. Do đó, nên giới đức ngày càng tăng trưởng.
Trong
khi đó, thì cha mẹ là người tại gia, chỉ gìn giữ 5 giới cấm, cho nên xét về
giới đức thì kém hơn rất nhiều. Do đó, theo luật Phật dạy, thì cha mẹ kỉnh Phật
phải trọng Tăng. Dù ngày xưa là con, nhưng bây giờ là người của đạo pháp, sống
trong hàng ngũ Tăng già, nên cha mẹ cũng phải kính trọng như bao nhiêu vị Tăng
khác. Đã kính trọng như thế, thì làm sao cha mẹ dám để cho người xuất gia lạy
mình.
Tóm
lại, vì sợ cha mẹ bị tổn đức mà không lạy, chớ không phải có ý xem thường hay
bất hiếu như người đời lầm tưởng. Hơn nữa, sự báo hiếu của người xuất gia không
phải chỉ có hình thức lễ lạy bề ngoài như người thế gian, mà những vị đó thường
đem những lời Phật Tổ dạy để khuyến nhắc cha mẹ, hầu để cha mẹ thức tỉnh mà lo
tu hành để được an vui giải thoát. Đó mới thật sự là báo ân cho cha mẹ vậy.
49. Thế nào mới là phạm ăn
phi thời?
Hỏi: Trong
những ngày tu, con lãnh phần nấu cơm, khi con giở cơm nguội ra, để lấy nồi nấu
cơm mới. Khi rửa nồi, thấy trong nồi còn dính vài hạt cơm, con sợ bỏ thì tội,
nên con đã bốc ăn. Vậy xin hỏi: Con có phạm giới ăn phi thời không?
Đáp: Nếu bảo rằng phạm giới ăn phi thời, thì
Phật tử đã phạm. Đúng luật Phật dạy, thì quá giờ ngọ những người xuất gia không
được ăn. Phật tử đến chùa thọ Bát quan trai giới, coi như quý vị tập tu theo
hạnh người xuất gia một ngày, hay nhiều ngày cũng thế.
Tuy
nhiên, cũng trong luật nói: chư Tổ xét thấy, người đời nay cơ thể yếu đuối hay
sanh đau yếu bịnh hoạn, nên các Ngài tạm cho người xuất gia ăn chiều gọi là
Dược thạch. Chữ dược thạch có ý nghĩa là ngày xưa người ta lấy đá mài thành kim
để chích trị bịnh. Từ đó, trong thiền môn dùng hai chữ nầy để nói lên người tu
khi dùng cơm chiều chẳng khác nào như là uống thuốc để trị bịnh (bịnh đói) nên
trong khi ăn không được sanh vọng tâm tham đắm.
Và
cũng trong luật, Tổ nhắc nhở là khi ăn, chúng ta phải sanh lòng hổ thẹn. Như
vậy, chư Tổ tạm cho, nhưng khi ăn phải biết hổ thẹn, rằng, mình không giữ đúng
như lời Phật dạy.
Như
vậy, thì việc ăn vài hạt cơm của Phật tử là đã phạm phi thời trong phi thời.
Nghĩa là Phật tử đã ăn thêm sau giờ ăn chiều, dù chỉ là vài hạt cơm thôi. Tuy
nhiên, dù sao Phật tử cũng có lòng sợ tội, đối với những hạt cơm do Đàn na thí
chủ dâng cúng. Đó là điều đáng khen. Nhưng lần sau, nếu khi rửa nồi mà nó còn
dính những hạt cơm trong nồi như thế, thì tốt hơn hết là Phật tử nên để vào vật
gì đó cho chim ăn. Đó cũng là điều bố thí cho chúng sanh. Như thế, thì được vẹn
toàn cả hai vậy.
50. Người chết sau 49 ngày
tiếp tục cầu siêu được không ?
Hỏi: Trong
gia đình, nếu có người thân qua đời, con cháu cúng cầu siêu trong 49 ngày, niệm
Phật mỗi đêm trước bàn Phật. Nhưng sau 49 ngày, thì còn cầu siêu bằng cách niệm
Phật tiếp tục nữa không?
Đáp: Việc con cháu tụng kinh niệm Phật cho
người thân của mình trong vòng thời gian 49 ngày, đó là điều rất quý kính. Đây
cũng là noi theo trong kinh dạy mà Phật tử làm theo. Như thế, thì rất đúng
không có gì là sai trái cả. Tuy nhiên, điều quan trọng là trong khi tụng niệm,
mọi người phải thành tâm tha thiết, đem hết lòng thành để tụng niệm cầu nguyện.
Được thế, thì người tụng niệm được lợi lạc mà hương linh cũng được phần nào lợi
lạc.
Theo
kinh Địa Tạng nói: người chết sau 49 ngày, gọi là chung thất, thì vong linh của
người mất, tùy nghiệp mà thọ sanh chiêu cảm quả báo. Nếu hiện đời tạo nhiều
điều lành, thì sẽ thọ sanh về cảnh giới an lành. Ngược lại, thì thọ sanh vào
cảnh khổ. Tùy chỗ tạo nghiệp thiện ác, mà thọ sanh qua các loài và các cảnh
giới sai biệt trong vòng lục đạo luân hồi. Cũng chính theo lời dạy nầy, mà Phật
tử thường hay cúng Trai Tăng vào ngày chung thất.
Mục
đích là nhờ sức chú nguyện của chư Tăng Ni, gọi là đức chúng như hải, mà hương
linh thác sanh về cảnh lành. Tuy nhiên, nếu luận theo ý nghĩa của hai chữ cầu
siêu, thì không phải chỉ trong 49 ngày thôi. Vì cầu siêu có nghĩa là cầu mong
vượt qua: “từ cảnh giới tối tăm xấu ác, vượt qua đến cảnh giới tốt đẹp an
lành”. Hiểu theo nghĩa đó, thì lúc nào ta cũng phải cầu siêu, cầu siêu cho
chính bản thân ta, đồng thời cũng cầu siêu cho mọi người luôn luôn được sống
trong an lành.
Theo
ý nghĩa đó, thì lúc nào ta cũng phải cầu siêu cho ta và cho người mãi mãi thoát
khỏi khổ đau để được an vui giải thoát, chớ không phải chỉ trong phạm vi 49
ngày thôi.
Vì
thế, sau 49 ngày, phật tử và những thân nhân trong gia đình tiếp tục tụng kinh
niệm Phật, thì đó là điều rất tốt. Dù cầu siêu hay không, người Phật tử cũng
nên tụng kinh niệm Phật để cho hiện đời mình được an lạc và đời sau cũng được
an lạc. Và sau mỗi lần tụng kinh niệm Phật như thế, thì Phật tử cũng nên cầu
nguyện cho hương linh thân nhân của mình, cũng như cho những vong hồn khác,
rộng ra là cho cả pháp giới chúng sanh hữu tình vô tình đều trọn thành Phật
đạo. Đây là thể hiện tấm lòng từ bi vị tha của người Phật tử, như thế, cũng rất
là tốt đẹp vậy.
51. Làm lành chết bất đắc
kỳ tử có được siêu không?
Hỏi: Hiện
đời nầy, con vâng theo lời Phật dạy làm lành lánh dữ, như làm phước, niệm Phật
v.v.. nhưng một hôm nào đó, con bị tai nạn chết bất ngờ, như khi đang tắm biển
bị sóng thần cuốn mất. Như vậy, thì thần thức của con sẽ đi về đâu? Có được về
cõi Cực lạc không?
Đáp: Luận về nghiệp báo, trong kinh Phật dạy
có nhiều loại nghiệp. Trong số những loại nghiệp đó, thì có 2 loại nghiệp báo
mà người Phật tử thường nghe nói đến nhiều nhứt. Đó là: “Tích lũy nghiệp
và Cận tử nghiệp”. Về Tích lũy nghiệp, tích lũy nó có nghĩa là cất chứa
chồng chất thêm lên, còn nghiệp là hành động lặp đi lặp lại nhiều lần thành
thói quen, Phật giáo gọi đó là nghiệp. Như vậy, hiện đời, nếu Phật tử thường
tạo những nghiệp lành, như đi chùa, tụng kinh, niệm Phật, lạy Phật, bố thí,
cúng dường v.v… thì những nghiệp lành nầy càng ngày càng nhiều, nó được cất
chứa vào trong kho A Lại Da Thức hay Tàng thức. Chắc chắn là không bao giờ mất.
Trái lại, tạo nghiệp ác cũng như thế. Đó gọi là Tích lũy nghiệp.
Còn
Cận tử nghiệp thì sao? Cận là gần, tử là chết, nghĩa là cái nghiệp gần với cái
chết. Trong khi sắp chết, trong tâm ta khởi lên nghiệp lành hoặc nghiệp dữ, thì
lúc đó ta tắt thở, tất nhiên là ta sẽ đi theo cái nghiệp mà mình khởi lên trong
khi sắp tắt thở. Cái nghiệp khởi lên rất mạnh.
Thí
dụ như người nào đó làm cho ta phải bực mình, nổi sân hận lên, hoặc ta nhớ lại
một hình ảnh nào đó quá sâu đậm, như thương hoặc ghét người nào hoặc là món đồ
nào, liền khi đó ta tắt thở, thì thần thức sẽ theo cái nghiệp thức nầy mà thọ
sanh vào cảnh đó. Đó là đi theo Cận tử nghiệp ác. Ngược lại, khi gần chết, bỗng
có người niệm Phật làm ta nhớ đến Phật, hoặc giả hằng ngày ta thường xuyên niệm
Phật, tuy lúc đó không có người niệm Phật, nhưng nhờ cái thói quen niệm Phật
hằng ngày, nên lúc sắp chết ta trực nhớ đến Phật, ngay lúc đó tắt thở, thì chắc
chắn là ta sẽ đi theo Phật. Đó là Cận tử nghiệp lành.
Như
vậy, nếu hằng ngày ta tu tạo những điều lành, mà lúc sắp chết ta khởi nghiệp
dữ, hoặc lưu luyến thương tiếc điều gì, khi nhắm mắt, phải theo Cận tử nghiệp
dữ mà thọ báo. Tuy nhiên, trong lúc thọ báo của Cận tử nghiệp, thì cái Tích lũy
nghiệp thiện ác kia không bao giờ mất. Khi trả hết Cận tử nghiệp, tùy thời gian
lâu mau không nhứt định, thì ta trở lại thụ hưởng cái Tích lũy nghiệp mà hiện
đời ta đã gây tạo. Nếu là nghiệp lành, thì ta hưởng cảnh lành, như làm người
được có địa vị cao trong xã hội. Hay giàu sang tột bực v.v… Ngược lại, thì
chiêu cảm trả quả ác .
Tóm
lại, Phật tử đừng có lo sợ, khi hiện đời mình làm lành, tu tạo nhiều phước đức,
bất thần bị tai nạn chết, gọi là: “chết bất đắc kỳ tử”, thì thần thức không
biết đi đâu. Nghĩa là sớm hay muộn gì, nó cũng đi theo con đường mà mình đã
chọn khi còn mạnh khỏe. Điều quan trọng là trong khi còn mạnh khỏe, ta nên cố
gắng tu tạo nhiều nghiệp lành, để sau khi nhắm mắt ta thác sanh về cảnh lành.
Như cây ngã, thì sẽ ngã theo chiều mà nó đã nghiêng sẵn. Điều quan trọng là
hằng ngày ta nên cố tạo cho mình có một chiều nghiêng sẵn về những điều lành
cho thật mạnh, thì khi nhắm mắt ta sẽ ngã theo chiều nghiêng điều lành đó.
52. Khi chấp tác nhổ cỏ
làm chết những con vật nhỏ có tội không?
Hỏi: Khi chúng con thọ giới Bát quan trai, trong
8 giới, thì giới không sát sanh lại đứng đầu. Tuy nhiên, khi chấp tác, chúng
con làm vệ sinh hay tảo địa… chúng con quét đi rất nhiều con vật nhỏ, nhứt là
kiến, nhện, cuốn chiếu v.v… Chúng con cố gắng tránh mà cũng không khỏi. Như
vậy, xin hỏi: đối với giới sát và luật nhân quả chúng con có phạm tội và có
phải trả quả báo hay không?
Đáp: Căn cứ vào giới bất sát cũng như luật
nhân quả, thì việc làm của Phật tử đương nhiên là đã phạm và phải trả quả. Tuy
nhiên, vấn đề nặng nhẹ có khác. Nếu luận về tội, thì dù cố ý hay vô tình, thì
cũng giết những sinh vật khác, dù là sinh vật rất nhỏ nhít như con kiến, con
trùng v.v… Đã có giết, tất nhiên là đã thành tội. Song có điều, ta cũng
cần nên hiểu thêm, giới sát sanh mà Phật cấm, chủ yếu là Phật cấm giết người.
Vì mạng sống của con người quý giá hơn hết. Rồi từ đó cứ hạ thấp dần xuống, như
trâu, bò, ngựa, chó v.v… những sinh vật mà chúng nó có ân nghĩa với loài người
chúng ta, thì Phật dạy người phật tử nên mở rộng lòng thương không nên cố ý
giết hại chúng nó.
Đối
với những loài sinh vật nhỏ hơn, ta cố giữ được chừng nào, thì tốt chừng ấy.
Luận cho cùng, thì thử hỏi trong đời có mấy ai giữ trọn vẹn giới bất sát sanh
nầy. Vì bảo vệ mạng sống, khi bịnh chúng ta uống thuốc cũng đã giết chết biết
bao vi trùng trong cơ thể chúng ta. Cho nên, Phật khuyên loài người nên tôn
trọng sinh mạng trên hết là loài người, chỉ cần cả nhơn loại biết yêu thương và
tôn trọng mạng sống con người lẫn nhau, không nên ra tay sát hại nhau, giữ được
ngần ấy, thì lo gì thế giới không hòa bình. Nhưng ngặt gì nhơn loại không giữ
được cái giới không giết người nầy, nên nhơn loại luôn luôn sống trong khổ đau.
Giết người là mạng sống lớn mà con người còn không giữ được, thì nói chi đến
những loài sinh vật nhỏ nhít khác.
Đối
với người Phật tử, Phật cấm chúng ta chẳng những không được giết người mà còn
phải thương yêu tất cả muôn loài vạn vật khác. Đó là thể hiện lòng từ bi. Nhứt
là tránh được quả báo oán thù.
Tóm
lại, qua hành động sát hại sinh vật của Phật tử như trong câu hỏi của Phật tử
nêu ra, theo tôi, thì y cứ luật nhân quả hễ có gây nhân dù là rất nhỏ, cũng đều
có quả, không thể nào tránh khỏi. Tuy nhiên, trong nhân quả đó, nó còn có nhiều
yếu tố phụ thuộc khác của cái nhân trong khi gây tạo, do đó, mà kết quả có nặng
nhẹ sai khác nhau.
Trường
hợp của Phật tử, thật ra, không phải tự ý Phật tử đi tìm nó để giết hại. Việc
làm của Phật tử là do quý thầy và đại chúng công cử, sai bảo, chớ không phải
Phật tử tự ý đứng ra làm việc đó. Nên, nếu có tội là tội chung, chớ không phải
chỉ riêng một mình Phật tử lãnh chịu. Thứ hai, là chủ tâm của Phật tử làm là
quét dọn chung quanh sân chùa cho được sạch sẽ, chớ Phật tử đâu có chủ tâm tìm
chúng để giết.
Như
vậy, chúng bị chết, chẳng qua đó cũng là cái nghiệp quả của chúng mà thôi. Chả
lẽ vì sợ chúng chết, rồi mặc cho cỏ rác mọc um tùm và tràn ngập cả sân chùa, cứ
để vậy mà chịu sao? Nếu thế, thì tại sao có bài kệ được đề cao việc quét dọn
sân chùa:
Thường
tảo già lam địa
Thời
thời phước huệ sanh
Tuy
vô nhơn khách chí
Diệc
hữu Thánh nhơn hành.
Nghĩa
là:
Thường
quét đất sân chùa
Phước
huệ luôn luôn sanh trưởng
Tuy
không du khách đến viếng
Cũng
có Thánh nhơn đi qua.
Như
vậy, Phật tử cũng đừng lo sợ, nếu có tội là tội chung chớ không phải một mình
Phật tử. Vì Phật tử làm là do đại chúng sai bảo vậy.
53. Tạo tội như núi cả …
Hỏi: Trong
phần nghi thức tụng kinh Pháp Hoa, có bài kệ khen ngợi kinh, trong đó có 2 câu:
“Dù cho
tạo tội hơn núi cả
Chẳng nhọc Diệu Pháp vài ba hàng”.
Xin hỏi: Có phải người dù tạo tội to như núi
Tu Di đi nữa, chỉ cần tụng vài hàng trong kinh Pháp Hoa, thì tất cả tội chướng
đều tiêu tan hết phải không?
Đáp: Xin chớ hiểu lầm ý của bài kệ nói.
Không có chuyện ngược đời như vậy được. Nếu như thế, thì tu hành chi cho mệt
sức. Trong khi sống, cứ tha hồ tạo tội, đến khi bệnh nặng chỉ cần tụng vài ba
hàng kinh Pháp Hoa là xong ngay, bao nhiêu tội chướng chất chồng đều tiêu tan
hết. Nếu hiểu như thế, thì chắc là cả thế gian nầy đại loạn mất. Cuộc sống sẽ
trở thành hỗn độn, không còn ai biết lo sợ nhân quả báo ứng gì cả.
Ý
của hai câu đó, theo chỗ chúng tôi hiểu là như vầy: Đây là bài khen ngợi kinh,
mà chủ yếu của kinh Pháp Hoa là Phật dạy không ngoài bốn chữ: “Khai, Thị,
Ngộ, Nhập”. Bốn chữ nầy nhằm một mục đích chính mà Phật muốn chỉ bày
cho tất cả chúng sanh nhận ra và sống được với cái “Thể tánh thanh tịnh
sáng suốt” mà mỗi người đều sẵn có, trong kinh gọi là: “Phật tri kiến”.
Nếu người nào nhận ra và sống đúng trọn vẹn với thể tánh thanh tịnh bản nhiên
sáng suốt nầy, thì dù cho bao nhiêu tội lỗi đã có cũng đều tiêu tan hết. Lý do
tại sao? Bởi vì tội tánh vốn không.
Trong
Chứng Đạo Ca Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nói: “Chứng Thật tướng vô nhơn pháp,
sát na diệt khước A tỳ nghiệp”. Hay “Vô minh thật tánh tức Phật tánh, ảo hóa
không thân, tức Pháp thân. Pháp thân giác liễu Vô Nhứt Vật….” Khi chứng
Thật tướng, tức là “Tướng Không” của muôn pháp, thì nhơn và pháp sẽ
không còn. Thật tướng là tên khác của Tri kiến Phật. Khi chưa chứng được Thật
tướng hay chưa chứng thật Tri kiến Phật, thì nhơn ngã bỉ thử, tức là mọi vọng
chấp đều có đủ. Nhưng khi chứng ngộ rồi, thì mọi thứ đều tan biến hết. Vì vô
minh nó không có thật thể. Dụ như bóng tối nó không có thật thể cố định. Như
trong một căn phòng, ban đêm tối đen như mực, bỗng có ánh sáng chiếu vào, tất
nhiên bóng tối kia không còn, nó tan biến một cách rất nhanh chóng. Dù bóng tối
đó trải qua hằng mấy trăm năm cũng thế.
Tại
sao nó tan biến nhanh như vậy? Tại vì nó không có thật thể cố định. Như vậy,
bóng tối là dụ cho vô minh hay tội lỗi, vì tội lỗi có ra là gốc từ vô minh, mà
gốc không có thì làm gì cái ngọn có? Như vậy, hai câu kệ trên ý nói: Khi
chúng ta nhận được cái Diệu Pháp, (tức tên khác của Phật tri kiến), và sống
trọn vẹn với cái Diệu Pháp đó, thì không cần phải nhọc công tụng đọc, dù
chỉ là vài hàng thôi, thì bao nhiêu tội lỗi cũng không còn. Ngược lại, dù chúng
ta khổ công tụng không biết bao nhiêu bộ, trải qua không biết bao nhiêu lần,
rốt lại tội lỗi vẫn còn nguyên vẹn. Lý do tại sao vậy? Tại vì chúng ta tụng đọc
suông trên văn tự chữ nghĩa, hay tụng cho có phước. Thế thôi! Chúng ta không
nhận được ý kinh Phật dạy.
Tụng
hết năm nầy đến năm khác, nhìn lại, phiền não tham, sân, si vẫn không tiêu mòn
chút nào. Thử hỏi tụng đọc như vậy, thì làm sao tiêu tội cho được?! Muốn hết
tội, phải thấy Tánh (Diệu Pháp) và phải hằng sống với cái Tánh thể đó, thì tội
gì cũng không còn. Như mặt trời hiển hiện chiếu sáng, thì tất cả mây mù đều tan
biến hết. Điều quan trọng là làm sao cho mặt trời Trí Huệ hiển hiện… Chính đó
mới là điều quan trọng.
54. Có phải vì bệnh làm
phiền trong chúng…
Hỏi: Mỗi
lần nhập chúng tu học, vì cơ thể già nua yếu đuối, nên dễ sanh bệnh. Cứ mỗi lần
bệnh làm phiền đến những người khác phải quan tâm lo lắng. Vậy xin hỏi: Như
vậy, con có mắc cái tội làm động chúng không? Và con có mất công đức tu học
không?
Đáp: Bệnh là một
trong bốn nỗi khổ lớn của con người: sanh, già, bệnh, chết. Đã là quy luật
chung thì không ai tránh khỏi. Tuy nhiên, bệnh trạng nặng nhẹ, còn tùy thuộc
vào nghiệp lực của mỗi người mà có nặng nhẹ khác nhau.
Trường
hợp của Phật tử, không có gì là mang tội làm động chúng cả. Tội động chúng là
khi nào tới giờ ngủ nghỉ mà Phật tử không chịu nằm yên để ngủ, hoặc vì ngủ
không được, nên Phật tử đi đứng gây tiếng động làm ồn những người khác không
ngủ được, như thế, thì Phật tử mang tội làm động chúng. Vì trong thời gian tu
học, mọi người rất cần đến sức khỏe để hành trì giữ đúng theo thời khóa, mà Phật
tử không tôn trọng giờ giấc ngủ nghỉ của những người khác, như vậy, Phật tử vừa
phạm nội quy mà cũng vừa làm động chúng nữa. Đây là điều mà mọi người dự tu
trong những khóa tu ngắn hay dài hạn do chùa tổ chức, cần nên chú ý để tránh
những lỗi lầm nầy. Còn trường hợp của Phật tử có khác. Vì bệnh là ngoài ý muốn
của Phật tử.
Vả
lại, trong tinh thần sống chung hòa hợp của một tập thể, thì cần phải thể hiện
tinh thần tương trợ cho nhau, nhứt là trong khi có một người nào đó đau yếu
bệnh hoạn. Nên việc những người khác giúp cho Phật tử, đó là chuyện bình thường
và rất tốt, không có gì là động chúng cả. Như vậy, hai trường hợp khác nhau rất
xa. Phật tử yên tâm không có gì là mang tội. Phật tử cũng không có mất công đức
tu học. Tuy nhiên, như trên chúng tôi có nói, bệnh là nghiệp quả của mỗi người,
nhứt là trong khi tu học mà Phật tử lại bị bệnh, như vậy, thì nghiệp của mình
hơi nặng. Phật tử nên thành tâm sám hối cho tiêu bớt nghiệp. Nếu trong khi
bệnh, nhưng mọi thời khóa tu học, Phật tử vẫn giữ đều đặn, thì không có gì là
mất công đức.
Ngược
lại, nếu Phật tử vì bệnh mà không theo đúng thời khóa cùng với đại chúng, thì
đương nhiên, Phật tử sẽ bị thua thiệt hơn người ta. Nhưng, nếu trong lúc bệnh
nằm trong phòng không đi tụng niệm được, mà Phật tử vẫn cố gắng nhiếp tâm niệm
Phật, được như thế, thì không có gì phải mất công đức cả. Mất công đức là khi
nào, Phật tử khỏe mạnh, mà tìm cách lẩn trốn thời khóa không đi tụng niệm cùng
với đại chúng, đó mới là mất công đức. Chẳng những thế, mà còn mang thêm tội
thọ dụng của Đàn na thí chủ nữa. Vì những người nầy, họ bỏ công sức ra lo nấu
nướng cho mình ăn mà mình không lo tu và thêm cái tội sống không hòa chúng.
Trường hợp nầy, khi tu học cùng với đại chúng, thì không nên có. Ngoài ra, Phật
tử yên tâm không sao cả. Không ai chấp nhứt những người thật sự bệnh hoạn như
Phật tử đâu.
55. Ý nghĩa câu tình dữ vô
tình…
Hỏi: Trong
bài phục nguyện cũng như trong bài sám có câu: tình dữ vô tình giai cộng thành
Phật đạo. Hoặc tình dữ vô tình đồng viên chủng trí. Xin hỏi: ý nghĩa của hai
câu nầy như thế nào?
Đáp: Muốn hiểu ý nghĩa của hai câu nầy,
trước hết, chúng ta cần hiểu ý nghĩa của những từ ngữ: “Phật đạo và Chủng
trí”. Phật đạo ở đây không có nghĩa là chỉ cho Phật quả. Mà ta có thể hiểu
là chỉ cho Tánh giác. Còn danh từ “chủng trí” cũng là tên khác của Tánh giác mà
thôi. Bởi trong kinh có nói đến 3 loại trí: 1. Nhứt thiết trí là trí của hàng
Thanh Văn. 2. Đạo chủng trí là trí của Bồ tát. 3. Nhứt thiết chủng trí là trí
của Phật. Như vậy, chủng trí nói cho đủ là “Nhứt thiết chủng trí”, tức
cái trí biết tất cả chủng loại. Còn tình, nói đủ là hữu tình, tức chỉ cho những
loài có tri giác tình thức phân biệt. Còn vô tình là những loài không có tri
giác. Mà những loài không có tri giác, thì làm sao biết tu hành thành Phật
được.
Cho
nên, nếu chúng ta hiểu hai chữ Phật đạo là Phật quả, thì không làm sao giải
nghĩa được hai câu trên. Còn nếu chúng ta hiểu Phật đạo hay chủng trí ở nơi cái
Tánh thể, thì mới giải thích được. Lý do tại sao? Bởi vì tất cả các loài hữu
tình hay vô tình đều có chung một Tánh thể. Vạn vật đồng nhứt thể. Dụ như muôn
ngàn lượn sóng to nhỏ có khác nhau, nhưng tất cả đều từ nước mà có. Sóng tuy có
khác mà nước thì chỉ có một. Nước là thể mà sóng là tướng và dụng của nước vậy.
Tánh
thể nầy là tánh thanh tịnh bản nhiên của muôn vật. Ở nơi loài hữu tình, thì gọi
nó là Phật tánh; ở nơi loài vô tình, thì gọi nó là Pháp tánh. Như vậy, giữa
Phật tánh và Pháp tánh, danh từ tuy khác, nhưng Thể không hai. Tuy nhiên, nếu
ta nói một cũng không đúng. Tại sao? Vì tánh thể nầy khi tác dụng ở nơi loài
hữu tình, tiêu biểu như loài người, thì gọi đó là trí huệ và dùng trí huệ nầy
nhận ra được tánh thể của muôn loài, thì gọi đó là pháp tánh. Người nào
nhận ra và sống trọn vẹn với cái tánh thể đó, thì gọi người đó là Phật hay bậc
Đại giác. Như vậy là hai mà không hai, (trong kinh thường gọi là Pháp môn bất
nhị), vì giác ngộ việc đó nên thành phật thì Phật cũng không ngoài Pháp tánh.
Nói chung, hữu tình và vô tình đều có chung một bản thể sáng suốt thanh tịnh,
nên nói là đồng thành Phật đạo hay đồng viên chủng trí cũng thế.
56. Kiến Tư hoặc Và Trần
sa hoặc khác nhau thế nào?
Hỏi: Kiến
hoặc, tư hoặc và trần sa hoặc, ba thứ hoặc nầy giống nhau và khác nhau như thế
nào?
Đáp: Ba thứ nầy có điểm giống nhau và cũng
có những điểm khác nhau. Giống nhau ở chỗ, ba thứ nầy đều là vô minh phiền não,
đều có tác dụng làm cho chúng sanh mãi bị trầm luân trong sanh tử. Tuy nhiên,
chúng cũng có những điểm khác nhau. Trước hết xin nói sự khác biệt giữa kiến
hoặc và tư hoặc, rồi sau mới nói đến khác biệt với trần sa hoặc.
Kiến
hoặc là gì? Kiến hoặc là những thứ mê lầm thuộc về Lý. Chúng gồm có 5
thứ: thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ. Còn tư
hoặc là những thứ mê lầm thuộc về Sự. Chúng cũng gồm có 5 thứ: tham, sân,
si, mạn, nghi. Gọi chung 10 thứ nầy là 10 thứ căn bản phiền não. Vì chúng
là cội gốc gây ra bao nhiêu sự khổ đau mà con người luôn luôn hứng chịu. Mười
thứ nầy, tuy cũng là gốc phiền não, nhưng cường độ sâu, cạn, hay mạnh, yếu của
chúng có khác nhau. Nhà Duy thức chia chúng ra làm hai loại: “ngũ độn sử
và ngũ lợi sử”.
Đối
với 5 món: tham, sân, si, mạn, nghi, hành tướng của chúng rất sâu và mạnh, nên
gọi chúng là độn (chậm lụt và khó trừ). Ngược lại, 5 thứ kia: thân kiến, biên
kiến… thì hành tướng của chúng yếu hơn, nên gọi là lợi sử. Sử có nghĩa là sai
khiến, chúng sai khiến người ta phải làm theo mệnh lệnh của chúng. Đối với 5
thứ trước, hành giả phải tu đến địa vị “Tu đạo” mới trừ được. Còn 5
món sau, vì tánh cách mê lý cạn cợt, nên hành giả tu hành đến địa vị “Kiến
đạo” (thấy rõ chân lý và tin chắc lý nhân quả) thì trừ được chúng.
Nói
chung, hai thứ nầy, khác nhau về cường độ mạnh yếu và hành tướng chậm lụt cũng
như nhạy bén có sai khác. Và khi đoạn trừ, cũng có sự khác nhau ở địa vị tu
chứng. Đó là đại khái sự khác nhau giữa Kiến, Tư hoặc là như thế.
Còn
đối với trần sa hoặc thì có khác. Bởi trần sa hoặc không phải là thứ phiền não
của các vị A la hán. Vì những vị A la hán đã đoạn hết kiến, Tư hoặc, nhưng các
ngài bị chướng ngại ở nơi hoặc lậu (phiền não) của chúng sanh. Nghĩa là các ngài
thấy phiền não của chúng sanh nhiều như là cát bụi (trần sa). Do đó, các ngài
không dám ra độ sanh như các vị Bồ tát. Như vậy, sự khác biệt giữa kiến, Tư
hoặc và trần sa hoặc là như thế.
57. Thọ Tam quy không sanh
về cảnh giới ác…
Hỏi: Trong
kinh nói: quy y Phật bất đọa địa ngục, quy y Pháp bất đọa ngạ quỷ, quy y Tăng
bất đọa bàng sanh. Người Phật tử sau khi quy y, không còn đọa vào các loài nầy
nữa, tức không đọa vào Tam đồ, tất nhiên sẽ sanh vào cảnh giới an vui. Như thế,
thì tại sao người Phật tử sau khi chết lại thỉnh chư Tăng Ni tụng kinh cầu
siêu? Như vậy có chống trái hay không?
Đáp: Thật ra không có gì là chống trái.
Trong kinh nói về Tam quy y ở trên, không có nghĩa là ám chỉ cho con người sau
khi chết mới không bị sa đọa. Nếu chúng ta hiểu như thế, mới là chống trái lại
với ý kinh. Kinh nói rất rõ. Muốn hiểu được nghĩa lý trên, chúng ta cần phải
hiểu rõ về ý nghĩa của từng câu một.
Tại
sao quy y Phật không đọa vào địa ngục? Quy y có nghĩa là trở về nương tựa,
còn Phật nghĩa là giác ngộ, sáng suốt. Như vậy quy y Phật, nghĩa là trở về
nương tựa với một bậc giác ngộ sáng suốt. Qua câu nầy, nếu chúng ta chỉ hiểu
đơn sơ ở phần sự tướng bề ngoài, thì không đúng. Bởi vì, hiện tại có lắm người
sau khi quy y Tam Bảo rồi , họ tạo nghiệp bất thiện như cướp của, giết người
v.v… Họ lại bị bắt nhốt trong lao ngục. Như thế, thì ta thử hỏi tại sao họ đã
quy y Tam Bảo rồi mà họ còn phải bị đọa như vậy? Đó có phải là vì họ chỉ quy y
suông, chớ họ không có gìn giữ giới cấm hay thật sự trở về với Phật.
Một
người, sau khi quy y Tam Bảo, chỉ cần biết nương theo Tam Bảo thế gian, rồi cố
gắng làm lành theo những lời Phật dạy, thì làm gì có xảy ra cảnh tù tội giam
cầm. Đó là nói quy y theo nghĩa cạn cợt hình tướng mà còn được lợi ích như thế,
hà tất gì quy y ở nơi phần lý tánh. Cho nên, người phật tử khi quy y phải biết
quy y có hai phần: “Sự quy y và Lý quy y”.
Ý
nghĩa trong kinh nói về Tam quy ở trên, không phải nói về Sự quy y mà nói về Lý
quy y. Lý quy y là sao? Lý là lý thể, tức chỉ cho phần tánh giác sáng suốt của
mỗi người sẵn có. Mỗi người chỉ cần trở về nương tựa (đấy là một cách nói theo
ngôn ngữ) với tánh giác sáng suốt, thì làm gì có rơi vào địa ngục. Bởi địa ngục
là nơi tối tăm (nghĩa đen) nghĩa bóng là chỉ cho tâm hồn của chúng ta bị phiền
não cấu nhiễm nổi lên làm bức bách khó chịu. Đó là trạng thái bị rơi vào địa
ngục. Hễ có tối tăm, thì không có sáng suốt, hay ngược lại cũng thế.
Còn
ngạ quỷ là loài quỷ đói, do nhân bỏn xẻn mà có ra cái quả đau khổ đó. Nếu một
người đã thật sự trở về nương tựa với chánh pháp, với tánh thể bình đẳng, trải
rộng lòng từ bi thương yêu muôn loài, không có tâm keo kiết bỏn xẻn, luôn giúp
đỡ cho mọi người thoát khổ được vui. Người có tâm như thế, thì làm gì đọa vào
loài quỷ đói.
Còn
súc sanh cũng thế, một tâm hồn si mê u tối, sống không có luân thường đạo đức,
không phân biệt phải trái, tốt xấu, hành động càn bướng, đó là nếp sống của
loài súc sanh. Ngược lại, người có tâm hồn sáng suốt thanh tịnh, sống theo chân
lý, không chút tà tâm sái quấy, thì làm gì đọa vào súc sanh hay bàng sanh.
Nói
tóm lại, người Phật tử đã thật sự quy y Tam bảo cả Sự lẫn Lý, đúng theo ý nghĩa
quy y, thì bảo đảm người đó hiện đời sẽ không đọa vào tam đồ ác đạo như đã nói
ở trên. Đã thế, thì sau khi họ chết, có cầu siêu hay không, không thành vấn đề.
Vì hiện đời họ đã siêu rồi, tức họ đã vượt qua cảnh giới khổ đau rồi. Nhân đã
như thế, thì quả cũng phải như thế. Không thể quả trái ngược lại nhân. Cho nên
việc cầu siêu đó, chẳng qua làm theo lệ thường tình mà thôi. Như vậy, có cũng
tốt mà không có cũng chẳng sao. Hiểu như vậy, thì không có gì là chống trái cả.
58. Tụng Kinh cầu siêu có
thật sự siêu hay không?
Hỏi: Việc
tụng kinh cầu siêu cho người chết có thật sự siêu hay không?
Đáp: Vấn đề nầy, thú thật chúng tôi không
thể nào trả lời một cách quả quyết dứt khoát được. Bởi không thấy, không biết,
thì làm sao dám nói quả quyết. Tuy nhiên, theo chỗ học hiểu của chúng tôi, thì
người Phật tử hay không phải Phật tử, tốt hơn hết là mình nên cầu siêu cho
chính mình lúc còn sống.
Cầu
siêu lúc còn sống là sao? Bởi vì hai chữ cầu siêu, nó có nghĩa là mong mỏi vượt
qua mọi khổ đau. Nhưng nếu chúng ta chỉ cầu siêu suông bằng cách nói như thế,
thì ngàn đời cũng không thể nào vượt qua khỏi khổ đau được. Muốn vượt qua khỏi
khổ đau, thì chúng ta cần phải tu. Nghĩa là chúng ta cần phải làm lành lánh dữ.
Điều gì xấu ác, không lợi cho bản thân và tha nhân, thì chúng ta quyết định
không làm. Như người Phật tử, sau khi quy y thọ ngũ giới rồi, quyết tâm gìn giữ
không phạm, được thế, thì hiện đời đã siêu rồi, còn nói gì đến đời sau. Ngược
lại, điều xấu ác luôn làm, thì làm sao tránh khỏi quả báo khổ đau.
Có
người vì quá tham lam, sân hận, gây ra thảm cảnh cướp của giết người. Có người
vì nghiện ngập cờ bạc, rượu chè say sưa, hút xách, không kiềm chế được tánh
xấu, nên đã gây ra nhiều tội phạm, bị pháp luật trừng trị hình phạt tương xứng
theo nhân mà họ đã gây tạo, như bị đánh đập tra khảo tù đày v.v…
Như
thế, thì làm sao chúng ta có thể cầu cho người đó siêu được? Không thể người
nầy ăn, người khác lại no, hay người nầy học, người kia biết chữ. Làm gì có
chuyện ngược đời như thế. Như vậy là phản với luật nhân quả. Cũng thế, khi một
người tạo tội đã bị giam cầm hình phạt, thì ta không thể tối ngày cầu nguyện
nói rằng: Xin cho người đó hết tội! xin cho người đó hết tội!
Thử
hỏi cầu nguyện như thế người đó có hết tội hay không? Hay là chính do người đó
phải cải hối ăn năn qua những hành động mình đã làm và phải thể hiện những hành
động cụ thể cho người có trách nhiệm trông coi mình, biết mình có thật tâm cải
thiện. Chừng đó, người ta mới xét đến mà ân xá hoặc tha cho.
Còn
những lời cầu nguyện van xin kia, chỉ có tánh cách giúp cho tội nhân kia cảm
động mà hồi tâm cải ác tùng thiện, cải tà quy chánh, chuyển đổi ở nơi tâm thức
và hành động. Chớ nó không có một thần lực nào cứu vớt người đó khỏi tội được.
Như vậy, việc cầu siêu chỉ là một trợ duyên thôi. Tất cả đều tùy thuộc vào
đương sự. Khổ vui chính do người đó tự quyết định lấy.
Hiểu
theo ý nghĩa cầu siêu như thế, thì người Phật tử không còn ỷ lại vào chư Tăng,
Ni tụng kinh cầu siêu nữa. Bởi thực tế, thì chư Tăng Ni cũng phải cầu siêu cho
chính họ. Và khi tụng thì tụng theo xưa bày nay làm, chớ thật sự không có một
vị Tăng Ni nào dám quả quyết là siêu hay không siêu. Vì có thấy biết đâu mà dám
nói càn. Thực tế là như thế.
Tóm
lại, tự mỗi người phải lo tu, đừng bao giờ ỷ lại vào bất cứ ai kể cả Phật, Bồ
tát, vì các Ngài cũng không thể cứu vớt chúng ta, bằng thần lực hay đưa tay cứu
khổ. Các Ngài chỉ cứu khổ cho chúng sanh bằng cách chỉ dạy qua những
lời được kết tập trong kinh điển. Nếu chúng ta y cứ vào đó mà hành trì, thì đó
là chính ta tự cứu lấy ta vậy. Và như thế mới là thượng sách và mới đúng với ý
nghĩa cầu siêu. Bằng ngược lại, thì chúng ta sẽ chuốc khổ dài dài đi mãi trong
vòng luân hồi khổ đau bất tận. Kính mong mọi người nên tự xét lấy!
59. Giản biệt giữa tu
phước và tu huệ.
Hỏi: Xin
giản biệt giữa tu phước và tu huệ khác nhau như thế nào ?
Đáp: Tu phước và tu huệ khác nhau trên ý
niệm và trên kết quả. Thế nào khác nhau trên ý niệm? Như chúng ta thấy một
người nghèo khổ, động lòng từ bi, chúng ta tìm cách giúp đỡ cho họ. Từ đó,
chúng ta bố thí cho họ tiền bạc, của cải v.v… để cho họ được no cơm ấm áo. Đó
là chúng ta khởi niệm tu phước.
Còn
khởi niệm tu huệ là sao? Khi chúng ta khởi nghĩ đi đến chùa để học hỏi nghe
giáo lý Phật dạy, liền đó chúng ta đi ngay. Và khi đến chùa, chúng ta vào lớp
học để nghe quý thầy giảng dạy. Trong khi nghe, chúng ta chăm chú nghe từng lời
nói của vị giảng sư rồi chúng ta suy nghĩ thật chính chắn qua từng lời nói, sau
đó, chúng ta đem ra ứng dụng thật hành để được lợi lạc cho bản thân ta.
Như
vậy, giữa hai ý niệm khác nhau, một đàng là chúng ta khởi niệm muốn giúp đỡ
người khác để chúng ta được có phước. Ngược lại, đằng nầy, chúng ta khởi nghĩ
học hỏi chánh pháp để trau dồi trí năng của chúng ta, ngày thêm được sáng suốt
hơn. Như vậy, rõ ràng có sự khác biệt ở nơi cái nhân của Ý Niệm. Và khi kết quả
cũng có khác nhau. Kết quả của sự bố thí, cúng dường, thì chúng ta hưởng được
phước báo giàu sang, an vui. Ngược lại, kết quả của sự trau dồi học hỏi qua 3
phương pháp: “Văn huệ, Tư huệ và Tu huệ”, kết quả, chúng ta sẽ được
trí huệ sáng suốt.
Như
thế, tu phước, thì xuất phát từ lòng từ bi, vì có thương người, thương vật nên
chúng ta mới thi ân giúp đỡ. Còn tu huệ, thì xuất phát từ lý trí, biện biệt
được lẽ chánh tà chân ngụy. Trong kinh Phật dạy, người Phật tử cần phải gia
công tu tập cả hai: “Phước trí lưỡng toàn mới phương tác Phật”. Chúng
ta không nên chỉ tu nghiêng một bên. Nếu chỉ đặt nặng một bên, thì chẳng những
không đạt được kết quả tốt đẹp lợi lạc, mà còn gây ra nhiều tai hại nữa. Nếu
chỉ có từ bi mà không có trí huệ đi kèm, thì từ bi đó dễ trở thành mù quáng.
Ngược lại, chỉ có biết tu huệ không thôi, thì đó là trí huệ khô, chẳng làm lợi
lạc cho ai. Vì vậy, người Phật tử cần phải tu hết cả hai vậy.
60. Vô thường có phải là
chủ thuyết bi quan không?
Hỏi: Vô
thường có phải là chủ thuyết bi quan không?
Đáp: Vô thường không phải là chủ thuyết bi
quan, mà trái lại, nó là chủ thuyết lạc quan. Lý do tại sao? Bởi vì, mọi vật
trên đời nầy, nhờ vô thường nên chúng luôn luôn đổi mới. Như dòng nước trôi
chảy không bao giờ đứng yên một chỗ. Nhờ có sự thay đổi đó, mà xã hội luôn luôn
tiến bộ. Nếu mọi vật đứng yên một chỗ, thì cuộc đời nầy vô cùng buồn tẻ, và có
lẽ, cũng không còn ai tha thiết muốn sống.
Như
chúng ta trồng một cây kiểng, nếu cây kiểng đó, tự nó không có sự biến chuyển
thay đổi, thì làm gì nó trở nên tươi đẹp. Dù chúng ta có ra công chăm sóc tới
đâu đi nữa, thì nó cũng không bao giờ thay đổi. Cũng như dòng nước trong xanh
tươi mát kia, sở dĩ nó được trong xanh như thế, là vì nhờ nó luôn luôn trôi
chảy không dừng, nó cuốn phăng đi những thứ rác rến, nhơ nhớp, không bị tù hảm
thành dơ bẩn. Một thí dụ khác, như khi chúng ta dùng thực phẩm hằng ngày, nếu
không vô thường, thì thực phẩm kia làm sao tiêu hóa. Nếu không tiêu hóa, vật
nào nguyên vẹn vật đó, thì làm sao chúng ta có thể sống được?
Tóm
lại, sự đời nhờ vô thường mà cuộc sống luôn luôn đổi mới, thú vị, yêu đời. Hiểu
như thế, thì chúng ta nên khéo lợi dụng sự vô thường đó mà luôn luôn đổi mới
thân tâm của chúng ta theo chiều hướng tốt đẹp để làm thăng hoa trong cuộc
sống. Đó là một thái độ khôn ngoan và luôn luôn lạc quan, yêu đời vui sống. Như
vậy, theo lý vô thường, tự nó sẽ đào thải tất cả những gì lỗi thời không phù
hợp thích nghi với nền văn minh tiến bộ của nhơn loại mỗi ngày mỗi đổi
mới.
61. Có nên tụng Kinh Kim
Cang Bát Nhã không?
Hỏi: Trong
lúc thảo luận, nói chuyện về việc tụng kinh, có một bà bạn nói với con: Tụng
kinh gì cũng được, nhưng đừng có tụng kinh Kim Cang Bát Nhã. Con hỏi tại sao?
Bà ta không giải đáp được. Vậy xin hỏi lý do tại sao như vậy?
Đáp: Đây là một huyền thoại đã có từ lâu.
Huyền thoại nầy không biết xuất phát từ đâu và thời nào. Một huyền thoại vô căn
cứ, không lý lẽ, người không hiểu cứ thế mà nói chuyền nhau, gây ra lắm điều
tai hại.
Trường
hợp như bà Phật tử kia, chỉ nói như thế mà không biết lý do vì sao. Vì truyền
thuyết cho rằng, tụng kinh Kim Cang Bát Nhã gia đình sẽ xào xáo lộn xộn, bất
an, vườn tượt khô héo, mọi việc đều xui xẻo không may. Thử hỏi Kinh Kim Cang
Bát Nhã do ai nói? Hẳn ai cũng biết kinh nầy là do Phật nói. Đã do Phật nói,
thì tại sao người tụng đọc kinh nầy lại bị những hiện tượng bất an nói trên?
Nói như thế, chả lẽ Phật lại lường gạt gài bẫy chúng sanh hay sao? Nếu có ác
tâm như thế, thì sao gọi là Phật? Những ai bịa đặt nói thế, nếu không phải là
có ác ý qua hệ tư tưởng thâm sâu của kinh nầy, thì quả thật họ không hiểu gì về
diệu lý thâm ý của kinh cả. Nếu vì không hiểu, thì nên tìm hiểu. Bằng chưa hiểu
thì không nên nói càn nói bướng như thế. Kẻ nói như thế khác nào hù dọa người
ta, thật là tội lỗi!
Toàn
bộ hệ thống kinh Bát Nhã gồm có sáu trăm quyển, mà kinh Kim Cang Bát Nhã chỉ là
kết tinh của toàn bộ 600 quyển đó thôi. Đây là một hệ tư tưởng siêu việt, nhằm
phá vỡ tất cả mọi vọng chấp của chúng sanh. “Phá vọng hiển chơn” là
mục đích chính của kinh nầy. Một hệ tư tưởng cao siêu như thế, mà họ dám cho
rằng người tụng đọc kinh nầy thì gia đình lại bị xáo trộn bất an.
Vì
trong phạm vi trả lời câu hỏi, nên ở đây, chúng tôi không muốn luận giải đi sâu
vào thâm ý của kinh. Chúng tôi chỉ xin trả lời một cách ngắn gọn vắn tắt và dứt
khoát rằng: “Nội dung toàn Kinh Kim Cang Bát Nhã, đức Phật chỉ nhắm vào một mục
đích duy nhất là phá chấp bốn tướng: “Ngã, Nhơn, Chúng sanh và Thọ
giả”. Nói gọn hơn là phá hai thứ vọng chấp mà tất cả chúng sanh chấp chặt
nặng nhứt, đó là “Ngã chấp và Pháp chấp”. Người nào không còn hai thứ
vọng chấp nầy, thì họ sẽ đạt được cứu cánh giải thoát, tức đồng với Phật quả
vậy.
Ý
kinh thậm thâm vi diệu như thế, nhưng tiếc vì người ta không hiểu, nên mới có
vọng truyền sai lầm như vậy. Than ôi! Quả thật họ là kẻ mù lòa đi trong đêm
tối! Thật là đáng thương xót biết bao! Người Phật tử không nên tin tưởng một
điều gì mà không được sự kiểm chứng của trí huệ. Phải vận dụng trí huệ soi sáng
cho thật cặn kẽ vấn đề trước khi đặt định niềm tin. Có thế, mới không bị sai
lầm và niềm tin của chúng ta mới thật sự là chánh tín.
62. A Tu La là gì?
Hỏi: A Tu La là gì? Có mấy loại A Tu La? Và thân hình của chúng ra sao?
Đáp: A Tu La tiếng Phạn là Asura. A Tu La có
nhiều tên gọi khác nhau: A tác la, A tô la, A tố la, A tố lạc, A tu luân. Trong
Kinh thường nêu ra ba loại A Tu La: 1/ A Tu La thiên đạo. 2/ A Tu La quỉ đạo.
3/ A Tu La súc đạo.
Theo
Từ Điển Phật Học Huệ Quang, quyển 1, trang 84 giải thích: “A Tu La là 1 trong 6
đường, 1 trong 8 bộ chúng, 1 trong 10 giới, một trong những vị thần xưa nhất ở
Ấn Độ.
Một
loại quỷ thần hiếu chiến, thường bị coi là ác thần và thường tranh đấu với trời
Đế Thích không ngừng nên có danh từ A Tu La trường, A Tu La chiến v.v…
Theo
phẩm A Tu La Luân trong Kinh Tăng Nhất A Hàm 3 : Thân hình của A Tu La cao
84.000 do tuần, miệng rộng mỗi bề 1.000 do tuần. Còn phẩm A tu La Luân trong
Kinh Trường A Hàm 20, phẩm A tu luân trong Kinh Đại Lâu Thán 2. Kinh Khởi Thế
Nhân Bản 5 v.v…đều ghi rõ chỗ ở và sự tích của A Tu La.
Về
nghiệp nhân của A tu la, các Kinh thường nêu ra 3 thứ nhân làm cho chúng sanh
sanh trong loại nầy: Sân, mạn, nghi.
Theo
Kinh Phật Vị Thủ Ca Trưởng Giả Thuyết Nghiệp Báo Sai Biệt thì liệt kê ra 10 thứ
nhân làm cho chúng sanh sanh trong loài A tu la.
1.Thân
làm việc ác nhỏ. 2. Miệng nói lời ác nhỏ. 3. Ý nghĩ điều ác nhỏ. 4. Khởi tâm
kiêu mạn. 5. Khởi tâm ngã mạn. 6. Khởi tâm tăng thượng mạn. 7. Khởi tâm đại
mạn. 8. Khởi tâm tà mạn. 9. Khởi tâm mạn mạn. 10. Hướng về các căn lành.
Hình
tượng của A tu la có nhiều thuyết khác nhau. Có chỗ cho rằng: A tu la có 9 đầu,
1000 mắt, miệng phun lửa, có 990 tay, 6 chân, thân to gấp 4 lần núi Tu di. Có
chỗ cho rằng: A tu la có 1000 đầu, 2000 tay; 10.000 đầu, 20.000 tay; 3 đầu, 6
tay. Có chỗ cho rằng: A tu la có 3 mặt màu xanh đen, giận dữ, lõa hình và có 6
cánh tay.
63. Lục chủng chấn động.
Hỏi: Đọc
trong Kinh có chỗ nói: Khi đức Phật Thích Ca ra đời có 6 thứ chấn động. Con
không hiểu 6 thứ chấn động nầy là gì? Và nếu như khi Phật ra đời mà cả đại địa
đều chấn động như thế, thì cả nhơn loại làm sao mà sống sót? Như thế, thì lòng
từ bi của Phật ra sao?
Đáp: Sáu tướng chấn động trong chữ Hán gọi
là Lục chủng chấn động. Nói về sáu thứ chấn động nầy, trong Kinh có nhiều chỗ
nói khác nhau. Trong Từ Điển Phật Học Huệ Quang có dẫn ra 3 kinh nói về 6 thứ
chấn động nầy.
Kinh
Đại Phẩm Bát Nhã 1 nói rằng: sự chấn động của mặt đất tùy theo phương hướng mà
có 6 tướng: Đông trồi Tây sụt, Tây trồi Đông sụt, Nam trồi Bắc sụt, Bắc trồi,
Nam sụt, Bên trồi Giữa sụt và Giữa trồi Bên sụt.
Theo
Kinh Hoa Nghiêm 16 ( bản tân dịch ) Kinh Quảng Bác Nghiêm Tịnh Bất Thoái Chuyển
Luân 1 v.v… nói rằng: 6 tướng chấn động là: Động, Khởi, Dũng, Chấn, Hống và
Kích. Động là lay động không yên, Khởi là từ thấp dần dần lên cao, Dũng là bỗng
nhiên vọt lên, 3 thứ nầy chỉ cho hình thức địa chấn. Chấn là phát ra tiếng động
ầm ỉ, Hống là tiếng rống mạnh của loài thú, Kích là phát ra tiếng dội ầm ầm, 3
thứ nầy chỉ cho âm thanh địa chấn.
Theo
Kinh Đại Phương Quảng Đại Trang Nghiêm thì cho rằng, 6 tướng chấn động là: 1.
Diêu động, Cực diêu động, Biến diêu động; 2. Khấu kích, Cực khấu kích, biến
khấu kích. 3. Di chuyển, cực di chuyển, biến di chuyển. 4. Dũng phú, cực dũng
phú, biến dũng phú. 5. Xuất thinh, cực xuất thinh, biến xuất thinh. 6. Bên trồi
giữa sụt, giữa trồi bên sụt, Đông trồi tây sụt…
Trên
đây là chúng tôi y cứ vào trong các kinh nêu ra về 6 thứ chấn động. Tuy nhiên,
qua câu hỏi của Phật tử là khi Phật ra đời mà cả đại địa đều chấn động (động
đất) như thế, thì cả nhơn loại làm sao sống sót? Về điểm nầy, theo ngu ý của
tôi, thì sự chấn động đó không phải nói về sự chấn động ở bên ngoài. Vì phần
nhiều trong các kinh điển Đại thừa thường hay nêu ra nhiều ẩn dụ. Khi đọc kinh
mà ta không hiểu được điều nầy, có đôi khi ta lại lầm nhận ý kinh. Chẳng hạn
như trong Kinh Pháp Hoa có một phẩm gọi là “Tùng Địa Dõng
Xuất”. Nghĩa là nói rằng, các vị Bồ tát từ lòng đất vọt lên v.v… Hay
phẩm « Hiện Bảo Tháp » chẳng hạn. Đây là ý tại ngôn ngoại.
Nếu chúng ta chỉ một bề y cứ vào phần sự tướng tiêu biểu đó mà hiểu, thì đôi
khi oan cho ba đời chư Phật.
Cho
nên khi nghiên cứu kinh điển của Phật giáo, ta phải lưu ý điều nầy. Nếu không,
thì sẽ hiểu lầm nơi ý kinh, nói rõ ra là ta không hiểu thâm ý lời Phật dạy và
như thế thì thật là đắc tội. Ở đây cũng thế. Trong kinh nêu ra 6 thứ chấn động
đó, theo tôi, thì không phải là nói đất bên ngoài chấn động. Nếu nói thế, thì
làm sao chúng ta có thể giải thích được. Nói đại địa chấn động đây, đó là
một ẩn dụ.
Trong
Kinh thường nói, bản tâm của chúng ta giống như là đất. Cho nên có một quyển
kinh có tên là Tâm Địa Quán. Còn nói 6 thứ chấn động đó là ý nói ở nơi 6 căn.
Vì tâm ta, khi tác động vào căn nào, thì có sự chấn động ở căn đó. Như tác động
vào mắt, thì mắt thấy rõ; khi tác động vào tai, thì tai nghe rõ âm thinh v.v….
Các căn kia cũng như thế. Tâm ta thí như một dòng điện, tùy theo các bộ phận mà
dòng điện vào, tất nhiên phát ra công dụng. Phật ra đời là nói khi tâm ta được
giác ngộ bừng sáng. Khi bản tâm đã hoàn toàn giác ngộ, thì 6 căn trở nên một
chấn động rất lớn. Bấy giờ chính 6 căn đó sẽ trở thành 6 lực dụng thần thông.
Ngược
lại, nếu ta hiểu theo sự chấn động như động đất bên ngoài, thì như thế, rất là
tai hại cho nhơn loại. Chả lẽ Phật ra đời làm cho nhơn loại phải chịu đau khổ như
thế sao?! Thật là phi lý. Phật ra đời với mục đích là cứu độ chúng sinh, cho
chúng sinh hết khổ được vui. Đằng nầy vui đâu chưa thấy mà thấy đau khổ trước
mắt. Tất cả đều bị hủy hoại chôn vùi. Có trận động đất nào mà không gây ra cảnh
chết chóc tang thương, nhà tan cửa nát? Hiện trạng nầy cả nhơn loại đã và đang
kinh hoàng lo sợ.
Ra
đời gây ra cảnh tang thương thống khổ cho nhơn loại như thế, thì thử hỏi Phật
ra đời có ích lợi gì? Điều nầy, quả thật là trái ngược với lòng từ bi của Phật.
Hiểu theo nghĩa chấn động bên ngoài, thì thật là không có lý lẽ và rất tai hại
cho Phật giáo. Nói lên điều nầy, cũng chỉ là sự nhận hiểu nông cạn của chúng
tôi mà thôi. Dĩ nhiên, mỗi người sẽ có những nhận định hiểu biết khác nhau. Tuy
nhiên, sự nhận định nào cũng phải dựa trên thực tế và hợp với chân lý mà xét
đoán luận giải.
64. Ý nghĩa chuông trống
bát nhã.
Hỏi: Mỗi
khi chùa có lễ lớn, con thường thấy chư Tăng Ni hay đánh chuông trống bát
nhã. Con không hiểu đánh chuông trống bát nhã có ý nghĩa gì? Kính xin
Thầy hoan hỷ giải đáp cho con.
Đáp: Trong nhà Phật, mỗi một phật cụ đều có
một ý nghĩa đặc biệt. Tiếng trống hay tiếng chuông trong thiền môn khi đánh lên
đều ngầm có ý là cảnh tỉnh mọi người nên thức tỉnh tu hành. Mỗi thứ khi sử
dụng, đều có pháp thức riêng.
Chuông
trống bát nhã rất quan trọng trong thiền môn. Chuông trống bát nhã thường đánh
lên vào những buổi lễ pháp sự đặc biệt, như thuyết pháp, truyền giới, Sám hối
v.v…Và mỗi khi đánh lên ngầm ý thỉnh Phật thượng đường chứng minh. Đồng thời
cung nghinh chư Tôn Đức và cũng để cho mọi người chú ý nhiếp tâm trở về với
chánh niệm. Cụ thể là giờ hành lễ quan trọng.
Về
cách thức đánh chuông trống bát nhã cho đúng, người đánh cần phải y cứ vào bài
kệ:
Bát
nhã hội ( 3 lần )
Thỉnh
Phật thượng đường
Đại
chúng đồng văn Bát nhã âm
Phổ
nguyện pháp giới đẳng hữu tình
Nhập
Bát nhã ba la mật môn ( 3 lần )
Muốn
đánh chuông trống bát nhã cho đúng theo bài kệ trên, thì người học cần phải học
trực tiếp với những vị đã biết qua. Trống bát nhã, thường chỉ có chư Tăng Ni
trong chùa sử dụng thôi. Phật tử tại gia muốn học đánh, cần phải đến chùa nhờ
chư Tăng Ni chỉ dạy.
Về
ý nghĩa, ngoài âm vang của tiếng trống cảnh tỉnh khách trần ra, nó còn nói lên
một ý nghĩa đặc thù siêu việt. Mục đích là nhằm nhắc nhở mọi người cần phải
trang bị cho mình có đầy đủ trí huệ sáng suốt. Vì trí huệ rất là quan trọng. Dù
hành giả tu bất cứ pháp môn nào, mà thiếu trí huệ chỉ đạo, thì coi như sự tu
hành không có kết quả tốt đẹp. Nếu không có trí huệ sáng suốt để biện biệt
chánh tà, chân ngụy, thì trong khi ứng dụng tu hành, chúng ta dễ bị sai lệch và
đi vào con đường tà ngoại.
Vì
Bát nhã quan trọng như thế, nên chư Tổ mượn hình thức cái trống, để khi đánh
lên nhằm thức nhắc mọi người tăng cũng như tục phải luôn nhớ đến cái trí Bát
nhã sẵn có ở nơi chính mình. Trí Bát nhã nầy, còn gọi là Vô sư trí. Nhưng muốn
nhận ra cái Vô sư trí nầy, hành giả cần phải nương cái trí hữu sư, tức cái trí
do học hỏi ở nơi thầy bạn mà có được.
Sự
thức nhắc cho chúng ta nhớ lại cái bản tâm sẵn có, trong nhà Phật có nêu ra rất
nhiều phương tiện hình thức. Ở mức độ thấp hơn, khi nghe âm thanh của những
pháp khí đó, như trống, chuông, mõ v.v… thì người nghe chóng hồi tâm thức tỉnh
để gắng lo tu niệm. Phải hết lòng siêng năng làm lành lánh dữ, không nên gây
tạo những nghiệp ác mà phải chuốc lấy quả khổ đau. Cho nên, khi chúng ta đến
chùa mỗi khi nghe những âm thanh của những thứ nói trên, thì lập tức chúng ta
hãy trở về với chánh niệm. Hay nói rõ hơn là phải luôn thắp sáng ngọn đuốc
chánh niệm. Muốn có trí huệ, tất nhiên người Phật tử cần phải học hỏi trau dồi
qua 3 môn học Văn, Tư, Tu. Đó là ba món huệ học tối thiết yếu mà người Phật tử
cần phải lưu tâm nỗ lực nghiên tầm. Có thế, thì mới xứng đáng là người Phật tử
chơn chánh học Phật.
65. Nhứt nhơn hành đạo cửu
huyền thăng.
Hỏi: Câu nói: Nhứt
nhơn hành đạo cửu huyền thăng. Nếu nói như thế, thì có trái với luật nhân quả
không? Xin hỏi: câu nầy ý nghĩa như thế nào? Kính xin thầy giải đáp.
Đáp: Không có gì chống trái với luật nhân
quả cả. Câu nói, mới nghe qua người ta dễ hiểu lầm. Không phải một người tu
hành, thì cả dòng họ chín đời đều được siêu thăng hết. Chữ siêu thăng ở đây,
xin chớ vội hiểu là về Cực lạc hay an hưởng cảnh giới Niết bàn. Nếu chỉ một
người biết lo tu hành mà mọi người khác trong thân tộc đều được về Cực lạc hay
an trụ Niết bàn hết, thì thật là khỏe khoắn vui sướng biết bao! Hiểu như thế là
chống trái với luật nhân quả. Vì trên đời nầy, không có chuyện người nầy ăn mà
người khác no. Ai ăn nấy no, ai học nấy biết chữ. Ai tu nấy thành, ai hành nấy
đắc. Luật tắc nhân quả là như thế.
Câu
nói trên, theo chỗ hiểu của chúng tôi, thì ngầm ý nói rằng: Nếu trong dòng họ
mà có một người xuất gia tu hành chơn chánh, thì có thể cảm hóa được những
người thân thuộc khác. Có nghĩa là những người trong thân tộc sẽ phát tâm tu
theo. Trải qua một đời cho đến nhiều đời đều như thế. Như trường hợp đức Phật
Thích Ca, Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cứ mỗi đời Ngài phát nguyện tu,
thì đều có những người thân thuộc phát tâm tu theo. Cho đến sau khi thành Phật,
những người thân có duyên xưa kia phát tâm tu theo Ngài, tất cả đều có mặt
trong pháp hội thuyết giáo của Ngài. Và những người nầy tu hành đều được giải
thoát cả. Cụ thể hơn, là sau khi xuất gia tu hành đắc đạo, Ngài trở về hoàng
cung hóa độ được những người thân theo Ngài tu hành giải thoát.
Sự
tác động ảnh hưởng của Ngài quá lớn. Ngài đã gây ảnh hưởng cho những người khác
phát tâm bồ đề hướng thiện tu hành, nói siêu thăng là như thế. Siêu thăng là
vượt lên cái tâm bất thiện để trở thành cái tâm thiện. Nói rõ hơn là vượt lên
cái tâm phàm tình gây tạo ác nghiệp để chuyển thành cái tâm thánh thiện hiền
lương. Còn nói cửu huyền là một cách nói trải qua nhiều đời. Cứ mỗi đời trong
thân tộc có người xuất gia tu hành, thì những người thân khác phát tâm tu theo.
Nghĩa là một người tu được giải thoát, thì nó có một tác động mạnh mẽ, đánh
thức được bao nhiêu người trong thân tộc khác để hướng về đạo đức tu hành làm
lành lánh dữ v.v…
Hiểu
như thế, thì không có gì là chống trái với nhân quả cả. Chẳng những không chống
trái mà còn đúng theo luật nhân quả. Bởi vì nhờ vào hình ảnh của một người thân
thuộc tu hành có đức độ mà cảm hóa ảnh hưởng đến những người khác hướng thiện
tu hành. Đó là điều rất thực tế và tốt đẹp. Đức Phật cảm hóa trong hoàng tộc
của Ngài là như thế, chớ không phải Ngài dùng thần thông đưa hết dòng họ của
Ngài về Cực lạc hay Niết bàn. Nhờ vào hình ảnh siêu thoát của Ngài mà đánh động
được tâm thức những người khác phát tâm tu theo, nên kết quả họ cũng được siêu
thoát như Ngài. Nói siêu thăng là như thế.
66. Vấn đề chánh tín và mê
tín.
Hỏi: Người
Phật tử đã quy y thọ ngũ giới rồi, tại sao còn tin vào bói toán và coi ngày giờ
tốt xấu, xin xăm, cúng sao hạn v.v… Như thế có trái với luật nhân quả hay
không?
Đáp: Xin thưa ngay là hoàn toàn chống trái
với luật nhân quả.
Đây
là điều mà phần lớn người Phật tử chúng ta vướng mắc phải. Có những người, tuy
đã quy y Tam Bảo, nhưng hạt giống tà ngoại của họ còn quá sâu dầy, nên việc mê
tín dị đoan, thật họ khó lòng bỏ hẳn. Đối với Phật pháp, tín tâm của họ rất
mỏng. Hơn nữa, sự nghiên cứu học hỏi Phật pháp của họ cũng không được sâu rộng
lắm. Do đó, mà lòng tin ở nơi chánh lý nhân quả của họ không được vững chắc.
Điều nầy, là một hiện tượng chung thật quá đau lòng !
Người
Phật tử quy y Tam Bảo thì nhiều, nhưng tin sâu vào Tam Bảo và hiểu được Phật
pháp, thì chẳng có bao nhiêu. Thế nên, tình trạng mê tín vẫn còn kéo dài mãi.
Sự mê tín nầy không những chỉ ở nhơn gian thôi, mà ngay cả ở trong chùa cũng
vẫn có. Nghĩa là, Tăng, Ni vẫn còn coi ngày, coi sao, đoán quẻ v.v… Như thế,
thì trách gì Phật tử! Tệ trạng nầy, không phải mới đây, mà nó đã có từ lâu đời.
Việc
mê tín ở Việt Nam hiện nay, phải nói xảy ra rất nhiều và tai hại rất trầm
trọng. Dù đã được những bậc Tôn đức tu hành chơn chánh thuyết giảng kêu gọi
Phật tử không nên mê tín mù quáng. Đặt niềm tin không đúng chỗ, nó sẽ gây ra
tai hại lớn lao. Chẳng những hại mình trong đời nầy mà nó còn kéo dài nhiều đời
sau nữa. Thế nên, người Phật tử cần phải xây dựng cho mình một lòng tin đặt
trên nền tảng trí tuệ. Nói cách khác, người Phật tử phải dùng ngọn đuốc trí tuệ
soi sáng và chỉ đạo cho niềm tin. Có thế, thì mới mong thoát khỏi vòng khổ đau
lẩn quẩn.
Trong
Kinh Di Giáo, trước khi vào Niết Bàn, đức Phật đã ân cần dặn dò khuyến nhắc các
thầy Tỳ kheo, các thầy nên ghi nhớ, sau khi tôi diệt độ, các thầy không được:
… “Xem tướng lành dữ, trông xem sao hạn, xem xét thạnh suy, coi ngày đoán
số, đều không nên làm…” Dù đã có lời răn nhắc của Phật, nhưng tệ
trạng tập tục nầy từ xưa tới nay cũng vẫn còn tiếp diễn và chưa biết đến bao
giờ mới thật sự chấm dứt!
Xin
nhắc lại: “Tin như thế, thì hoàn toàn chống trái với luật nhân quả”. Chánh
tín và mê tín là hai phạm trù dị biệt, như sáng với tối. Hễ có sáng thời không
có tối. Hễ có tà kiến, thì không có chánh kiến. Hễ có mê tín, thì không có
chánh tín. Ngược lại cũng thế. Đạo Phật là đạo giác ngộ, là đạo chủ trương
chánh kiến, chánh tín. Đạo Phật không bao giờ chấp nhận tà kiến, mê tín. Là
người Phật tử dù xuất gia hay tại gia, chúng ta phải có bổn phận nêu cao chánh
lý nhân quả và hướng dẫn mọi người đi đúng trên lộ trình giác ngộ. Đúng theo
lời Phật dạy. Lệch quỹ đạo giác ngộ là chính ta đã đánh mất vai trò xiển dương
chánh pháp và như thế, thật là đắc tội với Tam Bảo.
Trong
quyển Bước Đầu Học Phật, do Hòa Thượng Thích Thanh Từ biên soạn, có bài viết
nói về:”Mê Tín Và Chánh Tín” ở đoạn kết luận, ( trang 122 ) có đoạn Hòa Thượng viết: “Đạo
Phật chủ trương chánh tín, không bao giờ chấp nhận mê tín. Do vì người truyền
đạo không thông lý đạo, nên ghép những tập tục thế gian vào trong đạo, khiến
người ta hiểu lầm đạo Phật mê tín. Bản chất của đạo Phật là trí tuệ, là giác
ngộ, làm sao dung nạp được mê tín. Nếu người ta thấy trong chùa chiền hiện nay
còn những hiện tượng mê tín, vội phê bình đạo Phật mê tín. Đây là những oan
tình của đạo Phật. Tất cả những Kinh Phật không có nói những việc mê tín ấy
chẳng qua một số người vì tùy tục, vì thiếu hiểu Phật pháp vẽ bày ấy thôi.
Người học Phật chân chánh phải gan dạ loại bỏ những tập tục sai lầm ấy, can đảm
dứt khoát đập tan mọi tệ đoan làm suy giảm giá trị Phật pháp. Có khi dẹp bỏ
những điều đó, có thể thiệt thòi chút ít quyền lợi của mình. Song chúng ta
cương quyết vì chánh pháp, chớ không vì lợi dưỡng, vì đưa người ra khỏi đường
mê, không vì sợ mất mát bổn đạo. Được thế, chúng ta mới xứng đáng là người lãnh
đạo tín đồ, mới không hổ thẹn là hàng Tăng Bảo.”
67. Những ngày kinh nguyệt
có nên tụng niệm bái sám không?
Hỏi: Là
người nữ trong thời kỳ kinh nguyệt, chúng con có được phép tụng Kinh bái sám
như những ngày thường được không?
Đáp: Xin thưa
ngay là không có gì trở ngại cả. Trong Luật Phật không có ngăn cấm điều nầy.
Bởi lẽ, kinh nguyệt là một hiện tượng sinh lý tự nhiên của người phụ nữ. Điều
đó, không ai muốn như thế. Đó là một định lý tự nhiên mà không người phụ nữ nào
tránh khỏi. Đã thế, thì tại sao Phật tử lại lo sợ? Phật tử đừng có ái ngại lo
sợ gì cả. Chỉ lo sợ là Phật tử giải đãi rồi viện cớ lý do mà bỏ ngang sự tu
hành, thì đó mới là điều đáng trách và đáng nói. Ngoài ra, không có gì phải bận
tâm lo lắng.
Nếu
bảo rằng, đó là những bài tiết dơ dáy, thì thử hỏi trong cơ thể con người, tất
cả những chỗ bài tiết khác có chỗ nào sạch sẽ hết đâu? Phật dạy, thân nầy vốn
là bất tịnh kia mà! Không lẽ vì sự bất tịnh mà chúng ta lại bỏ phế việc tu hành
sao? Hơn nữa, chư Phật, Bồ tát, các Ngài đâu còn có tâm phân biệt chấp trước
nhơ sạch như phàm phu tục tử chúng ta. Các Ngài lúc nào cũng mong mỏi khuyến
khích chúng ta tinh tấn tu hành. Đã thế, thì thời gian đối với sự tu hành của
người Phật tử phải nói là vàng bạc quý báu. Không giờ phút nào lại không tu
hành. Dù tu theo thời khóa hay không thời khóa cũng thế. Vì một ngày qua, thân
ta mỗi suy tàn già yếu. Bệnh hoạn và cái chết đến với chúng ta không biết lúc
nào. Thử hỏi có mấy ai lường trước được?
Thế
thì, tại sao chúng ta không nghĩ đến sự vô thường nhanh chóng mà nỗ lực gắng
chí lo tu? Phật tử nỗ lực tu hành, công phu tụng kinh, bái sám, chư Phật, Bồ
tát, các Ngài thương không hết có đâu lại quở trách sự không trong sạch của
Phật tử.
Đối
với Phật Pháp, sự nhơ bên ngoài không đáng kể, mà đáng kể nhứt là cái nhơ trong
lòng của chúng ta. Cái cấu trược phiền não tham, sân, si, mới là cái đáng cho chúng
ta quan tâm mà gấp lo tiêu trừ. Nói thế, không phải chúng ta coi thường phần sự
tướng bên ngoài. Nhưng chúng ta phải biết cái nào quan trọng và cái nào thứ
yếu. Cái nào gốc, cái nào ngọn. Cái quan trọng, thì chúng ta phải quan tâm
nhiều hơn. Đó là sự sáng suốt khéo biện biệt của người Phật tử trong lãnh vực
tu hành.
Tóm
lại, Phật tử cứ yên tâm không có gì phải lo ngại. Phật tử cứ sinh hoạt tụng
kinh bái sám như thường lệ. Không có gì là tội lỗi cả. Chỉ mong sao Phật tử cố
gắng giữ thời khóa tụng niệm bình thường. Được vậy, chư Phật và Bồ tát rất hoan
hỷ và khen ngợi sự tinh tấn tu hành của Phật tử.
Chúc
Phật tử luôn an vui và luôn tinh tấn trên bước đường tu niệm, cầu nguyện Phật
tử chóng đạt thành đạo quả.
68. Ăn chay dùng trứng gà
được không?
Hỏi: Vào
những ngày ăn chay, Phật tử tại gia chúng con có ăn trứng gà được không? Con
nghe người ta nói, trứng gà không trống ăn được. Nếu ăn, có bị mang tội không?
Đáp: Phật giáo Bắc tông (Đại Thừa) chủ
trương ăn chay, là vì lòng từ bi và hơn nữa là muốn tránh quả báo oán thù.
Không vì mạng sống của mình mà làm tổn thương đến những mạng sống của những con
vật khác. Nếu bảo ăn chay là tu, theo tôi, thì chưa đúng hẳn. Bởi vì, Phật giáo
Nam tông (Nguyên Thủy) đâu có ăn chay ngày nào. Ngay cả đức Phật và các vị Thánh
Tăng theo Phật thời xưa, các Ngài đâu có ăn chay. Các Ngài ôm bát đi khất thực,
ai cúng gì ăn nấy. Phật tử Ấn Độ thời Phật, họ ăn mặn chớ đâu có ăn chay. Như
vậy, chả lẽ các Ngài không ăn chay là không tu sao? Không tu, sao các Ngài
thành Phật và thành A la hán? Song có điều các Ngài không tự tay sát hại mà
thôi. Người Phật tử cần phải hiểu cho thật rõ giới thứ nhất nầy.
Trong
giới thứ nhất, Phật dạy người Phật tử không được sát sanh, nhưng chủ yếu Phật
dạy, là không được giết người. Vì mạng sống con người rất là quan trọng so với
các loài vật khác. Điều nầy, đối với luật pháp thế gian cũng thế. Giết người là
một trọng tội, tất nhiên phải bị ở tù. Ngược lại, giết hại sinh vật, thì không.
Cho
nên, người Phật tử không được giết người. Gìn giữ không giết người là căn bản,
rồi từ đó hạ xuống dần đến những loài súc vật nhỏ khác. Tránh sát hại được bao
nhiêu thì tốt bấy nhiêu. Chớ nếu giữ một cách tuyệt đối, thì không ai giữ đúng
cả. Kể cả chư Tăng Ni ở trong chùa cũng không tránh khỏi. Thử hỏi khi Tăng Ni
bệnh có cần uống thuốc không? Nếu uống, thì cũng đã giết hại biết bao con vi
trùng rồi. Thế thì, luận cho cùng, không một ai tránh khỏi cả.
Câu
hỏi của Phật tử, theo tôi, thì người Phật tử tại gia ăn trứng gà vào những ngày
ăn chay là không có gì tội lỗi cả. Vì sao, vì trứng gà vốn không có trống. Mà
không có trống, tức không có mầm sanh. Không có mầm sanh, thì làm gì có sự giết
hại? Nếu có mầm sanh mà mình giết, thì hơi tàn nhẫn. Đấy là nói, những người tu
hạnh xuất thế cần giữ, để tiến lên đạo quả Bồ đề nhanh chóng. Còn đối với Phật
tử tại gia, tu theo nhơn thừa, tức theo hình thức giới tướng giữ 5 giới, thì
việc ăn trứng gà không trống, thật không có gì tội lỗi. Điều nầy, đối với người
tu Tiên, thì cấm kỵ. Vì tu Tiên là họ luyện tập để cho thân thể được nhẹ nhàng.
Cho nên, họ không ăn những thức ăn trược uế. Ngược lại, người tu Phật thì không
thế.
Lý
do tại sao chúng tôi dám quả quyết như thế, Vì theo Luật Phật dạy, cái gì có
mầm sanh mà mình đoạn tuyệt mạng sống của nó, thì mới có tội. Còn trứng gà, như
Phật tử đã nói là không có trống, đã không trống, thì ăn có gì là sát sanh hại
vật đâu mà sợ.
Nếu
Phật tử còn nghi, thì xin Phật tử nghe lại bộ băng nhựa nói về 33 vị Tổ Thiền
Tông Ấn Độ và Trung Hoa, do Hòa Thượng Thanh Từ thuyết giảng tại Thiền Viện
Thường Chiếu. Trong đó, có câu hỏi cũng tương tợ như câu hỏi của Phật tử đã hỏi
và Hòa Thượng cũng đã trả lời khẳng định là ăn trứng gà không trống thì không
có gì là tội lỗi cả. Phật tử cứ yên tâm, nếu thích thì cứ ăn. Chỉ sợ ăn nhiều
sanh bệnh hoạn mà thôi.
69. Cúng heo quay trả lễ
có mang tội không?
Hỏi: Con có khẩn
vái với thần linh, khi nào con trai của con có việc làm ở Úc, thì con sẽ cúng
một con heo quay để trả lễ. Bây giờ thì con của con đã có việc làm. Nhưng, sau
khi nghe quý thầy giảng pháp nói về việc sát sanh tội lỗi, con không muốn cúng
heo quay nữa. Vậy bây giờ con xin cúng trái cây để trả lễ có được hay không?
Đáp: Tin là một đức tính quý báu của người
Phật tử. Nhưng điều quan trọng là phải đặt định niềm tin đúng chỗ. Nói rõ hơn,
người Phật tử phải chánh tín. Người Phật tử không tin sâu vào nhân quả, thì
chưa phải là Phật tử. Thay vì tin nhân quả, Phật tử lại đặt niềm tin ở nơi Quỷ
Thần. Vì tin vào sự gia hộ của Quỷ Thần, nên Phật tử mới van vái cho con trai
của mình mau có việc làm. Lúc Phật tử van vái khẩn cầu, thì khẩn cầu là cúng
heo quay trả lễ. Sau khi van vái, thì con trai của Phật tử may mắn được có việc
làm. Nay, Phật tử đổi ý vì sợ mang tội sát sanh. Như vậy Phật tử không sợ Thần
linh nổi giận hay sao? Vì Phật tử đã gạt Thần linh kia mà! Đó là Phật tử thêm
một lỗi nữa là thiếu đức tánh thành thật.
Vấn
đề nầy, tôi xin giải đáp phân hai, rồi tùy ý Phật tử suy xét mà quyết định.
Thứ
nhứt, Nếu Phật tử cúng heo quay đúng như lời van vái (vì Phật tử đã tin như
thế) thì phải chấp nhận mang tội sát sanh. Giả như, bây giờ tôi khuyên Phật tử
nên cúng trả lễ bằng trái cây, sau khi cúng, nếu yên xuôi không có chuyện gì
xảy ra cho con trai hay gia đình của Phật tử, thì mọi việc không sao. Nhưng,
nếu có chuyện gì xảy ra, (ở đời nhân quả làm sao biết trước được) thì đổ thừa
tại tôi khuyên bảo cúng như thế, nên mới xảy ra cớ sự nầy. Bởi vì, Phật tử tuy
đã quy y Tam Bảo, nhưng lòng tin của Phật tử thì lại khác. Nghĩa là Phật tử
chưa có đủ tín tâm vào Tam Bảo. Trong khi Phật tử quy y Tam Bảo: Phật, Pháp,
Tăng, thì Phật đã dạy rõ : « Sau khi quy y Phật rồi, Phật tử
không được quy y ở nơi Thiên, Thần, Quỷ, Vật ». Phật tử đã coi Thiên,
Thần, Quỷ, Vật hơn Phật, nên mới cầu khẩn van vái như thế. Bởi Phật tử không có
đủ niềm tin Phật, nên mới van vái cầu khẩn với Quỷ Thần.
Điều
nầy, nếu luận xa hơn một chút, căn cứ vào nhân quả mà nói, thì con trai của
Phật tử xin được việc làm, đâu có phải do Phật tử van vái cầu nguyện mà được.
Đó chẳng qua do nhân và quả của đứa con trai của Phật tử mà thôi.
Thử
đặt vấn đề, nếu nhờ cầu khẩn van vái mới xin được việc làm, vậy thì, thử hỏi ở
xứ Úc nầy, biết bao nhiêu người có việc làm, chả lẽ những người đó đều phải
khẩn cầu van vái cúng heo quay hết sao? Tại sao người ta không van vái gì cả mà
họ vẫn có việc làm? Phải chăng, tất cả đều do khả năng và ý chí của họ. Việc
làm ở Úc có rất nhiều công việc khác nhau. Người chủ nhận việc, căn cứ vào
trình độ học lực và khả năng cũng như sức khỏe của người xin việc mà họ nhận
hay không, đó là quyền của họ.
Giả
như sau nầy, công việc mà con trai của Phật tử đang làm, xảy ra điều gì đó làm
mất lòng người chủ, người chủ liền sa thải, tất nhiên con của Phật tử phải
bị thất nghiệp. Khi đã thất nghiệp, muốn có việc làm lại, thì Phật tử phải tiếp
tục van vái cầu khẩn cúng heo quay nữa. Nếu trong gia đình của Phật tử giả sử
có 10 người con, mỗi người tới tuổi trưởng thành phải đi làm, thì những người
đó, Phật tử đều phải van vái cúng tế một con heo quay hết sao? Nếu Phật tử tin
như thế, thì tôi cũng xin đầu hàng, không còn gì nữa phải nói. Khi tin một điều
gì, chúng ta cần phải biện luận cho có lý lẽ. Người Phật tử không thể nhắm mắt
tin càn, tin một cách mù quáng được. Nếu tin như thế, thì còn gì gọi là Phật
tử. Xin Phật tử hãy dùng trí huệ suy xét thật kỹ về vấn đề nầy.
Thứ
hai, nếu Phật tử sợ mang tội sát sanh, phải chịu quả báo sau nầy, thì Phật tử
nên cúng trả lễ bằng trái cây. Thật ra cúng hay không cúng là do lòng tin của
Phật tử. Tin thì có, không tin thì không có. Người xưa có câu nói: “linh
tại ngã, bất linh tại ngã”. Có khi nào Phật tử cúng mà vị Thần nào đó đến
thụ hưởng đồ vật cúng đó hay không? Hay là mọi người trong thân bằng quyến
thuộc hưởng dụng. Mọi người hưởng dụng béo bổ ngon miệng, trong khi đó, thì tội
lỗi gây ra chỉ một mình Phật tử lãnh lấy hết. Như thế, Phật tử có cam tâm làm
như thế không? Phật tử tin chắc vào nhân quả. Mọi việc xảy ra xấu tốt cho mình,
tất cả đều do mình gây tạo. Nếu mình đời trước gây tạo nhân lành, thì đời nầy
mình sẽ gặt hái quả lành. Ngược lại, nếu đời trước hoặc nhiều đời trước nữa mà
mình tạo nhân bất thiện, thì đời nầy khi quả thuần thục xảy đến, thì mình phải
nhận lấy. Vì nhân quả không chỉ xảy ra trong hiện đời mà nó đã trải qua nhiều
đời. Người Phật tử phải có niềm tin chắc chắn đúng theo chân lý nhân quả như
thế, thì không có gì gây ra cho ta sợ hãi cả. Mình làm mình chịu, không than
oán trách ai.
Tôi
khuyên Phật tử nên sáng suốt mà nhận định vấn đề. Phật tử nếu có lòng tin vào
Tam Bảo, nhân quả, thì đừng bao giờ nghe theo ai. Vì ở đời, không ai có quyền
quyết định cho mình, mà tất cả nên hư, thành bại, xấu tốt… đều do mình định
đoạt lấy. Nên tin theo lời Phật Tổ dạy mà cố gắng làm lành. Cứ gây tạo nhân
lành, thì tất nhiên sẽ có quả lành. Nhân quả không bao giờ sai chạy, chẳng qua
nó đến với mình có mau chậm mà thôi.
Tóm
lại, Những điều giải đáp của chúng tôi trên đây, tất cả đều căn cứ theo luật
nhân quả mà chúng tôi có đôi lời khuyến giải. Tùy Phật tử quyết định lấy.
70. Không có thiết lập bàn
thờ Phật có tụng kinh được không?
Hỏi: Kính
thưa thầy, nhà con không có thờ Phật, chỉ có bàn thờ ông bà, mặc dù con rất tin
tưởng Phật Pháp, nhưng vì hoàn cảnh gia đình chật chội, nên con không có lập
bàn thờ Phật. Vậy xin hỏi: con có tụng kinh được không ?
Đáp: Xin thưa ngay là được, không có gì trở
ngại. Tuy nhiên, ở đây, chúng tôi cũng xin góp thêm chút ý kiến nói rộng hơn về
vấn đề nầy. Đứng về phương diện hình thức sự tướng lễ nghi mà nói, thì khi tụng
niệm bái sám, Phật tử cần phải có thiết lập bàn thờ Phật và phải tôn thờ Ngài
nơi chỗ trang nghiêm thanh tịnh.
Phật
hay Bồ tát, tuy là hình tượng, nhưng người Phật tử phải luôn kính trọng tôn
thờ. Ta tôn thờ Phật là vì ta nhớ đến công ơn giáo hóa của Ngài. Vì Ngài là
người giác ngộ hoàn toàn. Tuy Phật đã nhập diệt rất lâu xa, nhưng Ngài còn để
lại cho chúng ta một kho tàng kinh điển vô giá, gồm có ba tạng kinh điển. Nhờ
đó mà chúng ta mới nghiên cứu học hỏi và mới biết được đường lối tu hành thoát
ly sanh tử khổ hải. Như vậy, công ơn của Ngài thật quá lớn lao, không sao kể
xiết. Thế nên người Phật tử sau khi quy y, nghĩ đến công ơn lớn lao đó của Ngài
mà ta nên thỉnh tượng Phật về nhà để tôn thờ.
Thờ
Ngài với mục đích chính là để chúng ta ra vô thấy hình tượng của Ngài để chúng
ta bắt chước noi theo tấm gương công hạnh cao cả giác ngộ giải thoát của Ngài.
Để từ đó, chúng ta cố gắng thật hành theo những gì mà Ngài đã chỉ dạy. Chúng ta
nên đem những lời dạy đó mà ứng dụng trong đời sống thực tế hằng ngày. Có thế,
thì việc thờ Ngài mới được lợi ích. Và thờ Phật như thế mới đúng với ý nghĩa
thờ Phật.
Ngược
lại, nếu ta thờ Phật, Bồ tát để mong cầu các Ngài ban ơn giáng phước, hay trừ
tà giải nạn, gia hộ độ trì cho mọi người trong gia đình luôn được mạnh khỏe,
quanh năm suốt tháng gia đạo luôn được bình an, không xảy ra tai họa. Thờ Phật
hay Bồ tát như thế thì thật là một sai lầm rất lớn. Thờ với quan niệm như thế,
có khác nào xem Phật hay Bồ tát như là một vị thần linh. Tệ hơn nữa, có người
còn lo cúng kiến như lo lót hối lộ cho các Ngài phù hộ. Nếu không được như ý,
thì các Ngài không linh. Phật hay Bồ tát là những người giác ngộ, mà ta lại xê
dịch biến các Ngài qua vị trí trở thành Thần linh gia hộ. Thật là quá mê lầm
tội lỗi! Thế nên, người Phật tử khi thờ Phật hay Bồ tát, cần phải học hỏi hiểu
rõ ý nghĩa của sự tôn thờ nầy. Nếu không, thì chúng ta sẽ mang trọng tội
với các Ngài.
Tại
sao Phật tử lại thờ kính ông bà? Có phải Phật tử vì nghĩ đến công ơn sanh thành
giáo dưỡng sâu nặng của cha mẹ ông bà mà Phật tử tôn thờ hay không? Cha mẹ ông
bà chỉ là người cho ta cái hình hài thể chất nầy mà ta còn phải nhớ ơn quý kính
tôn thờ như thế, huống gì đối với đức Phật đã chỉ dạy cho ta có thêm nhiều trí
huệ sáng suốt và vạch bày cho chúng ta một con đường giác ngộ giải thoát vĩnh
viễn không còn sanh tử khổ đau. Như thế, thì thử hỏi ân đức của Ngài đối với
chúng ta lớn lao đến bực nào? Vì thế việc thờ Phật ở trong gia đình đối với
người Phật tử tại gia cũng rất là thiết yếu quan trọng.
Trở
lại câu hỏi của Phật tử, Phật tử tuy có lòng tin tưởng Phật pháp, nhưng vì gia
cảnh chật chội nên không thể thiết lập riêng bàn thờ để thờ Phật. Mặc dù Phật
tử không có thờ Phật, nhưng vẫn có thờ ông bà. Việc thờ cúng tổ tiên ông bà là
một điều rất tốt theo phong tục truyền thống hiếu đạo của người Việt Nam. Việc
thờ phụng ông bà đó là điều rất quý tôi hết lòng tán dương Phật tử.
Nếu
gia cảnh của Phật tử chật chội, không thể thiết lập một bàn thờ Phật riêng,
nhưng khi tụng niệm lễ bái, thì Phật tử cũng có ý muốn là có hình tượng Phật để
chiêm ngưỡng lễ bái. Theo tôi, thì Phật tử nên linh động, thay vì đã có bàn thờ
ông bà, thì tại sao Phật tử không thờ Phật ở trên. Phật tử nên tìm cách tạo
phương tiện như thế nào đó cho nó thích hợp. Nghĩa là vừa thờ ông bà mà cũng
vừa thờ Phật.
Như
thế, thì được lưỡng lợi cả hai. Vì ông bà cũng phải tôn kính Phật, nên thờ Phật
ở tầng trên, và thờ ông bà ở tầng dưới, như thế có gì là thất kính mà có lỗi
đâu. Và thờ như thế cũng đâu có chiếm thêm vị trí nào khác mà chật chội. Tại vì
hoàn cảnh mình phải làm như thế. Phật và ông bà không có trách cứ Phật tử đâu,
ngược lại, chẳng những không trách cứ mà các vị đó còn thương xót Phật tử nhiều
hơn nữa. Vì biết Phật tử là người có tấm lòng tốt, chí hiếu, nhưng vì gia cảnh
chật chội phải thờ phụng như thế mà thôi.
Tôi
thành thật khuyên Phật tử nên làm như thế. Vì có thờ Phật, khi Phật tử tụng
niệm bái sám, nhìn thấy hình tượng tướng hảo của Phật hay Bồ tát, thì nó càng
tăng thêm niềm tin và lòng quy kính của Phật tử hướng về Tam Bảo. Và do đó,
việc tụng niệm của Phật tử càng có thêm sự tha thiết chí thành. Nhờ đó mà lòng
của Phật tử càng cảm thấy vui tươi an lạc dịu hiền tươi mát hơn. Đây cũng
là một điều rất hệ trọng cho đời sống tâm linh, xin Phật tử hãy quan tâm suy
xét lại cho thận trọng kỹ càng.
Đó
là nói theo phần sự tướng bên ngoài, còn luận về lý tánh bên trong, thì Phật
tử thường xoay về tự tâm quán chiếu từng giây phút không cho phiền não
phát sanh, như thế thì Phật tử đang thờ Phật và thật sự tôn kính ông Phật của
Phật tử rất mực rồi. Vì mỗi người đều sẵn có ông Phật. Thờ Phật ngoài để làm
sáng tỏ Phật tự tâm của mình. Thờ Phật như thế, mới đúng là « Sự Lý
viên dung ». Và thờ Phật như thế, mới thật sự đúng với ý nghĩa thờ Phật.
Kính mong Phật tử phải thờ Phật cả hai như thế. Có thờ như thế, thì mới mong
thoát khổ. Còn nếu chỉ biết có ông Phật ở bên ngoài không thôi, thì thật sự
chưa đúng với ý nghĩa thờ Phật vậy.
71. Khi niệm Phật thấy
hình tượng Phật có lỗi không?
Hỏi: Kính
thưa thầy, vào giờ con niệm Phật công cứ, trong tư tưởng con thường hay mong
muốn thấy hình tượng Phật Di Đà và hình tượng của Bồ Tát Quán Thế Âm. Xin hỏi:
sự mong muốn đó có lỗi gì không ?
Đáp: Xin thưa ngay trong lúc liên hữu đang
niệm Phật mà vọng cầu như thế thì thật là có lỗi. Lỗi nầy liên hữu cần nên
tránh. Liên hữu nên nhớ, Phật Tổ dạy chúng ta niệm Phật với thâm ý là để
cho chúng ta diệt trừ phiền não, cho tâm ta được an định. Niệm Phật mà tâm
không an định, đó là chúng ta đã niệm Phật sai rồi. Lẽ ra khi niệm Phật công cứ
hay không công cứ cũng phải như thế. Ngược lại, đằng nầy liên hữu không niệm
như thế mà còn niệm Phật với tâm vọng động mong cầu cho được thấy hình
tượng Phật và Bồ tát, thì quả đó là một sai lầm rất lớn. Vì sao? Vì có
mong cầu là có vọng tưởng. Niệm Phật mà còn có vọng tưởng như thế, thì làm sao
tương ưng với pháp môn niệm Phật. Và như thế, thì đã trái với yếu lý niệm Phật
mà Phật Tổ đã chỉ dạy rồi.
Tôi
xin nhắc lại để cho liên hữu chú ý là: “niệm Phật mục đích chính là để dứt
trừ phiền não”. Phiền não có giảm thiểu, thì tâm ta mới được an lạc. Tâm
có an lạc, thì mới có được lợi ích hiện đời và tương lai mới có hy vọng vãng
sanh. Bởi tâm có an lạc thì mới tương ưng với cảnh giới Cực lạc mà chúng ta
đang quy hướng.
Nhưng
ở đây thì trái lại, liên hữu niệm Phật mà còn có khởi vọng tâm mong cầu để thấy
Phật và Bồ tát, thì đó là điều trái với sự niệm Phật. Khi niệm Phật, hành giả
chỉ nhiếp tâm vào câu hiệu Phật không nên vọng nghĩ điều gì. Chư Tổ thường dạy
là : « tâm và tiếng phải hiệp khắn nhau và phải niệm cho rành
rõ ».
Niệm
Phật tuy có nhiều cách, nhưng cách tốt nhứt vẫn là trì danh niệm Phật. Nhưng dù
niệm Phật cách nào đi chăng nữa, điều tối kỵ là có vọng tâm mong cầu. Bất cứ
mong cầu điều gì cũng là bệnh cả. Đó là bệnh vọng tưởng phiền não. Tối kỵ nhứt
là vọng cầu thấy hình tượng Phật bên ngoài. Có vọng cầu dù là vọng cầu thấy
Phật, đó cũng là phiền não vọng tưởng mà thôi. Đã có phiền não thì đã trái với
Sự và Lý niệm Phật rồi. Liên hữu nên nhớ, tất cả đều từ tâm mà ra.
Nếu
khi liên hữu mong muốn thấy Phật, thì chính cái mong muốn đó là vọng tưởng. Còn
có vọng tưởng là còn sanh diệt, tức nhiên còn có vui buồn vừa ý hoặc không vừa
ý. Vừa ý thì vui, không vừa ý thì buồn. Đó là ma vui ma buồn dẫn dắt liên hữu.
Như vậy là niệm trên sự buồn vui chớ đâu phải niệm Phật. Điều nầy rất quan
trọng mà tất cả liên hữu chúng ta cần phải lưu ý.
Có
người khi họ niệm Phật, thay vì tập trung tâm ý vào câu Phật hiệu, cho tâm được
thuần nhứt an định, họ lại mơ ước thấy Phật tượng bên ngoài. Khi thấy Phật
tượng bên ngoài hiện ra, thì họ rất vui mừng, cho đó là kết quả của sự niệm
Phật. Từ đó, mỗi khi niệm Phật, họ đều khởi ý mong cầu cho thấy Phật như thế.
Liên hữu nên nhớ, tất cả cảnh đều từ tâm. Dù cảnh tốt hay cảnh xấu cũng đều từ
tâm vọng mà ra. Phật Tổ dạy ta niệm Phật là để cho tâm ta được an định. Có an
định mới có trí huệ. Có định huệ thời không có phiền não. Không phiền não, thì
mới được nhứt tâm. Đó là chủ yếu mà trong Kinh tiểu bổn Di Đà, đức Phật Thích
ca đã dạy chúng ta như thế. Niệm Phật để được đi dần đến chỗ « Nhứt
tâm bất loạn », niệm Phật như thế mới hợp với ý Phật Tổ dạy.
Còn
có tâm vọng cầu là còn chạy theo cảnh duyên bên ngoài. Còn theo cảnh duyên bên
ngoài đó là cửa ngỏ dễ bị ma dẫn dắt. Giả như có thấy Phật thiệt ứng thân đi
nữa, cũng chưa phải là thấy Phật, đừng nói chi thấy Phật qua hình tượng.
Trong
Kinh Kim Cang Bát Nhã Phật đã từng dạy :
Nhược
dĩ sắc kiến ngã
Dĩ
âm thanh cầu ngã
Thị
nhơn hành tà đạo
Bất
năng kiến Như Lai.
Nghĩa
là:
Nếu
ai cho rằng thấy sắc tướng của Phật mà cho là thấy Phật hay nghe âm thanh của
Phật thuyết giảng mà khởi tâm tìm cầu Phật. Phật nói: « kẻ đó đang
thật hành đạo tà, không bao giờ thấy được Như Lai ». Tại sao thế?
Cũng trong Kinh nầy, ở một đoạn khác Phật nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư
vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai”. Nghĩa là: phàm
cái gì có hình tướng đều là hư dối, nếu thấy các tướng, chẳng phải tướng thật,
chính đó mới thấy được Như Lai. Như lai là bất sanh bất diệt, còn các tướng đều
sanh diệt hư dối không thật. Đã là hư dối, thì tại sao ta lại mong cầu? Phật tử
nên nhớ, Phật dạy, ngoài tâm mà cầu Phật đó là ngoại đạo.
Như
vậy, người muốn thấy Phật phải thấy bằng cách nào? “Phải thấy không chỗ để
thấy, tức là phải ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Còn có tâm dính mắc vào
bất cứ cảnh nào, cũng đều là tà ngoại cả, chớ không phải thấy Phật thiệt. Phật
thiệt phải chính ở nơi bản tâm mình. Khi nào tâm mình lặng hết vọng tưởng, thì
ngay đó Phật thiệt của mình mới hiện ra, khỏi cần tìm kiếm ở đâu xa. Còn có
khởi tâm tìm kiếm là đã sai rồi. Nói rõ hơn là đã mất ông Phật thiệt của mình
rồi. Vì ông Phật ứng thân giáng sanh ở Ấn Độ sống được 80 năm rồi nhập diệt,
ông Phật đó cũng là ông Phật giả mà thôi. Vì ông Phật đó có sanh có diệt.
Bây
giờ, người ta đi qua Ấn Độ đâu có ai còn thấy ông Phật Thích Ca đó nữa. Ông
Phật có sắc thân với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp mà còn không có thiệt, hà tất gì
ông Phật do người ta tạo ra bằng cốt sắt xi măng hay bằng gỗ giấy mà có thiệt
hay sao?
Tu
hành mà dụng tâm sai, thì đó là đầu mối của ma vương dẫn dắt. Nếu hành giả
không khéo thì sẽ nguy hiểm vô cùng. Chúng ta nên nhớ rằng, bọn ma nó có ngũ
thần thông, nó muốn hiện ra thứ gì cũng được. Tùy theo ý muốn của mình, ham
thích thứ gì thì nó sẽ hiện ra thứ ấy.
Thuở
xưa, chính Tổ Ưu Ba Cúc Đa là vị Tổ sư thứ tư bên Ấn Độ còn phải bị lầm lẫn khi
nó hiện ra hình ảnh đức Phật và các vị Thánh chúng. Là Tổ mà còn lầm ma tưởng
là Phật, như thế, còn đối với phàm phu chay như chúng ta thì sao? Bản thân mình
đã là ma rồi mà không chịu lo tìm cách để tiêu trừ, mà lại còn vọng cầu thấy
nầy thấy nọ, đó là ma lại chồng chất thêm ma nữa.
Tệ
hại hơn nữa, có người lại còn đi khoe khoang với mọi người cho rằng mình niệm
Phật đã thấy Phật. Hỏi thấy Phật như thế nào? thì họ trả lời là thấy qua Phật
tượng giấy. Nếu thấy Phật tượng giấy thì có gì khó khăn đâu. Chúng ta cứ mở to
đôi mắt ra là nhìn thấy rồi. Đâu cần đợi đến khi niệm Phật mới thấy hình tượng
đó. Như vậy, rõ ràng là họ thấy bằng vọng tưởng của họ. Vậy mà cũng đi khoe với
mọi người. Người không hiểu biết, nghe nói tưởng là người đó tu hành công phu
khá, vì nhờ tu khá nên mới thấy Phật.
Ngược
lại, đối với những người có chút ít kinh nghiệm trong sự tu hành hay họ học hỏi
nghiên cứu kỹ kinh điển Phật dạy, nghe nói thế, thì họ lại đâm ra lo sợ và thật
đáng thương xót cho người đó. Vì họ biết người đó đã sai lầm rồi. Nhưng vì
người đó đã mang nặng mặc cảm định kiến, thì dù cho họ có thật tâm khuyên bảo,
nhưng đâu dễ gì mà người đó chịu bỏ.
Thuở
xưa, sơ tổ Liên Tông là Huệ Viễn đại sư khi nhập định, ở trong định, Ngài thấy
Thánh cảnh Tây phương hiện ra 3 lần. Nhưng Ngài tuyệt nhiên không dám hở môi.
Vì sợ người ta hiểu lầm chạy theo cái giả tướng mà mong cầu, thì đó là tai hại
vô cùng. Cho nên Tổ yên lặng không bao giờ tiết lộ cho ai biết. Mãi cho đến khi
sắp viên tịch, bấy giờ, Tổ mới nói cho các vị đệ tử biết.
Chúng
ta nên nhớ, Ngài thấy Thánh cảnh trong lúc nhập định, bởi do nhập định tâm của
Ngài thanh tịnh, an định nên nó mới tương ưng với cảnh Cực lạc. Do đó, nên cảnh
cực lạc mới hiện ra, chớ không phải do Ngài vọng tâm mong cầu mà thấy. Đó là
điều mà ta nên cẩn thận lưu ý.
Ngược
lại, chúng ta chưa được như thế, mà khởi tâm mong cầu thì dễ bị ma nó dẫn dắt.
Và cái thấy của ta là do vọng tưởng nó lòa hiện ra thôi, chớ không phải là
thiệt. Nếu không khéo buông bỏ cứ mãi đắm mê chạy theo cái giả cảnh đó, thì có
ngày chúng ta sẽ bị bệnh loạn trí. Đến khi bị ma nó dẫn dắt đi vào con đường mê
loạn rồi, thì chừng đó chúng ta có hối hận ăn năn thì cũng đã muộn màng lắm
rồi! Chi bằng chúng ta nên tránh nhân thì không có quả. Một khi đã vướng bệnh
nặng rồi, thì hết phương cứu chữa. Đó là điều rất tai hại nguy hiểm mà chúng
tôi xin thành thật khuyên hành giả nên dè dặt cẩn trọng.
Tóm
lại, liên hữu niệm Phật cứ nắm chắc sáu chữ Di Đà mà chuyên niệm, đừng khởi tâm
vọng cầu muốn thấy thứ gì cả. Khi nào tâm của liên hữu được an định thanh tịnh
rồi, thì chừng đó lo gì liên hữu không thấy Phật. Bởi vì khi đó tâm của liên
hữu cùng tâm Phật tương ưng với nhau, nghĩa là nó có cùng một tần số, thì chắc
chắn sẽ cảm ứng gặp nhau thôi. Kính mong liên hữu nên chú tâm cẩn trọng vấn đề
nầy. Kính chúc liên hữu thành công trong việc niệm Phật cầu vãng sanh.
72. Vì tánh nóng nảy nên
mất hạnh phúc trong gia đình.
Hỏi: Kính
bạch thầy, khi xưa tánh con rất nóng, thường hay cãi vã gây lộn với chồng con,
ông chịu không nỗi tánh nóng nảy ngang bướng hỗn hào của con, nên ông bỏ nhà ra
đi để lại cho con nuôi 3 đứa con. Nay các con của con đã trưởng thành, giờ nghĩ
lại con cảm thấy rất có lỗi với chồng con và con mãi mặc cảm ray rứt ăn năn về
những tội lỗi mà con đã gây ra. Vậy xin hỏi: Có cách nào làm cho con giảm bớt
được tội lỗi nầy không?
Đáp: Tôi rất cảm thông về nỗi lòng của Phật
tử. Nóng nảy là hiện tướng thô bạo của lòng sân hận. Sân là một trong 6 món căn
bản phiền não : tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Nói gọn hơn, phiền não sân
là một trong 3 món Tam độc : « Tham, sân, si ». Sở dĩ gọi
chúng là căn bản, bởi vì những thứ phiền não nầy chúng có gốc rễ rất sâu dầy
thật khó trừ khó đoạn. Không phải chỉ có trong hiện đời nầy mà chúng đã có từ
vô lượng kiếp. Nhơn loại bị đau khổ luôn luôn bất an cũng chỉ vì bọn chúng.
Những thứ nầy không ai lại không có. Nhưng hiện tướng của chúng nặng hay nhẹ
mạnh hay yếu còn tùy thuộc ở nơi sự dụng công huân tu của mỗi người. Sự dụng
công tu hành nầy không những hiện đời mà còn trong nhiều đời trước.
Thế
nên, khi chúng hiện hành mới có sự nặng nhẹ hay mạnh yếu khác nhau. Nếu là
người có tập khí sân hận sâu dầy và họ không biết tu tâm sửa tánh, tất nhiên là
cường độ nóng nảy của họ rất mạnh bạo hung tợn. Họ dám giết người và gây ra
nhiều tội ác tày trời mà chúng ta không thể nào lường trước được. Ngược lại,
nếu người khéo biết dụng công tu hành, thì tương đối cường độ hiện hành của
chúng đỡ hơn.
Qua
sự trình bày của Phật tử, thì tập khí sân hận của Phật tử khá sâu nặng, nên mới
hiện tướng nóng nảy dữ tợn. Sân hận (căn bản và tùy phiền não) tuy chúng có gốc
rễ sâu dầy, nhưng bản chất của chúng là giả tướng không thật. Vì chúng không
thật nên khi tu, chúng ta mới chuyển đổi được chúng.
Ngài
Vĩnh Gia Huyền Giác đã nói trong Chứng Đạo Ca: “Tam độc thủy bào hư xuất
một”. Nghĩa là: Ba thứ tham, sân, si nầy, chúng chỉ là bọt nước chìm nổi
không nhứt định. Bởi thực thể của chúng vốn là giả dối không thật. Nếu chúng
thật, thì làm sao chúng ta có thể chuyển hóa được. Và như thế, thì làm sao tu
hành thành Phật Tổ được ?
Chúng
phát hiện nổi lên sóng gió là tùy duyên. Khi nào gặp hoàn cảnh trái ý nghịch
lòng, thì chúng mới xuất hiện. Bình thường chúng ta không nhận diện ra chúng.
Bởi thế, nên Duy Thức học gọi chúng là những thứ tập khí. Tuy chúng không thật,
nhưng khi chúng hiện khởi mà ta nghe theo mệnh lệnh sai khiến của chúng rồi
hành động, thì hậu quả sẽ gây ra một tác hại rất lớn lao, có thể giết người
hàng loạt không biết gớm tay. Năng lực của chúng rất mạnh bạo là như thế. Kém
hơn một chút thì đánh đập, chửi rủa mắng nhiếc v.v…
Trường
hợp của Phật tử nằm trong dạng thức nhẹ hơn là chỉ mới chửi rủa hỗn hào thôi.
Tuy nhiên, dù nhẹ, nhưng hậu quả cũng mang đến một tác hại là mất hạnh phúc hòa
khí trong gia đình. Cụ thể bằng chứng là ông chồng của Phật tử phải bỏ nhà ra
đi. Như thế, chứng tỏ rằng, ông ta đã không còn đủ sức chịu đựng qua sự hành hạ
nặng nhẹ của Phật tử. Chỉ còn một cách duy nhứt là phải bỏ nhà ra đi mà thôi.
Người
đàn ông là cột trụ trong gia đình có trách nhiệm nặng nề và nhẫn nại cũng khá,
thế mà phải bỏ nhà ra đi, thì chứng minh việc đối xử của Phật tử đối với ông ta
cũng rất là nặng ký. Chính vì thế, mà nay Phật tử nghĩ lại mới ăn năn hối cải
những lỗi lầm mình đã gây ra. Sự ăn năn nào cũng đều là muộn màng cả. Chi bằng
tránh nhân, thì không có quả. Rất tiếc, có lẽ ngày xưa, Phật tử thiếu tu, vì
chưa hiểu được đạo lý, nên mới có những cử chỉ hành động như thế. Hoặc giả
cũng vì hoàn cảnh nào đó mà đưa đẩy Phật tử phải như vậy.
Tuy
sự thể đã xảy ra khá lâu, nay Phật tử biết ăn năn cải hối, đó là điều rất tốt.
Phật dạy: đã là con người không một ai trọn vẹn, không ai lại không có lỗi lầm.
Khổng Tử cũng nói: “nhơn vô thập toàn”. Con người vì còn sống trong
vòng vô minh nghiệp thức, ít nhiều gì cũng đều có gây ra những nghiệp bất thiện.
Nhưng khi đã gây tạo mà mình biết ăn năn sám hối, thì những lỗi lầm kia sẽ có
lúc phải hết. Chỉ sợ là khi đã gây tội mà không biết cải hối, thì tội lỗi kia
càng ngày càng chồng chất thêm nặng mà thôi.
Trường
hợp lỗi lầm của Phật tử đã gây ra, chiếu theo luật nhân quả mà xét, thì ít
nhiều gì Phật tử cũng phải có quả báo. Đã có gây nhân, tất nhiên phải có quả.
Tuy nhiên, sự trả quả báo nầy nó còn có sự nặng nhẹ khác nhau. Nếu như hôm nay
Phật tử biết tu hành lo làm lành lánh dữ tích công bồi đức, ăn năn sám hối về
cái tội hỗn hào mang khẩu nghiệp hiếp đáp nặng nhẹ ông chồng, thì chắc chắn là
những tội lỗi đã gây khi xưa lần lần sẽ giảm bớt, tức chuyển nặng thành nhẹ
vậỵ. Bởi thế, nên nói tu là chuyển nghiệp. Nếu nghiệp không chuyển được, thì ai
tu làm gì cho thêm nhọc sức. Đó là chúng tôi nêu ra có tánh cách chung chung
trong sự tạo nghiệp bất thiện và biết cải hối mà thôi.
Còn
như trong trường hợp của Phật tử, nếu muốn chấm dứt mặc cảm tội lỗi, giải quyết
cụ thể hay nhứt chỉ có cách là Phật tử phải mạnh dạn can đảm xin lỗi với ông ta
về những việc đã gây ra mất hòa khí khi xưa. (xin lỗi không biết ông ta có còn
sống không ?) Nếu như ông ta chịu tha thứ bỏ qua tất cả, thì Phật tử sẽ
không còn gì phải ân hận mặc cảm tội lỗi nữa. Giả như ông ta vẫn cố chấp không
chịu tha thứ bỏ qua, thì Phật tử cũng không còn gì phải ray rứt khó chịu, vì
Phật tử đã biết lỗi và xin lỗi rồi. Theo tôi, đó là cách giải quyết hay nhứt.
Nhưng không biết Phật tử có đủ can đảm hay không. Biết có lỗi đến xin lỗi, thì
đây là chuyện bình thường trong cuộc sống, không có gì phải tự ái hay tự ty mặc
cảm cả.
Qua
những điều chúng tôi góp ý trình bày trên, xin Phật tử cứ yên tâm, cũng đừng
mang nặng mặc cảm tội lỗi nữa. Vì còn mang nặng mặc cảm tội lỗi, thì đó cũng là
một chướng đạo rất lớn trên bước đường tu tập của Phật tử. Điều gì đã qua thì
hãy cho nó qua luôn. Dù mình có nghĩ đến, thì sự việc cũng đã qua rồi, tốt hơn
hết là mình hãy cố gắng tập sống ngay trong giây phút hiện tại. Tôi thành thật
khuyên Phật tử nên để tâm niệm Phật, tụng kinh, sám hối và làm mọi việc lành
nhiều hơn, để cho tội nghiệp càng ngày càng thêm nhẹ, đó là điều tốt đẹp nhứt
mà Phật tử phải gắng công tu niệm.
Kính
chúc Phật tử an vui khỏe mạnh tinh tấn trên bước đường tu tập.
73. Những lỗi lo âu vì
sống đơn độc, nhưng khi giao tiếp thì lại bất bình không chịu nỗi sự gian trá.
Hỏi: Kính
bạch thầy, con có 3 điều thắc mắc mà lâu nay nó cứ mãi ray rứt vương vấn trong
lòng không sao giải quyết:
1. Hiện con đang sống một mình nên con rất lo
sợ khi con ngã bệnh, không ai hay biết và tuổi đời của con hiện nay đã trên 50,
dẫu có đi học cũng không ai mướn mình làm.
2. Tánh con hay nóng nảy, nên con không thích
gần những kẻ chỉ biết sống giả dối bề ngoài, dễ gây ra chuyện không hay, dù đó
là bà con thân thích.
3. Con rất sợ phạm tội sát sanh, lòng muốn ăn
chay trường, nhưng con ăn không được.
Xin thầy từ bi dẫn dắt cho con hiểu phải làm
sao cho ổn thỏa ?
Đáp: Phật tử đã nêu ra 3 vấn đề thắc mắc,
tôi cũng xin lần lượt theo mỗi vấn đề mà góp thêm chút ý kiến mọn cùng Phật tử.
Hy vọng sẽ làm giảm bớt phần nào nỗi lo lắng vướng mắc của Phật tử hiện nay.
1.
Phật tử hiện đang sống đơn độc, nên Phật tử rất lo lắng là khi ngã bệnh không
ai hay biết để chăm sóc. Vấn đề nầy, Phật tử lo lắng thì cũng phải. Song có
điều, tôi thiết nghĩ Phật tử cũng không nên lo lắng lắm. Trong Kinh Phật
dạy: “Có những điều đáng lo mà không lo, ngược lại, có những điều không
đáng lo mà lại lo”.
Thế
nào là những điều đáng lo?
Những
điều đáng lo là hiện tại mình có lo tu tạo được nhiều phước đức không? Hằng
ngày mình có siêng năng niệm Phật, hành thiện, tu tâm sửa tánh ở nơi chính bản
thân mình và mình có hết lòng giúp đỡ người khác không? Nghĩa là mình đã có
thật sự chuẩn bị chu đáo cho cái ngày mình từ giả cõi đời nầy chưa? Vì cái ngày
mình vĩnh viễn ra đi, chính lúc đó mới thật sự là hành trình đơn độc. Và những
tài sản vật chất mà mình đã tạo lập xây dựng cả cuộc đời đó, cuối cùng đến khi
nhắm mắt, thử hỏi mình có mang theo được cái gì không? Hay tất cả đều để lại
cho đời. Còn lại, mình chỉ mang theo được hai thứ, đó là: nghiệp lành và
nghiệp ác mà thôi.
Như
vậy, mình muốn tương lai của mình được vui sướng, hưởng phước báo tốt đẹp, thì
tại sao hiện tại mình không lo tu tạo phước đức? Đó là điều đáng lo mà mình lại
quên không quan tâm tới.
Thế
nào là những điều không đáng lo?
Sanh,
già, bệnh, chết, đó là bốn nỗi thống khổ lớn của con người, mà không một ai
tránh khỏi. Cái mà mình không tránh khỏi, thì thử hỏi có nên lo hay không? Bởi
vì, dù mình có lo lắng đến đâu, thì những thứ đó nó vẫn xảy đến với mình. Bệnh là
một điều mà không ai tránh khỏi. Có thân thì phải có bệnh. Nó là một định luật,
một quy trình tự nhiên. Đã thế, thì mình có lo cũng chỉ uổng công phí sức mà
thôi.
Ở
xứ Úc nầy, là một nước tương đối có đời sống văn minh cao. Có đầy đủ mọi thứ
tiện nghi vật chất. Hơn nữa, trong lãnh vực y tế, chánh phủ cũng rất quan tâm
lo lắng cho người dân, nhứt là đối với những vị cao niên sống một mình.
Nhà
của Phật tử có điện thoại, khi nào Phật tử đau bệnh, thì chỉ cần nhấc ống điện
thoại lên gọi là có người sẽ đến giúp ngay. Bệnh nặng, thì có xe cứu thương đến
cấp cứu chở vào bệnh viện. Còn vấn đề chăm sóc, thì dù cho thân nhân ruột thịt
của mình cũng chưa chắc chăm sóc bằng các vị y tá ở đây. Những người y tá họ
phục vụ cho bệnh nhân với tất cả tấm lòng bằng lương tâm nghề nghiệp. Họ là
những người đối xử rất tốt với bệnh nhân. Thế thì, Phật tử còn bận tâm lo lắng
làm chi cho mệt sức.
2.
Đến vấn đề thứ hai, Phật tử nên biết, mỗi người sanh ra đời đều có nghiệp
riêng, không ai giống ai. Dù đó là anh chị em ruột thịt cùng một dòng huyết
thống, cũng không giống nhau. Thể xác và tinh thần đều không giống.
Khi
lớn lên mỗi người lại hấp thụ mỗi môi trường sinh hoạt khác nhau. Khác nhau từ
sự giáo dục, gia đình và xã hội. Thế thì, bảo người nầy giống hệt người kia sao
được.
Sống
trong một xã hội, tất cả đều có sự tương quan mật thiết với nhau. Dù mình có
muốn tách mình ra khỏi xã hội cũng không thể nào được. Hiện tại, mình sống được
là nhờ đâu? Có phải là nhờ tất cả không? Trong nhà Phật gọi là tương duyên
tương quan mà hình thành. Nói cách khác là do nhân duyên nhân quả tương tức
tương nhập với nhau mà sinh thành. Như quần áo, cơm ăn, thuốc men v.v… tất cả
Phật tử có làm ra không? Mình không tạo ra, do người khác tạo ra cho mình có
phương tiện để sống, như vậy là mình đã nợ những người tạo ra đó.
Thế
thì, có phải những người đó là ân nhân của mình hết hay không? Đã là ân nhân
với nhau, thì mình nên thương kính hay là thù ghét? Có ai thù ghét những người
thi ân cho mình không? Nếu có, thì quả thật mình đã đánh mất đi nhân tính của
mình rồi. Như thế, thì mình không còn xứng đáng làm người nữa. Do tư duy như
thế, ai mình cũng thấy thật đáng thương và đáng cho mình kính trọng cả.
Như
trên đã nói, do biệt nghiệp, nên cá tánh mỗi người mỗi khác. Mà cá tánh đó có
ra là do sự huân tập ở những môi trường sống khác nhau. Như Phật tử xác nhận,
Phật tử vì có tánh nóng nảy, nên không muốn gần gũi giao tiếp với những người
mà họ chỉ biết sống bãi buôi giả dối bề ngoài. Vì thế, mà Phật tử muốn xa lánh
họ.
Xét
người phải nghĩ lại mình. Người có tật xấu, còn mình có phải tốt hết không? Hay
mình cũng có những tật xấu khó ưa mà mình không thấy. Thế nên trong sự giao
tiếp, mình có quyền chọn lựa bạn để giao du kết thân. Nhưng tuyệt đối mình
không nên phê bình chỉ trích cá tánh người khác. Sống trên đời nầy, không có ai
hoàn hảo một trăm phần trăm hết đâu. Chỉ ngoại trừ có một người, đó là Đức
Phật. Phật nói, hàng Bồ tát vẫn còn chút ít vi tế vô minh.
Sở
dĩ chúng tôi nói dài dòng như thế, mục đích là để cho Phật tử thấy rõ nghiệp dĩ
sai khác của mỗi người. Từ đó, Phật tử sẽ có cái nhìn cởi mở và rộng rãi hơn.
Còn sự giao du hay không, đó là quyền của Phật tử chọn lựa. Nếu mình thấy sự
gần gũi qua lại có nhiều sự phiền phức mà mình không thích, thì tốt hơn là mình
nên tránh bớt. Nhưng Phật tử nên nhớ, cuộc sống mình không thể đơn độc được. Dù
mình không có giao du với bạn hay người thân của mình nhiều, nhưng ít ra mình
cũng phải có một vài người bạn thân để khi hoạn nạn hữu sự sớm tối tương trợ
lẫn nhau.
Người
ta nói: bà con xa không bằng láng giềng gần là như thế. Như trên Phật tử lo sợ
sống một mình không có ai, mà giao tiếp bạn thân thì Phật tử lại không muốn.
Như thế, thì Phật tử rơi vào trạng huống mâu thuẫn. Phật tử nên nhớ, hễ mình cư
xử tốt với người, dù người đó không giúp mình, thì cũng có người khác giúp
mình. Đó là luật nhân quả không sai. Cứ xử sự tốt với mọi người, thì mình sẽ có
kết quả tốt là không ai bỏ mình. Phật tử nên tin chắc vào luật nhân quả mà hành
xử để tạo cho mình có một cuộc sống vui tươi và có thêm nhiều ý nghĩa thú vị
hơn.
3.
Vấn đề thứ ba, rõ ràng nghiệp thích ăn thịt cá của Phật tử còn nặng. Mặc dù
lòng thì muốn ăn chay, nhưng cái miệng và cái lưỡi thì nó không cho phép. Cho
nên cuối cùng Phật tử phải chiều theo cái miệng lưỡi để cho chúng nó được thỏa
mãn.
Phật
tử thấy không, nội cái vấn đề ăn mặn và ăn chay, cũng đã là một sự cương quyết
khó khăn rồi, đừng nói chi đến những chuyện cao xa khác. Tuy nhiên, hiện Phật
tử là người tu tại gia, tức tu theo nhơn thừa, Phật tử phát nguyện ăn chay kỳ
được mấy ngày, thì tốt mấy ngày. Phật không bắt buộc ai cả. Phật tử còn thích
ăn mặn thì cứ ăn không sao. Nhưng điều quan trọng là Phật tử không nên sát hại
sanh vật để làm thỏa mãn theo nhu cầu của cái lưỡi thì không nên. Vì đó là phạm
tội sát sanh. Phật tử nên nhớ :
Ngỡ
rằng ngon miệng béo thân
Nào
ngờ oan nghiệt xoay vần trả vay.
Ngoài
ra, Phật tử mua thịt cá ngoài chợ người ta bán đem về nấu ăn thì không sao cả.
Không ăn chay trường được thì giữ ăn chay kỳ cũng tốt. Đến khi nào Phật tử
cảm thấy ngán thịt cá thì chừng đó sẽ ăn chay trường. Chúc Phật tử vui sống và
luôn luôn tinh tấn tu hành.
74. Vấn đề ý nghĩa hoa
sen.
Hỏi: Kính
bạch thầy, mỗi khi vào chùa nhìn lên bàn Phật, thấy tượng Phật ngồi trên tòa
sen, nhưng thú thật con không hiểu ý nghĩa của hình ảnh hoa sen như thế nào? Mà
khi vào chùa nhìn đâu cũng thấy hoa sen cả. Kính mong thầy giải thích cho chúng
con hiểu. Con cám ơn thầy.
Đáp: Điều thắc mắc của Phật tử về vấn đề ý
nghĩa tiêu biểu của hình ảnh hoa sen, thật là hữu lý và rất thú vị. Vì ý nghĩa
của hoa sen, trong nhà Phật giải thích rất rộng và rất quý trọng hoa sen. Có
thể nói hoa sen là một đặc trưng mà phần lớn rãi rác trong các kinh điển Phật
giáo: Nguyên Thủy và Phát Triển đều có đề cập đến. Một bộ Kinh Đại Thừa trọng
đại mà hầu hết Phật tử thuộc Phật giáo Bắc Tông ít nhiều đều có đọc tụng qua,
chẳng những đọc tụng thôi mà còn quan tâm nghiên cứu học hỏi nữa, đó là bộ Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa.
Ngoài
ra, hoa sen còn được biểu trưng qua những lãnh vực khác mang tính đặc thù văn
hóa của mỗi quốc gia dân tộc theo Phật giáo. Nhứt là đối với các nước Phật giáo
Á Châu. Đối với các nước Phật giáo Á Châu, tiêu biểu là Trung Hoa và Việt Nam…
hoa sen được trưng bày trong chùa hoặc qua các phù hiệu cờ đoàn hay các phù
hiệu khác của một vài đoàn thể trong Phật giáo. Như đoàn thể Gia Đình Phật
Tử chẳng hạn. Và trong các Tông phái Phật giáo có một Tông lấy hoa sen mà đặt
tên cho một Tông phái, đó là Tịnh Độ Tông, còn gọi là Liên Tông. Như vậy, cho
chúng ta thấy một cách khái quát rằng, hình ảnh hoa sen trong Phật giáo cái
thâm nghĩa của nó quan trọng đến ngần nào. Vì thế, ở đây, chúng tôi chỉ xin
giải thích một cách khái lược qua một vài đặc tính tiêu biểu mang tính ẩn nghĩa
trong giáo lý Phật giáo mà thôi.
Đại
loại hoa sen có 8 đặc tính tuyệt diệu sau đây: 1. Không nhiễm. 2. Trừng thanh.
3. Kiên nhẫn. 4. Viên dung 5. Thanh lương. 6. Hành trực. 7. Ngẩu không. 8. Bồng
thực.
1. Đặc
tính không nhiễm: Hoa sen dù mọc lên từ bùn nhơ, nhưng tính chất của nó
vẫn không mang mùi hôi của bùn. Ca Dao Việt Nam có bài nói về đặc tính không
cấu nhiễm nầy:
Trong
đầm gì đẹp bằng sen
Lá
xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy
vàng bông trắng lá xanh
Gần
bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Dù
nằm trong bùn trải qua nhiều ngày tháng, nhưng hoa sen vẫn chờ ngày vươn mình
lên khỏi mặt nước để nở ra và rồi khoe hương khoe sắc, ngát tỏa hương thơm cùng
khắp đất trời. Ta thấy giữa bùn và hoa không dính dáng gì nhau. Bùn là tượng
trưng cho phiền não nhiễm ô, còn hoa sen là tiêu biểu cho thanh tịnh. Điều nầy,
để nói lên cái ý nghĩa thâm trầm là chư Phật Bồ tát ra đời, các Ngài vẫn sinh
hoạt trong dòng đời, nhưng các Ngài không bao giờ bị cấu nhiễm. Cư trần bất
nhiễm trần là thế. Ngược lại, chúng ta thì có khác. Chúng ta đụng đâu nhiễm đó.
Mặc dù trong mỗi người chúng ta đều sẵn có hoa sen bất cấu nhiễm nầy. Hoa sen
là để tiêu biểu ẩn dụ cho mỗi người chúng ta ai ai cũng sẵn có Phật tánh. Mà
Phật tánh vốn không cấu nhiễm, vì bản chất của nó thanh tịnh sáng suốt. Nhưng
vì chúng ta theo dòng vô minh vọng nghiệp mà tạo ra nhiều tội lỗi để rồi bị
dính mắc trong trần lao ô nhiễm. Đó là đặc tính thứ nhứt.
2.
Trừng thanh: Trừng thanh là lóng trong. Điểm đặc biệt là chỗ nào có hoa
sen mọc, thì chỗ đó nước không bao giờ đục. Do đó, khi chúng ta hái hoa sen,
thì khỏi cần phải rửa, bởi hoa sen không dính bùn nhơ. Bởi vì bản chất của nó
mang sẵn tính trừng thanh. Điều nầy để nói lên cái ý nghĩa biểu trưng rằng, nơi
nào có chư Phật, Bồ tát ra đời, thì nơi đó sẽ đem lại cho chúng sanh có sự an
ổn mát dịu. Ngược lại, nơi nào có những phần tử xấu ác bất lương, thì nơi đó
chắc chắn là sẽ xảy ra lắm điều phiền phức họa hại bất an.
Đặc
tính trừng thanh nầy, các loài hoa khác không có. Đặc tánh nầy, nếu chúng ta
khéo biết áp dụng vào đời sống thực tế hằng ngày, thì cũng rất là lợi ích. Vì
sao? Vì có thường xuyên lóng lặng cấu uế phiền não thì nước hồ tâm của chúng ta
mới trong sạch thanh lương được. Mà phiền não không có, tất nhiên là chúng ta
sẽ có an lạc hạnh phúc ngay.
3.
Kiên Nhẫn: Như chúng ta đã biết, hoa sen là loại túc căn thảo, tức một
loại có nẩy mầm từ rễ củ của năm trước. Hoa sen mang đặc tính kiên nhẫn rất là
kỳ thú. Rễ củ của nó nằm trong bùn thật lâu để chờ đợi khi hội tụ đầy đủ nhân
duyên là nó sẽ nẩy mầm ngay. Sự chờ đợi đó, tức là đức tánh kiên nhẫn. Đức tánh
nầy, rất cần thiết trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Người nào có đức tánh
kiên nhẫn nầy, thì người đó khi ra làm việc gì chắc chắn sẽ dễ đạt được thành
công. Bằng ngược lại, thì khó mong đạt được.
Có
nhiều khi, vì một việc rất nhỏ nhặt nào đó xảy ra mà chúng ta cũng không đủ sức
kiên nhẫn để vượt qua, thì đừng nói chi đến việc trọng đại. Việc đời cũng như
việc đạo muốn có kết quả tốt đẹp, tất nhiên, chúng ta phải có đức tánh kiên
nhẫn nầy. Nếu không, thì khó mà thành công trong bất cứ lãnh vực nào. Cho nên,
đức tánh kiên nhẫn là một đức tánh tối thiết yếu trong đời sống hướng thượng
thăng hoa, khác nào hoa sen đã kiên nhẫn vươn lên tìm sự sống cao đẹp vậy.
4.
Tánh Viên Dung: Đức tánh nầy, đặc biệt chỉ có hoa sen mới có. Vì hoa sen
có những cánh hoa bao bọc gương sen tròn trịa. Đây là tiêu biểu cho tánh viên
giác của mỗi chúng sanh sẵn có. Tánh viên giác vượt ngoài phạm trù nhân duyên
đối đãi. Hoa sen từ lúc nở cho đến lúc tàn, không bị loài ong bướm làm hư hoại,
khác với các loài hoa khác bị ong bướm tìm đến bu đậu và hút lấy nhụy. Điều
nầy, nói lên tánh viên giác tròn sáng vô ngại, không bị cảnh nào có thể làm
tiêu hoại ô nhiễm nó được.
5.
Thanh Lương: Thông thường các loài hoa thi nhau đua nở vào mùa Xuân, vì
mùa Xuân là mùa mát mẻ. Ngược lại, chúng không thể nở hoa vào mùa Thu hay mùa
Đông. Vì mùa Thu là mùa hay có mưa phùn còn mùa Đông thì giá lạnh. Do đó, không
thích hợp cho các loài hoa khai hoa nở nhụy. Khác hơn các loài hoa khác, hoa
sen lại nở vào mùa Hạ, đây là mùa nóng bức. Điều nầy, để nói lên ý nghĩa chư
Phật Bồ tát ra đời trong cõi đời ngũ trược, chúng sanh dẩy đầy phiền não, bức
bách khó chịu, các Ngài mang lại nước cam lồ từ bi để tưới tẩm làm mát dịu cho
mọi người.
Giữa
mùa hè oi ả nóng bức, nhưng hoa sen vẫn bất chấp sự nóng bức đó mà vẫn vươn
mình mọc lên, để nói lên rằng, dù chúng ta đang sống trong nhà lửa tam giới
đang bị thiêu đốt bởi những thứ lửa dục vọng tham sân si…nhưng chúng ta vẫn cố
gắng bền tâm nhẫn nại chịu đựng để khắc phục vượt qua. Đồng thời dùng nước
chánh pháp để tưới tẩm làm mát dịu tâm hồn.
6.
Hành trực: Hành trực là chỉ cho thân ngay thẳng. Không có loài hoa nào mọc
lên mà có thân hình (cọng sen) ngay thẳng như hoa sen. Điều nầy, để tiêu biểu:
“người tu hành cần phải sửa thân và tâm cho ngay thẳng”. Trong Kinh Duy Ma
Cật có câu nói: “Trực tâm tức thị đạo tràng”. Dù sống trong bất cứ hoàn
cảnh thuận nghịch nào hay ở bất cứ nơi đâu mà tâm ta ngay thẳng, tức không khởi
nghĩ hai bên: có, không, phải trái v.v…dù là ở nơi giữa chợ búa, thì ta cũng
biến nơi đó thành đạo tràng. Đạo tràng là nơi thanh tịnh. Như vậy, đức tánh
ngay thẳng là đức tánh mà người Phật tử cần phải áp dụng hành trì trong đời
sống thực tế. Có thế, thì chúng ta mới có sự lợi lạc, như hoa sen mọc từ bùn
thẳng lên và rồi khoe hương khoe sắc vậy.
7.
Ngẩu không: Hoa sen tuy thân ngay thẳng, nhưng trong ruột thì trống rỗng.
Điểm đặc biệt nầy để nói lên một ý nghĩa rất thâm trầm là người tu hành cần
phải có tánh hỷ xả. Hai đức tánh nầy Bồ tát luôn thực hiện. Nói đến hạnh hỷ xả,
chúng ta liền nghĩ ngay đến Bồ tát Di Lặc.
Đức
Di Lặc ngồi trơ bụng đá
Bao
bụi trần bám đã rồi rơi
Mặc
cho thế cuộc đầy vơi
Dửng
dưng như một nụ cười an nhiên.
Đối
với Bồ tát Di Lặc mọi việc đến và đi, tất cả chỉ là một nụ cười an nhiên. Một
nụ cười khi nhìn thấy:
Mắt
trông thấy sắc thì thôi
Tai
nghe thấy tiếng nghe rồi thì không
Trơ
trơ lẳng lặng cõi lòng
Nhẹ
nhàng ta bước trong vòng trần ai.
8.
Bồng thực: Các loài hoa khác, khi bông tàn mới kết nụ thành trái và có
hột. Ngược lại, hoa sen thì không như thế. Hoa sen nở ra thì đã có gương có hột
sẵn rồi. Đó là nhân quả đồng thời. Điều nầy, nói lên một triết lý sống; nhân
quả không bao giờ sai khác. Nhân quả như hình với bóng, hình thế nào, thì bóng
như thế đó.
Thế
nên, muốn cho đời sống được an ổn tươi mát thơm tho như hoa sen, thì chúng ta
nên nhớ đến lý nhân quả mà hành xử tu nhân tích đức, làm lợi ích cho mình và người,
thì chắc chắn chúng ta sẽ có hạnh phúc an lạc ngay trong đời sống hiện thực,
không cần phải tốn công hao sức tìm nơi đâu xa xôi. Niết bàn hay đau khổ, rốt
lại ở nơi tâm chúng ta mà thôi.
Trên
đây, chúng tôi chỉ nêu ra trình bày một cách khái yếu về những đặc tánh của hoa
sen mà thôi. Thật ra, ý nghĩa của hoa sen rất thâm thúy, không thể nào giải
thích hết được. Tuy nhiên, qua 8 đặc tánh tiêu biểu trên, thiết nghĩ, cũng tạm
đủ để chúng ta hiểu được phần nào về triết lý và hình ảnh hoa sen biểu trưng trong
Phật giáo.
75. Vấn đề xả tang cho cha
mẹ.
Hỏi: Kính
bạch thầy, trường hợp cha mẹ mình chết ở Việt Nam, nhưng vì hoàn cảnh bất như ý
mà không về để chịu tang cho cha mẹ được, con có thể tới chùa ở đây để xin làm
lễ thọ tang và sau 49 ngày xin xả tang. Xin hỏi: như thế có được không ?
Đáp: Xin thưa ngay là được không có gì trở
ngại. Trường hợp của Phật tử vì một lý do hoàn cảnh nào đó quá đặc biệt, ngoài
ý muốn, nên khi hay tin cha hay mẹ mình mất mà không thể về Việt Nam được để
thọ tang, thì Phật tử và gia quyến trong thân thuộc có thể đến chùa để xin chư
Tăng Ni làm lễ thọ tang. Điều nầy, theo tôi, thì không có gì là bất hiếu hay
khó xử cả.
Cần
nói thêm, việc cư tang, đây là một phong tục bắt nguồn từ Nho Giáo mà ra. Trong
Phật giáo không có đề cập đến việc phục sức tang chế. Tang chế là một hình thức
biểu lộ lòng thành hiếu thảo của người con. Quan niệm của tổ tiên ta, coi sự tử
như sự sinh. Lúc còn sống mình đối xử với những người thân thuộc như ông bà cha
mẹ… của mình như thế nào, thì khi chết cũng phải cư xử như thế đó. Do vậy, nên
việc để tang là một biểu nghi hình thức để bày tỏ nỗi nhớ thương người đã khuất
bóng.
Ngày
xưa, việc cư tang rất lâu, phải qua cái lễ cúng đại tường. Đại tường là 2 năm
còn tiểu tường là một năm. Cho nên, ngày xưa các con cháu phải để tang cho cha
mẹ ông bà phải đúng 2 năm mới xả. Nghĩa là phải qua cái lễ giỗ đại tường. Nhưng
về sau nầy, người ta lại giảm lần đi. Vì để tang lâu, có nhiều việc bất tiện,
trở ngại nhiều thứ, nhứt là trong vấn đề cưới hỏi hoặc làm ăn v.v…
Từ
đó mà người mình không còn giữ đúng theo phong tục ngày xưa nữa. Bây giờ, thông
thường là sau 49 ngày là con cháu có thể làm lễ xả tang.
Như
vậy, Phật tử cứ đến chùa xin chư Tôn đức Tăng Ni để làm lễ thọ và xả tang đều
được cả. Đây là vì hoàn cảnh bất khả kháng, chớ kỳ thật Phật tử đâu có muốn như
thế. Vì cha mẹ hay ông bà là những người thân thuộc nhứt đời mình, lẽ ra là
mình phải về để cư tang mới đúng đạo làm con, nhưng vì hoàn cảnh bắt buộc phải
như thế. Xin Phật tử cứ yên tâm, không ai trách cứ Phật tử khi mà hoàn cảnh
không cho phép.
76. Sự khác biệt giữa trí
thức và trí tuệ.
Hỏi: Kính
bạch Thầy, lâu nay con cứ mãi thắc mắc sự khác biệt giữa trí thức và trí tuệ.
Con không hiểu tại sao trong nhà Phật chỉ đề cập đến trí tuệ mà không nói đến
trí thức? Kính xin thầy hoan hỷ giải đáp cho chúng con được hiểu rõ.
Đáp: Theo nhà Phật, đứng trên mặt hiện tượng
nhận thức, giữa trí thức và trí tuệ có khác. Nhưng không khác, nếu đứng trên
mặt bản thể mà xét. Bởi thức không ngoài trí mà có. Như sóng không rời nước mà
có. Nhưng sóng không phải là nước, mặc dù nước vẫn ngầm có trong sóng. Cho nên
giữa sóng và nước không thể xác quyết một hay là hai được. Nói theo lý bất nhị
thì sóng tức là nước và nước tức là sóng. Vì hai thứ nói một là sai mà nói hai
thì không đúng. Giữa trí và thức cũng thế. Đứng về mặt hiện tượng, thì nói là
Thức. Đứng về mặt bản thể, thì nói là Trí. Nói cách khác, Thức là dụng mà Trí
là Thể.
Tuy
nhiên, nếu xét theo nghĩa thông thường mà người ta thường nói, thì giữa trí
thức và trí tuệ trong nhà Phật dùng thì nghĩa của nó khác nhau xa. Bởi trí thức
của người đời nói, đó là thứ trí thức bởi do tích tụ kinh nghiệm mà có. Nói rõ
hơn, là do học hỏi huân tập bởi những môi trường chung quanh mà có ra. Như hấp
thụ kinh nghiệm qua các lãnh vực của đời sống từ trong gia đình, nhà trường và
xã hội. Trong nhà Phật gọi đây là Hữu sư trí. Tức thứ trí do vay mượn bên ngoài
đem vào mà tạm có ra.
Ngược
lại, trí tuệ cũng còn gọi là Vô sư trí, tức trí tuệ không do sự vay mượn bên
ngoài mà được. Mà tự nó sẵn có, nhưng sở dĩ nó không hiển lộ được là do phiền
não che ngăn. Một khi phiền não không còn, thì trí tuệ sẽ hiện bày. Thí như bản
chất của gương là trong sáng, nhưng vì bị bụi bám quá nhiều, nên ánh sáng của
gương không hiển lộ được. Bản chất của trăng là sáng, nhưng bị mây che dày đặc,
nên ánh sáng của trăng không hiển lộ được. Bụi hết, gương sáng, mây tan, trăng
hiện. Cũng thế, mây vô minh phiền não không còn, thì mặt trời trí huệ sẽ hiện
bày. Bởi do đặc tính đó, mà nhà Phật gọi là trí huệ bát nhã, hay Phật tánh v.v…
Nói thế là để biện biệt với trí huệ mà đôi khi người thế gian cũng hay đề cập
đến.
Tóm
lại, trí thức còn trong phạm vi phân biệt, chấp trước bởi do tích tụ kinh
nghiệm vay mượn bên ngoài mà có. Đây là thứ trí thức thuộc Hữu lậu pháp, hay
thế trí biện thông. Ngược lại, trí huệ là cái trí sẵn có không do vay mượn bên
ngoài. Trí nầy khi phát sáng toàn triệt, không còn một chút cáu bợn vô minh
phiền não che ngăn, thì gọi đó là trí huệ cứu cánh, tức là Phật quả vậy.
77. Thế nào gọi là chuyển
nghiệp ?
Hỏi: Kính
bạch Thầy, con thường nghe nói tu là chuyển nghiệp, nhưng con không biết phải
chuyển nghiệp như thế nào? Và nghiệp là gì mà phải chuyển? Kính xin thầy giải
đáp cho chúng con được hiểu.
Đáp: Chữ nghiệp trong nhà Phật nói, ý nghĩa
của nó rất sâu rộng. Ở đây, chúng tôi chỉ xin giải đáp một cách đại khái sơ lược
thôi. Nghiệp nguyên tiếng Phạn là karma, Trung Hoa dịch là nghiệp. Nó có nghĩa
là một hành động được lặp đi lặp lại nhiều lần thành thói quen, nên gọi đó
là nghiệp. Như nghiệp hút thuốc, nghiệp cờ bạc, nghiệp rượu chè say sưa v.v…
Như người ghiền xì ke ma túy, lúc đầu mới hút hay chích một hai liều thì không
sao, nhưng khi làm nhiều lần thì thành ra thói quen nghiện ngập. Khi đã thành
ghiền rồi thì thiếu vắng nó không được. Bấy giờ nó có một sức mạnh rất lớn. Nó
khống chế sai sử chúng ta phải làm theo mệnh lệnh sai khiến của nó. Bởi thế nên
có câu nói: “Thói quen ban đầu chỉ là khách lạ qua đường, sau trở thành người
bạn thân và cuối cùng làm ông chủ khó tánh”. Khi đã trở thành ông chủ khó
tánh rồi, chúng ta khó mà cưởng lại những gì ông chủ sai khiến. Đó là một hậu
quả vô cùng tai hại.
Ngoài
ra, chữ nghiệp còn được dùng trong các ngành nghề khác. Như người cùng làm
chung một nghề dạy học với nhau, thì người ta gọi những vị ấy là bạn đồng
nghiệp. Bất cứ ngành nghề nào mà cùng làm chung với nhau, thì đều gọi là bạn
đồng nghiệp cả. Nghiệp có nhiều loại. Nếu nói một cách tổng quát, thì có hai
loại chính, đó là: nghiệp lành và nghiệp dữ. Chỗ phát ra và tạo thành nghiệp
gồm có: thân, miệng, ý. Trong 3 thứ nầy, quan trọng nhứt là ý. Ý nghiệp, là
những suy tính, so đo phân biệt, Duy Thức Học gọi nó là “liễu biệt cảnh
thức”. Nó là chủ động tạo nghiệp. Khi nó nghĩ điều lành, thì nó thúc đẩy
cái miệng nói ra điều lành và cái thân làm điều lành. Ngược lại, khi nó nghĩ
điều xấu ác, thì nó xúi giục cái miệng nói điều xấu ác hung dữ và thân hành
động tàn bạo độc ác. Chính ba nghiệp nầy là động cơ tạo thành thiên đường hay
địa ngục ở nhơn gian.
Tất
cả mọi khổ vui của con người, từ cá nhân, đến đoàn thể, nói rộng ra là cả nhơn
quần xã hội, đều do nó tạo ra cả. Cho nên, trong nhà Phật rất chú ý đến 3
nghiệp quan trọng nầy. Sự tu hành của người Phật tử, Phật dạy không cần tu đâu
xa, chỉ cần tu chuyển đổi ở nơi 3 nghiệp nầy. Chuyển đổi 3 nghiệp ác thành 3
nghiệp lành. Như trước kia, chúng ta hay nghĩ xấu ác rồi nói năng hành động xấu
ác, như miệng chửi rủa, mắng nhiếc, thân hành động tà hạnh, cướp của, giết
người v.v… nay biết tu hành, chúng ta nên chuyển đổi lại quyết định không gây
tạo những điều xấu ác đó nữa. Đó là chúng ta khéo biết tu và khéo chuyển 3
nghiệp. Như trước kia, vì si mê khờ dại ta đi vào con đường nghiện ngập, nay ta
biết được tai hại của bệnh ghiền nầy rất nguy hiểm, ta quyết định cai bỏ nghiện
ngập, đó là ta đã chuyển nghiệp ghiền thành hết ghiền. Khi đã hết ghiền rồi,
đời ta thật vui vẻ hạnh phúc biết bao và ta có rất nhiều tự do, không còn bị
bệnh ghiền nó khống chế sai sử ta nữa. Một cá nhân biết tu chuyển nghiệp, thì
cá nhân đó được lợi lạc trong hiện tại và mai sau. Gia đình nào biết tu chuyển
nghiệp xấu thành nghiệp tốt, thì gia đình đó được hạnh phúc, hòa thuận, êm ấm.
Và từ đó, lan rộng ra xã hội được trật tự, an bình, hạnh phúc, lợi lạc, đó là
mục đích mà người Phật tử hướng đến.
Tóm
lại, tu là chuyển nghiệp. Nếu nghiệp không chuyển được thì không ai tu làm gì.
Chuyển là chuyển xấu thành tốt, chuyển ác thành thiện, chuyển tà thành chánh,
chuyển dở thành hay v.v… Sở dĩ nói chuyển nghiệp mà không nói sửa nghiệp, bởi
chữ sửa nghĩa của nó rất rộng, không sâu sắc bằng chữ chuyển. Như nhà hư, xe
hư, người ta cũng dùng chữ sửa. Vì thế, nên mới nói là đại tu, tiểu tu.
Do
đó, nên nói chuyển nghiệp mà không nói sửa nghiệp. Bởi chữ chuyển ngầm ý nói
lên bên trong nội tâm hơn là nói cái bên ngoài. Chuyển đổi từ ý niệm xấu để trở
thành ý niệm tốt. Do đó, nhà Phật nói chuyển nghiệp mà không nói sửa nghiệp là
vậy.
Mong
sao Phật tử chúng ta nên ý thức sự khổ đau trong hiện tại và mai sau mà cố gắng
thường xuyên tu tạo 3 nghiệp lành. Chỉ cần gìn giữ và tu tạo ở nơi 3 nghiệp :
thân, miệng, ý cho tốt đẹp, thì bảo đảm đời ta sẽ dứt khổ. Đó là gốc của sự tu
hành. Bởi thế, nên Kinh nói: “Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây
phương”. Vãng Tây phương là không còn khổ đau nữa vậy.
78. Sự khác biệt giữa A la
hán và Bồ tát.
Hỏi: Kính
bạch Thầy, con thường nghe nói A la hán và Bồ tát, nhưng con không hiểu giữa A
la hán và Bồ tát khác nhau như thế nào ? Kính mong Thầy từ bi giải đáp cho
chúng con được rõ.
Đáp: A la hán và Bồ tát có nhiều điểm khác
nhau:
1. Khác
nhau danh xưng: A la Hán, tiếng Phạn gọi là Arahat. Bồ tát, tiếng Phạn gọi
là Bodhisatva, phiên âm là Bồ đề tát đỏa. Nói gọn là Bồ tát.
2.
Khác nhau về ý nghĩa: A la hán chỉ là phiên âm từ tiếng Phạn
Arahat. Chữ Arahat hay A la hán có 3 nghĩa: Sát tặc, Vô sanh và Ứng
cúng.
a.
Sát tặc là giết sạch hết giặc phiền não trong tâm. Bọn giặc phiền não chúng nó
hung tợn dữ dằn lắm. Những thứ phiền não gốc ngọn gì, các Ngài cũng đều giết
sạch hết, nên gọi là sát tặc.
b.
Vô sanh đồng nghĩa với Niết bàn. Nghĩa là các Ngài đã đạt được một trạng thái
tâm lý yên tịnh không còn sanh diệt nữa. Nói rõ, là các Ngài không còn sanh tử
luân hồi.
c.
Ứng cúng là các Ngài thật xứng đáng cho trời người cúng dường. A la Hán có 3
nghĩa như thế.
Còn
nghĩa của Bồ tát thì sao ? Bồ tát có 2 nghĩa : một là hữu tình giác, hai là
giác hữu tình. Thế nào là hữu tình giác? Bồ tát cũng là một con người như
chúng ta, nhưng là một con người giác ngộ và sau khi giác ngộ, các Ngài đem sự
giác ngộ đó giáo hóa cho mọi người cũng đều được giác ngộ như các Ngài, thì gọi
các Ngài là Bồ tát. Như vậy, ai cũng có thể làm Bồ tát được cả. Nếu chúng ta
chịu khó tu học và có tấm lòng vị tha nhân ái làm lợi ích cho mọi người, cũng
đều gọi là Bồ tát. Tóm lại, Bồ tát chỉ là một con người, nhưng là người giác
ngộ, làm lợi mình và lợi người, đó là Bồ tát.
3.
Khác trên hình thức : Bồ tát không nhứt thiết phải là người có hình
thức xuất gia mà người tại gia vẫn làm Bồ tát. Như vậy, Bồ tát có hai hạng:
xuất gia và tại gia. Ngược lại, A la hán, thì phải là người xuất gia, vì các
Ngài thọ đại giới Tỳ kheo, hay Sa môn vậy.
4.
Khác biệt về giới luật : A la hán khi tu nhân thì gọi là Tỳ kheo thọ 250
giới. Khi chứng quả gọi là A la hán. Tức các Ngài nặng về phần giới tướng,
không đặt nặng về giới tánh. Ngược lại, Bồ tát thì nặng về phần giới tánh và có
tam tụ tịnh giới. Đồng thời còn thọ 10 giới trọng và 48 giới khinh, tổng cộng
là 58 giới. Đó là nói Bồ tát xuất gia. Còn Bồ tát tại gia thì gồm có 6 giới
trọng và 28 giới khinh.
Nói
tam tụ tịnh giới có nghĩa là : Tam là ba, tụ là nhóm, tịnh là trong sạch, giới
gọi là ngăn cấm. Tam tụ tịnh giới, tức là 3 nhóm giới của Bồ tát. Một là nhiếp
luật nghi giới (dứt các điều ác). Hai là nhiếp thiện pháp giới (hành các điều
lành). Ba là nhiêu ích hữu tình giới (độ tất cả chúng sanh). Đó là khác
biệt về giới luật.
5.
Khác về tâm niệm: A la hán có tâm lượng hẹp hòi, chỉ lo tự độ mình thôi,
chứ không nghĩ đến độ người khác. Nên các Ngài bị Phật quở là Trầm không trệ
tịch hay Khôi thân diệt trí. Ngược lại, Bồ tát thì Phật khen có tâm lượng rất
rộng lớn. Các Ngài chẳng những lo phần độ mình mà còn luôn nghĩ đến độ chúng
sanh nữa.
6.
Khác nhau về pháp tu: A la hán sau khi nghe Phật giảng pháp Tứ Đế: khổ,
tập, diệt, đạo, rồi, các Ngài ứng dụng tu hành. Nhờ đó mà các Ngài chứng quả A
la hán. Nên còn gọi các Ngài là Thanh văn. Tức nhờ nghe pháp âm của Phật mà tu
hành chứng quả. Ngược lại Bồ tát thì ứng dụng thật hành pháp Lục độ. Tức bố
thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ.
7.
Khác nhau về quả vị: Hàng A la hán chứng được quả vị Niết bàn, mà Niết bàn
của các Ngài gồm có hai loại: Hữu dư y niết bàn và Vô dư y niết bàn. Ngược lại,
Bồ tát thì gọi là Vô trụ xứ niết bàn. (Niết bàn không có chỗ nơi an trụ cố định
).
8.
Khác biệt về độ sanh: A la hán sau khi chứng quả các Ngài an trụ quả vị
Niết bàn mà không ra độ sanh. Ngược lại, Bồ tát ngoài việc tự lợi, các Ngài
luôn lấy việc độ sanh làm lợi ích cho muôn loài không biết mỏi mệt.
9.
Khác nhau ở bản nguyện: Bản nguyện của A la hán lúc tu nhân chỉ lo diệt
trừ hết phiền não rồi an trụ Niết bàn, không ra độ sanh. Dù có đi chăng nữa,
cũng không được rộng lớn. Ngược lại, bản nguyện của các vị Bồ tát rất rộng lớn,
như Bồ tát Địa Tạng nói: “Chừng nào địa ngục trống không, thì Ngài mới thành
Phật”, nhưng biết bao giờ địa ngục mới trống không. Thật đó là một đại nguyện
vậy.
10.
Khác nhau ở tiến trình tu chứng: A la hán từ địa vị phàm phu các Ngài phải
trải qua các ngôi vị, như Tứ gia hạnh: Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế đệ nhất và 3 quả
vị: Tu đà hoàn, Tư đà hàm và A Na hàm rồi mới đến quả vị A la hán. Ngược lại,
Bồ tát thì phải tuần tự trải qua 52 ngôi vị. Từ địa vị Thập tín, Thập trụ, Thập
hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa rồi bước lên Đẳng giác và cuối cùng là Diệu giác
tức thành Phật.
Tóm
lại, Sự khác biệt giữa A la hán và Bồ tát đại khái gồm có 10 điểm chính yếu sau
đây:
1.Khác
về danh xưng.
2.Khác
về ý nghĩa.
3.Khác
về hình thức.
4.Khác
về giới luật.
5.Khác
về tâm niệm.
6.
Khác về pháp tu.
7.
Khác về quả vị.
8.
Khác về độ sanh.
9.
Khác về bản nguyện.
10.
Khác về tiến trình tu chứng.
79. Vấn đề linh hồn và
nghiệp báo.
Hỏi: Kính
bạch Thầy, con nghe người ta nói, con người sau khi chết có một cái hồn tồn tại
và rồi đi đầu thai, chớ không có nghiệp báo gì hết. Họ nói như thế có đúng
không? Kính xin Thầy giải đáp cho chúng con được rõ.
Đáp: Vấn đề sau khi chết, linh hồn tồn tại
hay không tồn tại và linh hồn người chết sẽ đi về đâu? Đây là một vấn đề rất
phức tạp, thật khó chứng minh. Vấn đề nầy, có nhiều luận giải quan niệm khác
nhau, tùy theo quan niệm giải thích của mỗi Tôn giáo và tùy theo niềm tin của
mỗi người. Tuy nhiên, người Phật tử khi đặt định niềm tin theo một điều gì,
chúng ta cần nên phối kiểm tìm hiểu vấn đề bằng lý trí và qua sự sát nghiệm
luận cứ kỹ càng, chớ không nên nghe đâu tin đó. Nhứt là đối với những người nói
bừa không có một luận cứ vững chắc và không có một niềm tin nào cả. Tốt hơn hết
là chúng ta nên cẩn trọng trong khi nghe người khác nói.
Qua
câu hỏi trên, nếu phải luận giải cặn kẻ rõ ràng, thì thật là dài dòng. Ở đây,
chúng tôi chỉ dựa theo quan điểm của Phật giáo, mà xin được trình bày góp ý qua
một vài nhận xét thô thiển của chúng tôi, còn vấn đề tin hay không là tùy ý ở
nơi mỗi người.
Bảo
rằng, con người sau khi chết còn có một cái hồn tồn tại và rồi đi đầu thai, chớ
không có nghiệp báo gì hết, theo Phật giáo, thì quan niệm lý giải đó không thể
chấp nhận được. Phật giáo không chấp nhận có một linh hồn bất tử. Vì đó là lối
chấp của ngoại đạo. Ngày xưa, thời Phật, có 2 phái ngoại đạo nêu ra 2 chủ
thuyết: một là « Thường kiến » hai là « Đoạn
kiến ». Phái Thường kiến cho rằng, linh hồn con người mãi mãi là con
người, dù có tạo tội ác đến đâu, chết rồi cũng tái sinh trở lại làm người.
Ngược lại, phái Đoạn kiến thì cho rằng, con người sau khi chết là không có linh
hồn tồn tại đời sau, nghĩa là mất hẳn. Họ chấp như thế, nên Phật gọi họ là phái
Đoạn diệt hay Đoạn kiến. Vì quan niệm và tin như thế, nên họ tha hồ làm ác, vì
không có tội lỗi quả báo ở đời sau. Đây là 2 phái gây tác hại lớn làm đại
loạn trật tự an bình cho xã hội. Hai phái nầy, theo chủ trương của họ là, không
có nhân quả báo ứng. Nhưng chúng ta đừng quên rằng, nhân quả là một chân lý phổ
biến, tiềm tàng trong mọi sự vật và chi phối tất cả. Không một loài nào thoát
khỏi nhân quả. Do Phật sau khi giác ngộ chân lý, Ngài nói ra cho chúng ta biết
như thế.
Vì
căn cứ theo luật nhân quả mà nhà Phật nêu ra thuyết nghiệp báo. Hễ chúng ta gây
tạo nghiệp nhân gì, sớm hay muộn gì cũng phải có kết quả. Phật giáo không chấp
nhận có một linh hồn bất tử như thế. Vì như thế là rơi vào lối chấp thần ngã
của ngoại đạo như đã nói ở trên.
Theo
Phật giáo, tất cả đều do nhân duyên sanh. Nghiệp báo cũng từ nhân duyên, nhân
quả mà hình thành. Theo Duyên khởi luận của Phật giáo, trong đó, có nêu ra
thuyết A lại da duyên khởi. Thuyết nầy thuộc Đại thừa thỉ giáo. A lại da là
thức thứ tám sau thức Mạt na. Thức nầy còn gọi là Tàng thức. Là cái thức trùm
chứa tất cả chủng tử thiện ác. Nói Tàng thức, vì thức nầy có 3 công năng: « năng
tàng, sở tàng và ngã ái chấp tàng ».
Năng
tàng là thức nầy có khả năng hay dung chứa tất cả pháp. Sở tàng là khả năng để
đựng chứa chủng tử các pháp. Do 2 công năng nầy, nên khi chúng ta gây tạo
nghiệp thiện ác, thì tất cả những hạt giống thiện ác đó đều được huân chứa vào
cái kho Tạng thức nầy. Đến khi đủ nhân duyên, thì những chủng tử ấy phát khởi
hiện hành. Những chủng tử (hạt giống) được cất giữ vào trong kho nầy gọi đó là
nghiệp thức. Chính cái nghiệp thức nầy là chủ động theo duyên mà tiếp nối thọ
sanh đời sau. Nhà Phật gọi đây là tiếp nối vòng sanh tử luân hồi trong Lục đạo
( Trời, người, A tu la, địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh ).
Như
vậy, theo thuyết nghiệp cảm duyên khởi và A lại da duyên khởi của Phật giáo,
thì mỗi ý nghĩ, lời nói, hành động của 3 nghiệp: thân, miệng, ý tạo tác của
chúng ta, đều được cất giữ trong cái kho Tạng thức nầy hết, không sót mất một
hạt giống thiện ác nào.
Dụ
như một thửa đất chúng ta gieo nhiều loại hạt giống khác nhau, khi mới gieo
xuống ta không thấy chúng nẩy mầm lên, vì không thấy nên ta tưởng là chúng
bị mất hay không lên, nhưng khi gặp mưa ướt đất, đủ duyên, thì chúng lại nẩy
mầm lên. Khi nẩy mầm lên, thì giống nào nẩy mầm theo giống nấy. Như hạt cam,
hạt ớt, hạt ổi v.v…mỗi thứ lên khác nhau, chúng không bao giờ lộn lạo. Khi chưa
đủ duyên, chúng nằm yên đó, chớ không bao giờ mất.
Cũng
thế, nếu hiện đời, chúng ta huân tập nhiều hạt giống lành như niệm Phật, làm
lành, làm phước v.v… vào Tàng thức, thì chính những hạt giống đó nó có công
năng dẫn dắt chúng ta đến cảnh giới lành sanh ra, để tiếp tục hưởng những quả
báo tốt đẹp mà do chúng ta đã gây tạo trong hiện đời nầy. Nhà Phật gọi đó là
nghiệp dẫn. Ngược lại, nếu chúng ta tạo nghiệp ác thì cũng như thế. Nên nói,
tùy nghiệp thọ sanh là vậy. Nên biết, nghiệp là hành động lặp đi lặp lại nhiều
lần thành thói quen. Chính thói quen nầy khi thuần thục, thì nó có một sức mạnh
phi thường để tùy duyên chiêu cảm thọ sanh.
Như
người ghiền cờ bạc, họ đi kiếm nơi nào có sòng bài, thì họ nhào vô chơi. Người
ghiền nhạc, thì đi tìm phòng nhạc để ca hát v.v… Khi tập thói quen, dĩ nhiên có
thói quen tốt và có thói quen xấu. Thói quen tốt hay thói quen xấu, một khi đã
tiêm nhiểm thành ghiền nặng rồi, thì chính thói quen đó nó dẫn dắt chúng ta,
tùy theo sở thích mà chiêu cảm, Thói quen hay sở thích nào nặng (cực trọng
nghiệp), thì nó có một năng lực rất mạnh để tìm đến môi trường thích hợp mà thọ
sanh, nên gọi là nghiệp cảm. Về điểm nầy, trong Quy Sơn Cảnh Sách, Tổ Quy Sơn
cũng có nói: “Như nhơn phụ trái, cường giả tiên khiên, tâm tự đa đoan,
trọng xứ thiên trụy”. Nghĩa là: Như kẻ mắc nợ, ai mạnh kéo trước, trong tâm
nhiều mối, nặng đâu sa đó.
Thường
ta nghe trong kinh nói, người khi chết, thần thức xuất ra. Nói thần thức, chính
là cái nghiệp thức A lại da, nói rõ ra là những chủng tử thiện hoặc ác đã kết
thành nghiệp. Và chính nghiệp thức nầy là đầu mối của việc thọ sanh đời sau đó
vậy.
Người
đời vì không biết, nên cho là có một cái linh hồn đi đầu thai. Chữ đầu thai có
nghĩa là có một cái hồn nhẩy vào cái bào thai để thọ thai. Hiểu như thế, thì
không phù hợp với hai thuyết: Nghiệp cảm và A lại da duyên khởi của Phật giáo
như đã nói ở trên. Không phải có một cái linh hồn đi đầu nầy đầu kia để kiếm
đường chui vào một chỗ nào đó. Theo thuyết A lại da duyên khởi, thì không chấp
nhận quan niệm đó. Vì trong thức nầy có đủ chủng tử hữu lậu và chủng tử vô lậu.
Chủng tử hữu lậu là những hạt giống tùy duyên mà phát sanh ra thiên sai vạn
biệt, tức hiện tượng giới; còn chủng tử vô lậu, có thể đưa đến chỗ giải thoát.
Tóm
lại, người nào đó nói rằng sau khi con người chết, có một cái hồn tồn tại đi
đầu thai và không có nghiệp báo gì hết, thì điều nầy như chúng tôi đã tạm nêu
ra đôi nét giải thích trên, thì quan niệm đó không đúng.
Trong
quyển Quy Sơn Cảnh Sách giảng giải của Thiền Sư Thích Thanh Từ ở trang 77 có
đoạn Hòa Thượng nói: “Người thế gian cho rằng mọi người đều riêng có một
linh hồn là cái tính linh khôn ngoan sáng suốt, mà đã khôn ngoan thì sao lại
chịu vào nơi khổ? Ai cũng nghĩ rằng sau khi chết linh hồn mình sẽ sinh ra làm
người nữa và chấp chặt cho linh hồn đó là mình.
Đạo
Phật thì gọi đó là tâm thức. Cái tâm thức nầy tùy theo chỗ huân tập thiện ác mà
đến, chứ không cố định. Vì không cố định nên nó không phải là cái khôn ngoan
biết lựa chọn, mà chỉ tùy nghiệp mà thôi. Tâm thức khác linh hồn ở chỗ đó. Nếu
nói chúng ta có linh hồn thì sẽ tưởng như đó là một tinh thần duy nhất, nếu là
duy nhất cố định thì thiện ác, mãi mãi không thay đổi. Nhưng tâm thức chúng ta
luôn luôn biến chuyển, gần người lành thì hấp thụ điều lành, gần kẻ ác thì hấp
thụ điều ác. Như vậy, tâm thức là một dòng thiện ác sanh diệt, chính dòng thiện
ác đó sẽ đưa chúng ta đến chỗ lành hay dữ, nghiệp nào nặng sẽ lôi mình trước,
đó là ý Tổ Quy Sơn nói “trọng xứ thiên trụy”.
Như
vậy, Phật giáo không chấp nhận có một cái linh hồn trước sau như nhứt và càng
không chấp nhận cái hồn đó đi đầu thai, như người đời lầm tưởng. Còn bảo rằng
không có nghiệp báo gì hết, quan niệm nầy, theo Phật giáo cho đó là thuộc
hạng người Nhứt xiển đề, tức bất tín cụ. Đây là hạng người họ không có lòng tin
nhân quả. Chẳng những không tin mà họ còn bài bác nhân quả nữa. Hạng người như
thế, thật chúng ta khó trao đổi luận giải với họ được.
Như
đã nói, thuyết nghiệp báo là đặt định trên chiều thời gian nhân quả mà nói.
Người nói như thế, thiết nghĩ, họ chưa tìm hiểu về thuyết nghiệp báo. Và chưa
hiểu nghiệp là gì. Nếu vì chưa hiểu, thì tốt hơn hết là nên tìm hiểu, chớ không
nên nói càn bướng mà chuốc lấy khổ lụy vào thân. Thật là một tai hại vô cùng và
thật đáng thương xót lắm thay!
80. Số mạng và nghiệp báo
đồng hay khác?
Hỏi: Kính
bạch Thầy, con chưa hiểu rõ giữa số mạng và nghiệp báo giống nhau hay khác
nhau? Kính xin Thầy hoan hỷ giải đáp cho con rõ. Con cám ơn Thầy.
Đáp: Theo Nho giáo, con người sinh ra đời,
mỗi người đều có số mạng hay thiên mạng định sẵn. Chính vì thế mà người ta
thường nói đùa là giày dép còn có số, Tuy đây là câu nói đùa, nhưng ngầm ý là
muốn nói mỗi người đều có số đã được một bàn tay nào đó đã đặt định an bày sẵn.
Như những việc thành bại, thạnh suy, nhục vinh, vui khổ v.v… ở đời mỗi mỗi đều
do trời sắp đặt cho. Bởi thế nên mới có câu nói: “nhứt ẩm nhứt trác giai
do tiền định”. Nghĩa là một miếng ăn một miếng uống đều đã được an bày sẵn
trước.
Theo
nhà Phật, thì cho những điều xảy ra mà con người phải nhận lãnh, gọi đó là
nghiệp báo. Nghiệp báo là cái nhân do chúng ta tạo từ trong quá khứ, nay sanh
ra đời phải chịu thọ lãnh, như tật nguyền hay đau ốm v.v… Nghiệp là nhân đã
tạo, báo là quả phải trả. Như vậy, nếu đứng về mặt sẵn có, thì cả hai bên đều
thừa nhận như nhau.
Sự
sai biệt của mỗi người ngay từ lúc khởi đầu trong cuộc sống là một chứng minh
cho điều đó. Sự sai khác nầy do ai đặt định? Nho nói: “Số trước đã
định”. Phật nói: “Nghiệp trước gây nên”. Nghĩa là cả hai bên đều thừa nhận
có cái sẵn từ trước. Chẳng qua chỉ dùng từ ngữ diễn tả khác nhau mà thôi. Một
bên nói số, một bên nói nghiệp. Như vậy, cả hai bên giữa nhà Nho và nhà Phật
chấp nhận giống nhau. Tuy nhiên, vấn đề nầy, nếu xét sâu hơn, chúng ta thấy có
rất nhiều điểm không giống nhau. Không giống nhau về nguyên nhân, về xuất
phát, về cảm thọ, về hoán cải và về định chế v.v…
Về
nguyên nhân và xuất phát. Người tin vào số mạng hay thiên mạng, thì suốt đời ta
không cải đổi được. Như số đã định nghèo, thì suốt đời phải chịu nghèo, không
thể nào cất đầu lên nổi. Ngược lại người giàu có cũng thế. Như vậy, là ta phải
bó tay cam chịu trong cái khuôn định sẵn, suốt đời không thoát ra được. Đã thế,
thì còn gì là giá trị ý nghĩa của sự sống ? Số định cho ta vui, thì ta
vui; số định cho ta khổ, thì ta khổ. Nghĩa là mọi việc ta đều thả trôi buông
xuôi theo số phận, tới đâu hay đó.
Như
thế, quả ta là kẻ bất lực, vô trách nhiệm gởi gắm thân phận mình cho một cái
viễn vông mơ hồ, mà ta không hề biết. Với tinh thần khoa học thực tế, thì không
ai có thể chấp nhận được vấn đề nầy. Thế thì, nếu xét về nguyên nhân, xuất
phát, thì ta không biết do ai gây ra, cứ đổ trút cho số phận hay trời đã định
là xong chuyện.
Phật
giáo, với thuyết nghiệp báo, không chấp nhận như thế. Theo Phật giáo, bất
cứ việc gì xảy ra trên cõi đời nầy, dù nhỏ hay lớn, dù hữu hình hay vô hình,
tất cả đều phải có nguyên nhân cả. Không có một việc gì gọi là tự nhiên hay khi
không mà có. Theo thuyết nghiệp báo, thì đời nầy ta chịu khổ đau hay vui sướng,
đó là kết quả của đời trước hay nhiều đời trước mà chính do ta đã gây ra. Không
một bàn tay nào tạo thế cho ta. Mình làm mình chịu trách nhiệm, không đổ thừa,
đổ tháo cho ai cả. “Đã mang lấy nghiệp vào thân, cũng đừng trách lẫn trời gần
trời xa” (Truyện Kiều). Như đời nay sanh ra ta bị nghèo khổ, sống
trong cảnh cơ cực lầm than, bởi do đời trước ta không tu hạnh bố thí. Thấy ai
nghèo khổ đói khát, ta ngoảnh mặt làm ngơ, không một chút từ tâm thương xót.
Nêu ra một việc nhỏ như thế, để từ đó chúng ta có thể xét đến trăm ngàn việc
khác.
Về
cảm thọ và hoán cải hay định chế. Người tin vào số mạng cho rằng, làm sao
đổi được số? Nhất là số trời đã định còn ai dám can thiệp vào. Trời đã định,
không dám làm trái lòng trời. Người Phật tử tin vào thuyết nghiệp báo thì không
như thế. Vì nghiệp có thể chuyển đổi được. Cho nên nói, tu là chuyển nghiệp.
Như
người xưa kia có tánh nóng nảy hay sân si, nay biết tu chuyển đổi bỏ bớt. Hay
như người nghiện ngập cờ bạc, hút xách, rượu chè say sưa v.v… vì trước kia mê
lầm nên tạo lắm điều khổ mình khổ người, nay tỉnh giác hồi đầu hối cải sửa sai,
quyết định cai bỏ nghiện ngập và từ đó, họ có một đời sống thay đổi an vui hạnh
phúc cho bản thân và gia đình.
Thế
thì, nghiệp lực có thể chuyển được từ xấu trở thành tốt, chớ không phải cố định
cứng ngắc, theo kiểu trời kêu sao dạ vậy. Nếu tin vào một định chế bất di bất
dịch, thì xã hội nầy làm sao cải tiến và mọi người phó thác cho định mệnh,
không thể nào vươn lên cầu tiến. Như thế, thì thử hỏi làm sao cá nhân, gia đình
và xã hội tiến bộ cho được? Người tin vào số mạng, theo kiểu định kiến, thì chỉ
còn có nước ngồi đó khoanh tay chờ chết, chớ làm sao cải đổi cho được. Như thế
thì trách nhiệm con người ở đâu? Và như thế, thì xã hội sẽ trở thành lạc hậu
mất rồi!
Tóm
lại, giữa số mạng hay thiên mạng và nghiệp báo thật khác nhau rất xa. Chỉ giống
nhau một điểm là cái sẵn có như trên đã nói qua. Ngoài ra, tất cả đều dị biệt.
Để so sánh rõ hơn về vấn đề nầy, sau đây, chúng tôi xin trích dẫn một đoạn so
sánh phê bình giữa thuyết số mạng và nghiệp báo trong quyển sách Hé Mở Cửa Giải
Thoát do Thiền Sư Thích Thanh Từ biên soạn. Ở đoạn kết luận Phê bình, trang 64,
Hòa Thượng có nêu ra so sánh phê bình như sau: “Nói số mạng là mơ hồ không
xác thực. Nghiệp báo là thực tế rõ ràng. Thuyết số mạng đưa con người vô trách
nhiệm về hành động của mình. Nghiệp báo dạy người nhận lấy trách nhiệm do mọi
hậu quả tốt xấu đến với mình. Số mạng khiến con người thụ động, tiêu cực phó
thác liều lĩnh. Nghiệp báo xây dựng con người chủ động, tích cực, nỗ lực và
sáng tạo. Số mạng tập con người yếu đuối, an phận đầu hàng. Nghiệp báo chỉ cho
ta phải cố gắng can đảm và thăng tiến. Số mạng thích hợp với thời quân chủ
phong kiến. Nghiệp báo thích hợp với thời dân chủ tự do. Ứng dụng thuyết nghiệp
báo trong cuộc sống, chúng ta thấy mình đồ sộ hiên ngang đầy đủ quyền năng
trong cuộc kiến tạo con người và vũ trụ”.
81. Vấn đề hộ niệm cho
người sắp lâm chung.
Hỏi: Con
nghe nói hộ niệm vãng sanh, nhứt là cho người hấp hối sắp chết, nhưng con không
hiểu phải hộ niệm như thế nào mới đúng cách? và phải làm sao cho người chết
được lợi lạc vãng sanh? Kính xin Thầy hoan hỷ chỉ dạy cho chúng con được hiểu
rõ.
Đáp: Đây là một vấn đề rất hệ trọng đối với
những người tu theo pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu vãng sanh. Những người mà
tịnh nghiệp của họ đã thuần thục, hiện đời họ đã niệm Phật chứng được niệm Phật
Tam Muội, tức được nhất tâm bất loạn, Thánh cảnh hiện tiền rồi, thì việc hộ
niệm không cần thiết nữa. Vì họ đã vãng sanh ngay trong hiện đời rồi. Thật ra,
trong thời mạt pháp nầy, đối với hạng người nầy thật không phải dễ có. Đó phải
là bậc thượng căn thượng trí mới có được.
Ngoài
ra, nếu chưa được như thế, thì giờ phút sắp lâm chung, đối với việc hộ niệm hay
trợ niệm là điều tối thiết yếu, thiết nghĩ, chúng ta cũng cần nên tìm hiểu thật
kỹ về vấn đề nầy.
Trong
khuôn khổ giới hạn của trang giấy phạm vi vấn đáp, chúng tôi không thể nào
trình bày cho tận tường chi tiết hết được. Ở đây, chúng tôi chỉ xin được trình
bày một cách khái yếu vấn đề mà thôi.
Đời
người, khi sắp mất, hay cuối nẻo đường trần có 3 lối rẽ để đi. Một là tiến
thẳng lên Thánh đạo, vãng sanh Cực Lạc tức thời, lối đi nầy chỉ dành cho những
người cực thiện. Hai là lối đi vào thiện đạo và ba là lối đi vào ác đạo. Lối đi
vào thiện đạo dù có được tốt đẹp ít khổ, nhưng vẫn còn quanh quẩn luân chuyển
vào nhơn đạo hoặc thiên đạo. Thứ ba là lối đi vào ác đạo, đây là con đường trầm
luân thọ khổ muôn kiếp, mà không một ai muốn bước chân vào. Tuy không muốn,
nhưng nghiệp ác hiện đời đã gây tạo, thì phải tránh như thế nào đây? Cho nên
đối với hai hạng người sau nầy, thì việc hộ niệm trong giờ phút sắp lâm chung
thật vô cùng quan yếu. Nhưng phải hộ niệm như thế nào để cho người sắp lâm
chung mới được lợi lạc vãng sanh? Đó là điều mà người đóng vai trò hộ niệm giúp
cho những người sắp chết, thiết nghĩ, cũng cần nên biết qua.
Hai
chữ hộ niệm có nghĩa là giúp cho người sắp chết có được chánh niệm. Chữ niệm
nầy, có nghĩa là chánh niệm. Nói cách khác là mình giúp (hộ) cho họ nhớ (niệm)
Phật, tức đồng với tâm niệm Phật, vì tâm niệm Phật là chánh nhân thành Phật. Vì
muốn nhắc nhở người bệnh luôn nhớ đến Phật, mà không nhớ đến duyên trần, vì nhớ
đến duyên trần là mất chánh niệm hay tịnh niệm, thì rất trở ngại cho việc vãng
sanh. Do đó, mà người hộ niệm là chiếc phao nổi để người bệnh sắp chết nương
vào.Vì sao? Vì lúc nầy, người bệnh tứ chi đau nhức rã rời, nếu là người bị mang
chứng bệnh nan y, như ung thư chẳng hạn, thì sự hành hạ xác thân, bởi cơn đau
nhức hoành hành thật là khó tả. Do đó, tâm thần của họ dễ bị tán loạn, dù cho
bình thường, họ có công phu niệm Phật, nhưng vì chưa đạt đến chỗ thuần thục,
nên dễ bị tán tâm. Bởi thế, nên họ rất cần người khác hộ niệm. Lúc nầy, người
bệnh hoàn toàn mất hết tự chủ, tinh thần rối loạn, nghĩ nhớ lung tung, thật khó
tập trung vào câu hiệu Phật. Nên người hộ niệm phải giúp cho họ tập trung tinh
thần về với chánh niệm bằng cách chí thành tha thiết niệm Phật.
Điều
ta nên nhớ, người bệnh vừa dứt hơi thở, nhưng chưa thật chết hẳn, thần thức
chưa hoàn toàn rời khỏi thể xác, ít nhứt là 2 tiếng đồng hồ, nên giờ phút nầy,
vẫn còn rất cần thiết cho việc hộ niệm, niệm Phật.
Người
bệnh được vãng sanh hay không, ngoài phần chánh nhân tu niệm bình nhật của họ
ra, phần lớn là nhờ vào giờ phút hộ niệm nầy. Do đó, những người thân quyến hay
con cháu trong gia đình, là những nhân tố chánh giúp cho người thân của mình
không bị đọa lạc vào cảnh khổ. Nếu giờ phút quan trọng nầy, mà thân nhân hay
bạn bè, không biết cách hộ niệm, chẳng những không niệm Phật giúp cho người
thân mình có thêm chánh niệm, trái lại, còn gây thêm cho họ nhiều rối loạn, lo
âu, buồn bực v.v… thì thật là tai hại nguy hiểm vô cùng. Cho nên, nếu mọi người
thật sự thương thân nhân của mình, thì chỉ nên một lòng chắp tay tha thiết mà
thành tâm niệm Phật.
Ngoài
ra, không nên có thái độ hay lời nói gây xúc phạm đến người bệnh sắp lâm chung.
Vì lúc nầy hơn bao giờ hết, người bệnh dễ hay sanh bực tức giận hờn.
Cách
hay nhất trong giờ phút nầy, nên cần có ít nhất là một người biết cách trợ
niệm, để giúp đỡ chỉ bảo mọi việc cho thân nhân và bạn bè. Người nầy rất
là cần thiết. Vì thân nhân của người sắp chết, ai nấy đều tỏ ra rất bối rối lo
buồn, nên không còn đủ bình tĩnh để lo trợ niệm giúp đỡ cho bệnh nhơn.
Thế
nên, theo kinh nghiệm của chúng tôi, thì phải có người thông hiểu mọi việc hộ
niệm túc trực bên cạnh bệnh nhơn, vừa nhắc nhở bệnh nhơn niệm Phật, vừa khuyên
nhủ thức nhắc bằng những lời pháp ngữ cảnh tỉnh, để bệnh nhơn tăng thêm đạo lực
tín tâm và dễ được định tâm niệm Phật hơn. Bởi vậy, những người hộ niệm nầy,
phải được thay phiên nhau niệm Phật liên tục, tùy hoàn cảnh mà khéo léo dùng
chước phương tiện để giúp cho bệnh nhơn và trong thân quyến. Điều nầy,
thật rất là cần thiết quan trọng. Người hộ niệm phải có tấm lòng bi cảm và hòa
ái nhẫn nại đối với bệnh nhơn. Đó là thể hiện lòng từ bi vị tha nhân ái cao cả
của Bồ tát Quán Thế Âm.
Tóm
lại, muốn cho việc hộ niệm vãng sanh đạt được kết quả cao, theo thiển nghĩ của
chúng tôi, cần phải hội đủ những điều kiện cần thiết để thực hiện qua 3 yếu tố
quan trọng như sau :
I.
Người hộ niệm
II.
Bệnh nhơn.
III.
Thân bằng quyến thuộc.
I.
Người hộ niệm.
Đối
với người hộ niệm đóng một vai trò chủ chốt rất quan trọng trong việc hộ niệm,
nên cần phải thông hiểu về việc hộ niệm nầy. Sau đây là những điều mà người hộ
niệm cần biết:
1.
Nên khuyên bảo thân quyến và sắp xếp mọi việc cần thiết trong lúc hộ niệm cho
người bệnh hấp hối sắp lâm chung. Tối kỵ nhứt là gây xáo trộn khóc than trong
giờ phút nầy. Những ai không dằn lòng được xúc động, thì tốt hơn hết là nên mời
họ bước ra ngoài, đừng để bệnh nhơn nghe tiếng khóc than.
2.
Thái độ và cung cách, nhứt là lời nói đối với người bệnh phải hiền hòa dịu
ngọt, nên khuyến nhắc người bệnh nhớ niệm Phật và cần gợi lại những công hạnh
mà người bệnh đã thực hiện.
3.
Ngoài việc niệm Phật và khuyến nhắc bệnh nhơn ra, tuyệt đối không được nói lời
gì khác, mà gây cho bệnh nhơn không vui dễ mất tín tâm và tán loạn.
4.
Tùy trường hợp, hoàn cảnh nơi bệnh nhơn nằm, mà linh động niệm Phật to tiếng
hoặc nhỏ tiếng, tốt hơn hết là chỉ niệm Phật cho bệnh nhơn vừa đủ nghe, không
nhỏ quá và cũng không nên lớn tiếng quá. Theo kinh nghiệm cho biết, lúc nầy,
càng niệm lớn tiếng, bệnh nhơn càng không nghe rõ. Tốt hơn hết, là nên niệm vừa
đủ cho bệnh nhơn nghe thôi. Và khi niệm, phải niệm đủ 6 chữ : Nam Mô A Di Đà
Phật. Phải niệm chậm rãi và từng chữ cho thật rõ ràng.
5.
Phải thay phiên nhau niệm Phật liên tục không cho gián đoạn, cần khuyến khích
thân nhân cùng thay phiên nhau niệm Phật. Trong phòng bệnh, ngoài tiếng niệm
Phật ra, tuyệt đối phải giữ yên lặng, không được nói chuyện ồn ào làm loạn tâm
bệnh nhơn vô ích.
6.
Khi người bệnh đã thật sự tắt thở, cứ để như vậy mà chí thành niệm Phật liên
tục, không nên sửa làm động đậy bệnh nhơn, ít nhứt là 2 tiếng đồng hồ. Điều nầy
rất quan trọng, chúng ta cần phải lưu ý. Vì khi bệnh nhơn mới tắt thở, thần
thức chưa rời khỏi xác thân. Nên rất cẩn trọng quan tâm về vấn đề nầy. Còn
nhiều chi tiết khác, nhưng ở đây, chúng tôi chỉ xin nêu ra 6 điều quan trọng mà
người hộ niệm cần ghi nhớ trong khi hộ niệm mà thôi.
II.
Bệnh nhân.
Người
bệnh là yếu nhân chính trong việc quyết định cuộc đời mình. Đây là giờ phút
quan trọng để mình quyết định cho sự chọn lựa. Nếu là một liên hữu đã phát
nguyện niệm Phật cầu vãng sanh, thì trong lúc bệnh nặng, nên buông bỏ tất cả
duyên trần, không bận tâm với bất cứ vấn đề gì, nhứt là đối với việc gia đình
nhà cửa con cháu v.v… Không ai thương mình bằng chính mình thương mình. Trước
giờ phút phân ly đôi ngã, dù đó là người thân yêu nhứt đời mình, họ cũng không
thể nào thay thế được gì cho mình.
Trong
nỗi niềm cô đơn tuyệt vọng, cái chết gần kề với mình, thì thử hỏi mình còn tham
đắm luyến tiếc thứ gì nữa chớ! Nghĩ thế, mình nên dốc hết tâm lực còn chút hơi
tàn mà quyết lòng niệm Phật cầu sanh Tây phương, theo bản nguyện sanh tiền của
mình đã phát nguyện. Nên nhớ đến lời khuyên dạy chí tình chí thiết của Hòa
Thượng Thiện Đạo, vị Tổ thứ hai của Liên Tông. Ngài thường khuyên dạy cho những
người tu Tịnh độ, niệm Phật như sau: “Người niệm Phật khi sắp mãn phần,
muốn được sanh về Tịnh độ, thì điểm cần yếu là đừng sợ chết. Phải thường nghĩ
thân nầy nhơ nhớp, biết bao điều khổ lụy trói vây! Nếu bỏ được thân huyễn hôi
nhơ, sanh về Cực Lạc thọ thân kim cương thanh tịnh, sẽ thoát khỏi luân hồi khổ
thú, hưởng vô sự an vui. Ví như bỏ chiếc áo cũ rách đổi lấy đồ trân phục, còn
điều chi đáng thích ý bằng! Nghĩ như thế, buông hẳn thân tâm không còn lo buồn
tham luyến. Lúc vừa có bệnh, liền tưởng đến sự vô thường, một lòng niệm Phật
chờ chết. Nên dặn thân thuộc chớ lộ vẻ bi thương, cùng bàn việc hay dở trong
nhà. Nếu có ai đến thăm, chỉ khuyên nên vì mình niệm Phật, đừng hỏi thăm chi
khác…”.
Đó
là chúng tôi trích dẫn một đoạn khuyến nhắc của Ngài, để chúng ta nhớ đến mà
hết lòng niệm Phật. Nên biết, Tổ Thiện Đạo là hóa thân của đức Phật A Di Đà.
Lời Ngài dạy thật là thiết tha bi mẫn. Đây là lời khuyên chung của Tổ, không
nhứt thiết là chỉ có liên hữu không thôi. Nếu ai nghe theo lời khuyên dạy nầy
của Ngài, mà thật tâm tha thiết hành trì, dốc lòng niệm Phật, thì cũng được lợi
lạc vãng sanh về Cực Lạc.
Xin
tất cả hãy nghĩ đến tương lai sướng hay khổ của đời mình mà tự mình phải cố
gắng buông bỏ tất cả, chỉ có một con đường trước mắt là niệm Phật cầu vãng sanh
về Cực Lạc mà thôi. Hãy nhớ đến bản nguyện của đức Từ Phụ A Di Đà lúc nào Ngài
cũng sẵn sàng chờ đón chúng ta. Đó là trọng tâm chính yếu mà người bệnh
sắp lâm chung cần ghi nhớ thực hành để được lợi lạc cho chính mình.
III.
Thân bằng quyến thuộc.
Việc
hộ niệm người bệnh được vãng sanh hay không, những người trong thân quyến đóng
vai trò không kém phần quan trọng. Nếu thật sự thương thân nhân của mình trong
giờ phút quyết định cuộc đời vui hay khổ nầy, y cứ theo lời chư Phật Tổ chỉ
dạy, chúng tôi xin thành thật có đôi lời khuyến nhắc chung qua một vài điều
thiết yếu sau đây:
1.
Phải tỏ thái độ có lòng thương kính từ ái và tuyệt đối không được dùng lời nói
mất hòa khí trong gia đình. Tuyệt đối, không nên đem việc nhà ra bàn luận. Nếu
để cho người bệnh biết được những sự việc không hay xảy ra, thì sẽ gây tác hại
lớn cho việc vãng sanh, vì người bệnh sẽ phiền muộn, tham, sân, si nổi lên dễ
sa vào ác đạo như tên bắn.
2.
Phải làm và nghe theo sự thức nhắc, sắp xếp của người có trách nhiệm hộ niệm
cho thân nhân của mình. Những người nầy, họ vì thân nhân của mình mà hết lòng
hộ niệm, nên chúng ta cần tôn trọng những lời chỉ bảo của họ.
3.
Không nên kêu khóc lớn tiếng và kể lễ bất cứ điều gì, chỉ một bề niệm Phật.
Phải gắng dằn lòng xúc động trong giờ phút nầy. Nên nhớ đây là yếu tố quan
trọng mà người mới lâm chung có được vãng sanh hay không, đều tùy thuộc vào
thân quyến.
4.
Tất cả nên vì người mất mà phải thành tâm niệm Phật, tụng kinh cầu siêu suốt
trong thời gian từ khi mất cho đến trải qua 49 ngày.
5.
Trong thời gian cư tang, nên tu tạo nhiều phước lành để hồi hướng cho người quá
cố sớm được siêu sanh thoát hóa.
Riêng
đối với thân hữu bạn bè, chúng ta cũng nên quan tâm lưu ý. Tục ngữ ta có
câu: “một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”. Hay “nhứt gia hữu sự bá gia ưu”. Nghĩa
là: một nhà có việc trăm nhà đều quan tâm lo lắng giúp đỡ. Vì thế, nên khi hay
tin người bạn thân của mình bệnh nặng, thì bạn bè thường hay đến thăm. Đến thăm
là vì nghĩ tình thương bạn. Do đó, nếu thật thương người bạn mình trong giờ phút
quan trọng nầy, thì chỉ nên hiệp lực cùng với những người khác mà đồng tâm niệm
Phật. Nếu không quen niệm, thì chúng ta cũng không nên nói những chuyện gì
khác. Vì như thế, chỉ làm cho người bạn của mình đang nằm chờ chết càng thêm
rối loạn tinh thần mà thôi, chớ không có ích lợi gì.
Thế
nên, nếu thật sự thương bạn mình, thì chúng ta chỉ nên giữ yên lặng là tốt lắm
rồi. Được thế, thì chẳng những người bệnh được lợi ích mà những thân quyến của
người bệnh cũng mang ơn chúng ta rất nhiều. Xin tất cả hãy quan tâm cho vấn đề
nầy. Đừng vì thói quen tình cảm của mình mà gây tác hại cho người bệnh, đang
cần đến sự trợ niệm thiết thực của chúng ta. Nếu không như thế, thì rất tội
nghiệp cho người bạn của chúng ta lắm! Họ đang khao khát cần sự giúp đỡ của
chúng ta, như người sắp chết đuối mong chúng ta cứu vớt họ vậy. Mong lắm thay!
82. Sau khi chết nghiệp
còn hay mất?
Hỏi: Kính
thưa thầy, sau khi mình chết rồi nghiệp còn hay mất ? Con chưa hiểu rõ vấn đề
nầy, xin thầy từ bi chỉ dạy.
Đáp: Tôi xin thưa ngay, con người sau khi
chết, nghiệp không bao giờ mất. Trừ phi, những người hiện đời đã dứt sạch ý
nghiệp. Nói rõ ra, là những người đã đạt đạo, thì mới thấy được: “nghiệp
tánh bổn lai không”. Tuy nhiên, nghiệp nhân đã gây, tất nhiên phải có
nghiệp quả. Dù người đó đã ngộ đạo. Trường hợp như đức Phật vẫn còn phải trả
quả. Ngài còn phải trả quả báo “kim thương mã mạch”. Và như
trường hợp Tổ Huệ Khả phải bị ngồi tù, hay Ngài Mục Kiền Liên bị đám côn đồ
đánh chết. Tuy nhiên, đối với các Ngài khi trả nghiệp thì khác hơn chúng
ta. Chúng ta trả nghiệp trong sự thống khổ kêu khóc rên la. Còn đối với các
Ngài không có gì là khổ đau cả. Vì sao ? Vì các Ngài đã thấy rõ “ngũ uẩn
giai không”. Đã thế, thì nói gì trả hay không trả. Cho nên, sự trả nghiệp
của các Ngài như trò chơi, không có gì phải lo âu sợ hãi.
Nói
thế, để chúng ta thấy rằng, một khi nghiệp nhân đã gây, thì sẽ không bao giờ
mất. Nếu nói như vậy, thì nghiệp không có thể chuyển được sao? Dĩ nhiên, là
chuyển được. Nếu không chuyển được, thì chúng ta tu làm gì. Nên nhớ, chuyển là chúng
ta chuyển nặng thành nhẹ. Chớ không thể nào chuyển cái có, hoàn toàn trở thành
cái không được. Kinh nói :
“Giả sử bá thiên kiếp
Sở
tác nghiệp bất vong
Nhân
duyên hội ngộ thời
Quả
báo hoàn tự thọ”.
Tạm
dịch :
Dù
trải qua trăm ngàn kiếp
Chỗ
tạo nghiệp không mất
Khi
nhân duyên đến rồi
Quả
báo tự chịu lấy.
Như
thế, thì làm sao hoàn toàn mất được. Chúng tôi xin nhắc lại, để Phật tử khỏi
phải nghi ngờ, nghiệp tuy không mất, nhưng nếu chúng ta biết tu, ăn năn sám
hối, thì có thể chuyển nghiệp quả nặng thành nghiệp quả nhẹ.
Thí
như anh A vì nóng giận đánh anh B bị trọng thương, lẽ ra, thì anh B và thân
nhân của anh B sẽ tìm cách đánh trả thù anh A cho hả giận, nhưng anh A, sau đó,
biết lỗi lầm sái quấy mà anh ta đã gây ra, anh liền đến anh B để năn nỉ, xin anh
B tha lỗi. Thế là, anh B thay vì đánh anh A để trả thù, nhưng nay, thấy anh A
đã tỏ lòng ăn năn hối cải lỗi lầm, nên anh B tha thứ. Thay vì đánh anh A, anh B
chỉ dùng những lời lẽ nặng nề trách móc anh A mà thôi. Anh B nói để cho hả cơn
giận, chớ không đến nỗi phải đánh anh A trả thù. Đó là anh A đã chuyển được cái
nghiệp quả nặng thành ra cái nghiệp quả nhẹ rồi. Chuyển nghiệp là như thế. Còn
hành động anh A đánh anh B bị trọng thương, không bao giờ mất ở trong lòng anh
B. Bởi hành động đánh đập (nghiệp) đó không bao giờ mất. Tuy anh B đã tha thứ,
nhưng trong lòng anh không bao giờ quên.
Xin
nêu thêm một thí dụ nữa, như có 3 gia đình cùng tọa lạc trên một đường phố.
Trong 3 gia đình đó, ông A làm nghề thầy giáo, ông B làm nghề bác sĩ, ông C làm
nghề kỹ sư. Bỗng một hôm, cả 3 căn nhà đều bị cháy sạch hết, tất cả đồ đạc, của
cải trong nhà đều bị thiêu hủy, chỉ có những người trong 3 gia đình đó còn
sống. Như vậy, nhà cửa của cải tuy cháy hết, nhưng nghề nghiệp của 3 ông đó có
cháy mất không? Ông thầy giáo vẫn tiếp tục hành nghề dạy học. Ông bác sĩ vẫn
tiếp tục hành nghề chữa bệnh và ông kỹ sư cũng vẫn tiếp tục hành nghề như cũ.
Như
thế, để chứng minh rằng, cái gì có hình tướng đều bị hư hoại, thiêu hủy, nhưng
còn cái nghề nghiệp không hình tướng kia không hề bị mất. Qua ví dụ nầy cho
chúng ta thấy, ngày mai khi thân chúng ta chết, nhưng nghiệp chúng ta đã gây,
thì không bao giờ mất, nó sẽ theo sát chúng ta như hình với bóng. Chúng ta tu
Tịnh nghiệp, thì được vãng sanh về cõi Tịnh, vì còn nghiệp, nên nói là vãng
sanh, mà không nói là Vô sanh. Do đó, nhân và quả không bao giờ sai chạy
vậy.
Đến
đây, chúng tôi cũng xin nói rõ thêm, nếu không, thì khi quý vị đọc hoặc nghe
trong Chứng Đạo Ca của Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nói: “Sát na diệt khước A
tỳ nghiệp”. Nghĩa là, Ngài nói cái nghiệp A tỳ, tức là Vô gián địa ngục,
chỉ diệt đi trong một sát na thôi. Nếu không hiểu chỗ nầy, quý vị sẽ đâm ra
hoang mang nghi ngờ và cho rằng, có sự mâu thuẫn với nhau. Nên nhớ, Ngài Huyền
Giác nói, là Ngài đứng trên lập trường của giáo lý tối Thượng thừa, thuộc Kinh
Liểu Nghĩa. Người ta đọc câu đó mà quên câu đầu của bài Ca nói: “Chứng thật
tướng vô nhơn pháp”. Nghĩa là, người chứng được Thật Tướng, tức Vô Tướng,
thì còn gì là Nghiệp A Tỳ ? Bởi vì, đến đây là người chứng đạo, sống trọn
vẹn với cái chân lý Tuyệt Đối, nên thấy rất rõ : « Nhơn Không và Pháp
Không », như vậy, thì có gì là nghiệp với không nghiệp ? Đó là
cái thấy cùng tột, vượt ngoài đối đãi của người chứng đạo.
Như
trên đã nói, đối với các Ngài thì không thấy có, nhưng không phải là không có
địa ngục A tỳ. Có là có, đối với những ai còn si mê vọng chấp. Còn không là
không, đối với những ai đã tròn chứng Pháp thân, nghĩa là không còn vô minh
vọng chấp. Hiểu như vậy, thì chúng ta sẽ không còn nghi ngờ và cho là mâu thuẫn
với nhau nữa.
Tóm
lại, vì biết rõ nghiệp quả không mất, nên người Phật tử mới gia công nỗ lực tu
tạo phước lành, để mai sau sanh về cõi lành, hưởng quả báo tốt đẹp, chớ nếu mất
đi, thì ai tu tạo điều lành làm gì. Người không tin nhân quả nghiệp báo, đối
với tự thân và xã hội đều là họa hại lớn, vì họ mãi gây tạo nghiệp ác. Một khi
đã gây tạo nghiệp ác, thì vĩnh kiếp trầm luân trong bể khổ. Thật là đau xót lắm
thay!
83. Người chết bất đắc kỳ
tử, thì nghiệp quả sẽ ra sao?
Hỏi: Kính
bạch Thầy, nếu người sắp chết, được có nhiều người tụng kinh, niệm Phật, thì
người đó niệm Phật theo, nên sau khi chết được sanh về cảnh giới lành. Ngược
lại, đối với những người họ bị tai nạn chết bất đắc kỳ tử thì sao? Kính xin
Thầy hoan hỷ giải đáp điều nầy cho con rõ.
Đáp: Điều thắc mắc nầy, tuy Phật tử lo hơi
xa, nhưng xét kỹ ra cũng thật là chánh đáng. Nhưng Phật tử đừng lo, vì xưa kia,
ở thời Phật, cũng có một người thắc mắc hỏi Phật, y như Phật tử hôm nay hỏi
chúng tôi vậy.
Xưa
kia, Ngài Ma Ha Nam là em bà con chú bác với đức Phật. Khi đức Phật trở về
hoàng cung giáo hóa trong thân tộc, thì ông đến xin Phật cho ông quy y giữ 5
giới và tu thập thiện. Đức Phật tán thán sự phát tâm của ông và cho ông được
toại nguyện. Từ ngày đó, ông trở thành một vị Ưu bà tắc rất thuần thành.
Một
hôm, ông nêu ra vấn đề đó hỏi Phật. Ông nghĩ rằng, cả đời vâng theo lời Phật
dạy tu hành, bỗng một hôm nào đó, bất thần xảy ra tai nạn, chết bất đắc kỳ tử,
như vậy, thì thần thức sẽ sanh về đâu? Có bị sa đọa không? Vì chết như thế, đâu
có ai hộ niệm cho mình mà được siêu thoát!
Đức
Phật không trả lời thẳng câu hỏi của ông, mà đức Phật hỏi vặn lại:
-
Nầy Ma Ha Nam, giả như có một cái cây mà nó đã nghiêng sẵn, bỗng một hôm có
người đến cưa, thì cây đó ngã về đâu ?
-
Thưa Thế Tôn, cây nghiêng chiều nào, khi cưa thân cây sẽ ngã theo chiều đó.
Phật
dạy: “Cũng vậy, hàng ngày ông thường tạo nghiệp lành, khi chết thì ông sẽ
theo nghiệp lành mà tái sanh vào cõi lành. Ngược lại, nếu người nào hàng ngày
tạo nghiệp ác, thì khi chết sẽ tái sanh vào cõi ác. Không phải chết bất đắc kỳ
tử là đọa địa ngục”. Chúng ta chết nghiệp không mất, mà thần thức theo
nghiệp thiện hoặc nghiệp ác sanh vào cõi lành hay cõi dữ.
Điều
quan trọng là hàng ngày chúng ta nên kiểm điểm lại mình tạo nghiệp lành nhiều
hay nghiệp ác nhiều. Hiện đời mình nặng về nghiệp gì, thì khi nhắm mắt mình sẽ
đi theo nghiệp đó.
Căn
cứ theo lời Phật dạy cho ông Ma Ha Nam ở trong Kinh A Hàm, thì chúng ta đừng lo
sợ, khi chết bất đắc kỳ tử không biết có sanh về cảnh lành hay không? Vấn đề
nầy, nếu nghiệm vào đời sống thực tế, thì chúng ta cũng thấy rõ.
Người
có thói quen niệm Phật, bất thần ai làm họ giựt mình, thì họ liền Mô Phật. Vậy
tiếng Mô Phật đó, họ đâu có cần phải suy nghĩ. Do « tập quán nghiệp
và tích lũy nghiệp » hàng ngày của họ huân tập, mà tự động họ phát ra
như thế thôi. Ngược lại, người có tập quán nghiệp hay văng tục chửi thề, bất
thần có ai chọc giận họ, thì họ sẽ tự động cho văng tục bằng tiếng chửi thề ra
ngay, mà không cần phải suy nghĩ.
Lại
như, hai người cùng đi chung một đường, một người thì ghiền cờ bạc; một người
thì thích chơi kiểng. Khi đi ngang qua, có một khu vườn trưng bày đủ thứ hoa
kiểng, người thích chơi kiểng liền vội ghé vào xem. Trong khi đó, người thích
chơi đỏ đen, thì không ngó ngàng đếm xỉa gì đến vườn hoa kiểng đó, mà họ đi
riết tới nhà chứa bài để chơi. Cũng vậy, chết là một, (dụ như cùng đi chung một
đường) nhưng tùy theo nghiệp thiện ác của mỗi người mà thọ sanh có khác. Và
quan trọng là ở nơi Tập quán nghiệp và Tích lũy nghiệp. Khi hai nghiệp nầy
thuần thục, sẽ đưa đến « Cực trọng nghiệp ». Nghĩa là
nghiệp nào nặng sẽ lôi đi trước. Nghiệp lành nặng sẽ lôi người đó đi vào đường
lành. Ngược lại, nghiệp ác nặng, thì cũng sẽ lôi người đó đi vào con đường ác.
Tất cả đều đi đúng theo luật nhân quả báo ứng, không ai thưởng phạt mình cả, mà
do nghiệp thiện ác của mình dẫn dắt mình đi mà thôi.
Vậy
Phật tử đừng lo sợ, cứ ráng lo tu tạo phước lành cho nhiều, thì khi chết, cũng
sẽ theo con đường lành mà đi. Tuy nó không được thắng duyên bằng khi mình chết
có người hộ niệm nhắc nhở, vì lúc đó, tín tâm hướng về Phật của mình mạnh hơn,
nên sẽ được vãng sanh về cõi Phật. Nhưng có điều, theo lời Phật dạy cho ông Ma
Ha Nam ở trên, thì chắc chắn sẽ không bị đọa vào đường ác vậy.
Kính
chúc Phật tử tinh tấn tu hành, để khỏi phải lo sợ sau khi chết không như ý sẽ
bị rơi vào đường ác.
84. Tập tục đốt giấy tiền
vàng mã.
Hỏi: Kính
bạch thầy, tục lệ đốt giấy tiền vàng mã có phải là của Phật giáo mình bày ra
không? Hay là do ai bày ra? Có một người bạn hỏi con như thế mà con không hiểu,
kính xin thầy từ bi giải đáp cho con được rõ.
Đáp: Tôi xin trả lời khẳng định một cách dứt
khoát rằng, tục lệ nầy không phải do Phật giáo bày ra. Theo chỗ chúng tôi được
biết, đây là một tục lệ có từ lâu đời trong dân gian. Truy nguyên về nguồn gốc
của tục lệ đốt giấy tiền vàng mã nầy, chúng tôi thấy, xuất phát từ thời cổ đại
trong xã hội Trung Hoa. Theo nhà tư tưởng Vương Dư đời Đường cho rằng: “Từ
thời nhà Hán, đã có tục chôn tiền và đời sau lấy giấy thay tiền”. Theo niềm tin
thuần phác của người Trung Hoa ở vào thời cổ đại thì, người ta tin rằng, người
chết không phải là mất hẳn mà biến thành quỉ (nhân tử viết quỉ – Nguyễn
Tôn Nhan, Kinh Lễ, Thiên Tế pháp, NXB. Văn Học, 1999, tr. 192 ). “Quan
niệm nhân tử viết quỉ” được hình thành từ thời Ngũ đại (khoảng hơn 2000
năm trước Tây lịch) Từ quan niệm nầy, người ta tin rằng, người chết cũng như
người sống, tức sự sanh như sự tử. Những gì mà người ta lúc còn sống tiêu xài
như thế nào, thì khi chết cũng cần đến như thế đó. Do tin tưởng như vậy, nên
sau khi chết đi, thân nhân của người chết họ chôn theo những vật dụng cần thiết
kể cả tiền bạc để cho người chết tiêu xài. Đây là họ biểu lộ mối thâm tình sâu
đậm khi sống sao thì lúc chết cũng như thế.
Theo
các nhà khảo cổ, họ đã khám phá từ những cuộc khai quật và đã xác quyết điều
nầy. Nhưng về sau, người ta thấy rằng, việc chôn theo các đồ vật dụng và tiền
bạc thiệt, thì quá lãng phí, cho nên dần dần người ta mới bày ra cách sử dụng
những đồ vật dụng và tiền bạc làm đồ giả, giấy giả, để cho người chết tiêu xài.
Như
vậy, việc đốt giấy tiền vàng mã là tập tục của người Trung Hoa có nguồn gốc từ
thời cổ đại. Dĩ nhiên, tục lệ nầy có tác động ảnh hưởng rất lớn trong tinh thần
biểu lộ tình cảm sâu sắc của người dân Trung Hoa. Từ đó lan rộng ảnh hưởng đến
những quốc gia chịu ảnh hưởng nếp sống văn minh văn hóa của họ. Việt Nam là một
trong những nước chịu ảnh hưởng sâu đậm nhứt, vì đất nước ta đã trải qua một
thời gian dài bị họ cai trị.
Cần
nói rõ tập tục nầy, theo cái nhìn của Phật giáo, thì đây là một việc làm lãng
phí tốn kém vô ích. Vì Phật giáo quan niệm, người chết chậm nhất là sau 49 ngày
nhất định sẽ tùy nghiệp thác sinh vào những cảnh giới thiện ác khác nhau, do
hiện đời người đó đã gây tạo. Cảnh giới khác nhau, thì vật dụng của mỗi loài
tùy nghiệp thức, mà họ cũng thọ dụng khác nhau. Do đó, không thể đem những vật
dụng ở cõi người mà cung cấp cho những chúng sinh ở các cõi khác. Như thế, thì
làm sao họ thụ hưởng cho được?
Thí
dụ cùng là loài người sống chung trên một trái đất, chỉ khu biệt khác nhau ranh
giới thôi, ấy thế mà giữa tiền của nước nầy, không thể mang sang qua nước khác
mà có thể xài được, muốn tiêu xài, cần phải đổi ra. Như thế, thì thử hỏi tiền
bằng giấy đốt ra thành tro bay hết, làm sao mà người chết nhận để tiêu xài
được? Đây chẳng qua, là để biểu lộ tấm lòng thương tưởng hiếu thảo của
người còn sống đối với người đã khuất bóng. Việc làm nầy, xuất phát từ nỗi lòng
ước nguyện thành kính của người sống muốn cho người chết được đầy đủ an
vui. Nhưng đối với Phật giáo, hoàn toàn không chấp nhận việc làm nầy. Vì nó
không đem lại lợi lạc gì cho người chết, mà chỉ lãng phí tiền của, công sức và
gây thêm ô nhiểm môi sinh, nhiều khi bất cẩn sẽ gây ra tai nạn hỏa hoạn nữa
không chừng.
Đối
với những Phật tử vì chưa thông hiểu giáo lý Phật dạy và chưa có một niềm tin
nhân quả thấu đáo sáng suốt, nên có đôi khi cũng hay đốt giấy tiền vàng mã cho
người chết. Thay vì, bỏ tiền ra mua đốt giấy tiền vàng mã, thì tại sao chúng ta
không làm những việc khác có lợi ích cụ thể thiết thực hơn như mãi vật phóng
sinh, bố thí giúp cho những kẻ tàn tật nghèo đói v.v… ? Đem những việc làm
nầy, hồi hướng phước đức cho hương linh người chết, thì người chết sẽ hưởng
được lợi lạc biết bao! Đây mới là việc làm chánh lý “âm dương lưỡng
lợi”, đúng theo quan điểm từ bi và trí tuệ của đạo Phật. Là Phật tử, chúng
ta nên nghe theo lời Phật Tổ dạy mà tránh những việc làm mê tín vô ích, chỉ có
gây thêm thiệt hại cho mình mà thôi.
85. Vấn đề thờ ông Địa và
Thần Tài.
Hỏi: Kính
bạch thầy, lâu nay con có một thắc mắc, quý thầy thường dạy, người Phật tử sau
khi quy y, trong nhà chỉ thờ Phật thôi. Thế nhưng, con thấy có nhiều Phật tử
trong nhà vẫn còn thờ ông Địa và ông Thần Tài. Con muốn biết nguồn gốc ông Địa
và ông Thần Tài như thế nào mà người Phật tử phải thờ? Và thờ như thế có lỗi gì
không? Kính mong thầy hoan hỷ giải đáp cho con hiểu.
Đáp: Qua câu hỏi của Phật tử, Phật tử chỉ
nêu ra trong phạm vi Phật tử của mình, nên chúng tôi cũng chỉ xin trả lời và
nhắc nhở trong phạm vi giới hạn của Phật tử mình thôi. Ngoài ra, thì chúng tôi
không dám có ý đề cập đến bất cứ ai. Đó là chúng tôi tôn trọng niềm tin của mỗi
người.
Có
nhiều Phật tử quy y mà không quan tâm ghi nhớ những lời quý thầy giảng dạy
trong khi làm lễ quy y. Khi quy y, quý thầy y theo Kinh có nêu ra và chỉ dạy
rất rõ: Trong Tam quy y, quy y đầu tiên là quy y Phật. Quy y Phật, thì
người Phật tử nguyện suốt đời chỉ quy y Phật thôi, tuyệt đối, không được quy y
Thiên, Thần, Quỷ, Vật. Đó là lời phát nguyện của Phật tử nói trước Tam Bảo.
Thế
mà, sau khi quy y rồi, có lẽ, một, là vì lu bu bận rộn lo tính toán với nhiều
công việc làm ăn, nên Phật tử đó quên những gì mà mình đã phát nguyện, nay lại
thỉnh ông Địa và ông Thần Tài về thờ trong nhà. Hai, là vẫn nhớ, nhưng vì không
bỏ được cái tập tục thờ cúng các vị Thần nầy. Vì muốn thờ các vị Thần nầy phụ
lực với Phật phò hộ thêm cho mình và gia đình luôn được bình an, mua may bán
đắt, tiền vô như nước.
Nếu
quả thật thờ Thần Tài mà ổng hộ độ cho mình được giàu có, tiền vô trong túi ào
ào, thì mấy nhà sản xuất ông Thần Tài chắc là họ phải giàu to, trên đời không
ai sánh kịp. Thử hỏi mấy ông đó, có thật giàu to không? Và thật sự ông Thần Tài
có phò hộ cho mấy ổng không? Hay là mấy ông đó cũng phải làm ăn trối chết mới
kiếm ra tiền.
Nói
thế, để Phật tử thấy rằng, tuy Phật tử đó đã quy y Tam Bảo, nhưng lòng tin Tam
Bảo và tin nhân quả không được vững chắc. Đây cũng là bệnh chung của đa số Phật
tử chúng ta chưa có đủ niềm tin nơi Tam Bảo và lý nhân quả nên mới có tình
trạng thờ ông nầy ông kia.
Trở
lại vấn đề, Phật tử hỏi về nguồn gốc của hai ông nầy, theo chỗ tìm hiểu của
tôi, thì cho đến hôm nay, người ta cũng chưa khẳng quyết rõ ràng về nguyên lai
của hai vị Thần nầy. Đại khái, có nhiều thuyết quan điểm khác nhau. Ở đây, tôi
chỉ xin nêu ra một số nét chung về xuất xứ của tập tục thờ tự nầy. Thật ra, tập
tục thờ Thần đối với người Việt Nam cũng đã có từ lâu đời. Có thể nói, từ khi
có người Việt là đã có đạo thờ Thần. Cũng như các dân tộc khác, người Việt Nam
quan niệm và tin tưởng mỗi một hiện tượng là có một vị Thần ngự trị cai quản.
Như Thần Thổ Địa hay còn gọi là Thổ Công là vị Thần cai quản đất đai trong khu
vực vườn tược nhà cửa. Trong dân gian có câu: “Đất có Thổ Công, sông có Hà
Bá”. Ngoài Thổ Công, các vị Thần khác cũng được người ta thờ tại nhà như
Thần Tài, Tiên Sư, Tiên Chủ, Đức Thánh Quan v.v…
Thổ
Công là một vị Thần được dân gian thờ cúng rất quan trọng. Vì vị Thần nầy trông
coi gia đình, dự định họa phúc. Trong gia đình muốn được bình an, và ruộng vườn
muốn được sung túc, tất cả đều do Thần Thổ Công trông coi và phò hộ. Về hình
tượng tôn thờ, có khi là một ông già to béo (ông Địa) bụng phệ, vẻ mặt hiền
lành, miệng cười thoải mái. Có lúc, tượng Thổ Địa được thể hiện dưới hình thức
râu tóc bạc phơ, mặc áo dài, đội mũ mỏ quạ, râu trắng như cước. Sở dĩ có những
hình tượng sai khác như thế, là do ảnh hưởng văn hóa của từng khu vực. Đạo giáo
rất coi trọng và siêng năng thờ cúng vị Thần nầy.
Còn
Thần Tài, theo tập tục dân gian cho rằng, vị Thần nầy đem lại tài lộc cho mọi
người. Thông thường những nhà kinh doanh thương mãi, người ta rất quý trọng thờ
vị Thần nầy. Đây là một tập quán tín vọng, xưa bày nay theo, cứ thế mà thờ, còn
việc linh ứng có không tùy ở nơi người tin. Về bàn thờ của 2 vị Thần nầy, người
ta chỉ thờ ở một góc khuất nào đó trong nhà hay trong shop, không cần phải bài
trí ở chỗ cao ráo. Thường ở Việt Nam, có một số nơi, người ta thờ chung hai vị
Thần nầy, chớ không thờ tách riêng, vì theo họ, tài và lợi phải đi đôi với
nhau. Thổ Công thuộc về lợi, Thần Tài thuộc về tài. Khi thờ chung, chúng ta
thấy có đôi câu đối dán trước bàn thờ hai ông như thế nầy: “Thổ năng sinh
bạch ngọc, Địa khả xuất hoàng kim”. Nghĩa là : Đất thường sinh ngọc tốt,
vàng ròng cũng từ đất mà ra.
Rãi
rác trong các Kinh điển Phật giáo, đôi khi cũng có đề cập đến các vị Thần. Như
Kinh Địa Tạng cũng có nêu ra rất nhiều vị Thần. Tuy nhiên, theo Phật giáo, Quỷ
Thần cũng là một trong nhiều loài chúng sanh. Cho nên, Phật dạy người Phật tử
không được quy y với các vị Quỷ Thần. Người Phật tử, sau khi quy y Tam Bảo,
trong nhà chỉ nên thiết lập một bàn thờ Phật và nếu có thờ thêm, thì cũng chỉ
thờ tổ tiên, ông bà, hay cha mẹ mà thôi. Ngoài ra, không nên thờ bất cứ vị Thần
nào khác. Vì thờ như thế, là trái với lời Phật Tổ dạy. Đã chống trái lại, tất
nhiên, là mình đã có lỗi rồi. Nếu là Phật tử, thì chúng ta nên lưu tâm về vấn
đề nầy. Có thế, thì chúng ta mới xứng danh mình là người Phật tử chơn chánh tu
học Phật vậy.
86. Vấn đề tuổi tác và
duyên số trong hôn nhân.
Hỏi: Kính
bạch thầy, con thấy có nhiều gia đình Phật tử, vợ chồng cũng có học thức cao,
kinh tế gia đình của họ cũng khá đầy đủ, nhưng không hiểu sao gia đình của họ
không có hạnh phúc. Vợ chồng cứ gây gổ lục đục nhau hoài. Như vậy, có phải là
do tuổi tác của họ không hợp? Hay là do duyên số, định nghiệp của họ, nên họ
phải chịu quả báo như vậy. Kính xin Thầy giải thích cho con được rõ, trường hợp
nầy như thế nào ?
Đáp: Đây là trường hợp hầu như đại đa số gia
đình không ít thì nhiều đều vướng phải. Vấn đề hạnh phúc hôn nhân không thể
hoàn toàn đặt định trên vấn đề kiến thức, lại càng không phải do tuổi tác hay
kinh tế vật chất tạo nên. Nếu đặt định tin tưởng như thế, chưa đủ yếu tố để xây
dựng hạnh phúc gia đình. Học thức cao, kinh tế đầy đủ, cũng chỉ là một trong
nhiều yếu tố khác. Mặc dù hai yếu tố nầy rất cần thiết trong đời sống lứa đôi.
Ngoài hai yếu tố nầy ra, nó còn đòi hỏi nhiều yếu tố khác nữa. Theo Phật giáo,
là cần phải hội đủ nhân duyên. Nói đến nhân duyên, tất nhiên, phải có chánh
nhân và trợ nhân hay trợ duyên. Thí dụ hiểu và thương là chánh nhân. Ngoài ra,
những yếu tố khác có thể nói đều là trợ duyên.
Ở
đây, thiết nghĩ, chúng tôi cũng cần nói rõ minh định lập trường của Phật giáo
trước sau như một. Phật giáo, ngoài việc chủ xướng đề cao lý nhân quả ra, Phật
giáo không bao giờ chủ trương người Phật tử tin vào những điều gì khác, có tánh
cách tà tín, nhứt là vấn đề bói toán, xem tuổi tác và ngày giờ tốt xấu để phán
xét, đoán định vận mạng nơi quá khứ, hiện tại, vị lai. Phật giáo chủ trương và
luôn khuyến khích người Phật tử tin sâu lý nhân quả nghiệp báo, với mục đích là
để chúng ta tìm ra nguyên nhân hình thành ác nghiệp, để từ đó tìm mọi phương cách
khắc phục, hoán cải, những nhân xấu để trở thành nhân tốt. Đồng thời, cũng
chuyển hóa những ác nghiệp trở thành thiện nghiệp. Có thế, thì mới cải thiện
được đời sống của chúng ta ngày càng thăng hoa tốt đẹp hơn .
Do
đó, theo Phật giáo, những chuyện xảy ra cơm không lành canh không ngọt, mất hòa
khí trong gia đình, không phải là do tuổi tác không hợp, mà là do tập khí chủng
nghiệp của mỗi người huân tập ở những môi trường sống khác nhau, mà người ta
thường nói là tánh tình không hợp. Khi nói tánh tình không hợp, ta phải xét tìm
nguyên nhân lý do tại sao? Nếu bảo rằng, do tuổi tác, thì lẽ ra từ đầu chí cuối
phải là xung khắc luôn luôn, chớ tại sao khi hợp khi khắc? Khi vui thì hợp, khi
buồn thì khắc. Khi vừa ý thì hợp, khi trái ý thì khắc. Như vậy, sự xung khắc
bất hòa nầy do đâu? Tại sao mỗi người không chịu tìm hiểu lại chính mình mà đổ
thừa cho tuổi tác?
Từ
nhỏ đến lớn, trước khi thành vợ chồng, mỗi người có một đời sống hoàn cảnh khác
nhau. Không ai hoàn toàn giống ai. Chỉ hợp nhau ở một khía cạnh nào đó, như
trình độ học vấn, sở thích, cá tánh… Đây mới chỉ là hợp nhau trong bước đầu.
Hợp nhau trong cái thuở ban đầu lưu luyến ấy. Bước đầu bao giờ cũng rất là đẹp.
Vì hai bên đều giữ kín những tật tánh xấu của mình. Không ai dám để lộ ra cái
chân tướng của mình cho đối phương biết rõ. Nhưng khi thành vợ chồng chung sống
với nhau một thời gian, bấy giờ nó mới hiện ra rất nhiều thứ không hợp. Những
thứ không hợp nầy, nó ẩn khuất tiềm tàng sâu kín, mà cả hai khó tìm thấy nhau.
Nếu biết rõ nhau ngay từ lúc đầu, thì nguyện ước hôn nhân khó thành. Cho nên,
cả hai đều phải che giấu.
Nhưng
khi sống chung, thì biệt nghiệp cá tánh của mỗi người đều hiện rõ. Từ đó, cả
hai mới nhận thấy có nhiều điểm bất đồng. Và mọi việc không còn như ý muốn ban
đầu. Và cũng từ đó chiến tranh lạnh bắt đầu có cơ bộc phát. Vậy nguyên nhân bất
hòa gây ra chiến tranh nầy do đâu? Vì cả hai không chịu tìm hiểu, bởi tìm hiểu
thì mỗi người sẽ để lộ chân tướng xấu của mình ra, rồi vì bản ngã, vì tự ái,
nên bây giờ chỉ còn có cách đổ thừa cho tuổi tác, cho ông tơ bà nguyệt se duyên
không đúng, hay là do duyên nghiệp trớ trêu v.v… Nghĩa là phải tìm đủ mọi cách
để chạy tội đổ thừa trách nhiệm cho kỳ được, chớ không ai chịu tìm hiểu lại lỗi
lầm của chính mình. Phật giáo, với cái nhìn của tuệ giác, không thể chấp nhận
cho việc tránh né đổ thừa nầy.
Thử
hỏi trên đời có ai làm vừa ý mình hết không? Chính mình có đôi khi còn không
vừa ý với chính mình, thì có ai mà làm vừa ý mình. Như vậy, rõ ràng không phải
do tuổi tác xung khắc mà là do nhiều yếu tố khác. Yếu tố nào gây ra sự bất hòa?
Đó là điều mà người Phật tử cần phải truy nguyên tận nguồn gốc của sự bất hòa
đó. Trên đời nầy, không có gì là không có nguyên nhân. Thường chúng ta hay mắc
phải chứng bệnh chủ quan. Mà bệnh chủ quan là con đẻ của bệnh chấp ngã. Vì chấp
ngã, nên cái gì mình cũng đúng hết. Mọi lỗi lầm đều do người kia gây ra, mà
chúng ta không chịu tìm hiểu căn nguyên vấn đề của chính mình.
Đạo
Phật dạy rằng, sự sống hình thành bởi nghiệp và chính nghiệp trở lại chi phối
đời sống của ta. Như người có tánh nóng nảy, đụng tới là lửa sân hận nổi lên
đốt cháy người khác. Tánh nóng nảy, đó là một tập khí do huân tập mà có, tự
tánh của nó là không. Vì vậy, cho nên khi gặp nghịch duyên bất như ý là nổi sân
lên, đến khi vừa ý, thì lại êm dịu.
Như
vậy, tánh nóng nảy kia đâu phải là có thật. Tuy nó không thật, nhưng chính nó
lại là nguyên nhân chi phối đời sống chúng ta. Hạnh phúc bị đổ vở, phần lớn
cũng do một trong hai người thiếu sự bình tĩnh. Từ mất bình tĩnh, thiếu sáng
suốt, cho nên lửa sân nổi lên đốt cháy hoành hành. Thế là từ việc bé xé thành
to. Do đó, Phật dạy, người Phật tử cần phải thường xuyên tu tập để chuyển hóa
thân tâm.
Muốn
chuyển hóa thân tâm, từ những hạt giống xấu trở thành những hạt giống tốt, thì
cần phải có trí huệ. Trí huệ hay chánh niệm rất thiết yếu trong đời sống. Khi
có trí huệ hay chánh niệm kịp thời can thiệp, thì chắc chắn những hậu quả không
tốt khó có thể xảy ra. Khi sự việc xảy ra, ta phải tìm rõ nguyên nhân, chớ
không nên đổ thừa bừa bãi. Tại sao phải nổi nóng gây ra mất hòa khí trong gia
đình? Do nguyên nhân nào? Do tuổi tác hay do tánh nóng? Hay do những thứ gì
khác, mà mình không chịu tìm ra. Tại sao mình hay đổ thừa người khác? Lý do nào
mình hay đổ trút tội lỗi lên đầu người ta?
Khi
hai người bất hòa, hãy bình tĩnh ngồi xuống để tư duy tìm rõ nguyên nhân trong
tinh thần hòa giải, hòa hợp để tìm cách thiết lập cảm thông, chớ không nên
tranh nhau ăn thua đủ. Có tìm ra nguyên nhân, thì mới có hiểu và cảm thông nhau
và từ đó mới có thể hóa giải mọi gút mắc bất hòa để rồi yêu thương quý kính
nhau. Nếu thiếu hai yếu tố “Hiểu” và “Thương” nầy, thì khó
có thể cởi mở, hỷ xả sống chung hòa hợp với nhau được.
Đời
sống là một chuỗi dài trả nghiệp và gây nghiệp. Nghiệp đã gây tạo từ quá khứ và
trong hiện tại, tất nhiên, không thể không trả. Nhưng nghiệp, ta có thể chuyển
được, một khi đã tìm rõ nguyên nhân tác nghiệp. Tính chất cơ bản của nghiệp là
bất định tính. Nghiệp luôn luôn chuyển biến theo chiều hướng thiện hoặc ác, tùy
theo hành động của thân, khẩu, ý mà mỗi cá nhân gây ra. Dù rằng sự đổ vở hôn
nhân, tuy có sự can dự vào của nghiệp nhân quá khứ, nhưng đó chưa phải là hoàn
toàn chi phối quyết định tất cả. Mà phần lớn là do nghiệp nhân hiện tại gây
nên. Cho nên, muốn tìm hiểu về nghiệp phải căn cứ trên chiều thời gian. Mà thời
gian hiện tại mới là điều quan trọng để chúng ta chỉnh hướng cho hiện tại và
tương lai.
Tóm
lại, vấn đề hạnh phúc gia đình, cần nên cư xử tế nhị trong nhiều vấn đề. Mỗi
người cần phải có cái nhìn sắc bén bằng tuệ giác trong việc cư xử với nhau. Vì
sống chung với nhau không sao tránh khỏi những cá tánh bất đồng. Sự bất đồng
đó, muốn dung hợp được, chỉ có một nhịp cầu duy nhứt nối liền hai đầu lại với
nhau, đó là “Hiểu” và “Thương”. Có hiểu và thương thì mới có tương
kính và nhường nhịn nhau. Thiếu nhịp cầu nầy, thật khó có sự cảm thông. Không
cảm thông nhau, rất khó hòa hợp. Vì có tìm hiểu tánh tình, sở thích, và những
cá tánh dị biệt khác, thì mới cảm thông và thương yêu nhau hơn. Từ đó mới có
thể chuyển hóa mọi mâu thuẫn, xung khắc bất đồng cùng chảy về một dòng suối yêu
thương và hạnh phúc. Có thế, thì người Phật tử mới có kỳ vọng xây dựng vững
chắc được mái ấm hạnh phúc gia đình. Có hạnh phúc mới có an hưởng những niềm
vui của những ngày tháng sống tạm bợ trên cuộc đời đầy khổ đau hệ lụy nầy.
87. Lễ hằng thuận tại
chùa.
Hỏi: Kính
bạch thầy, con thấy thỉnh thoảng có những cặp hôn nhân làm lễ kết hôn ở chùa.
Con không hiểu ý nghĩa tại sao trong chùa lại có làm lễ kết hôn như thế? Kính
xin thầy giải đáp cho con hiểu.
Đáp: Hôn nhân, đối với tổ tiên ta ngày xưa,
được xem rất là quan trọng. Việc định vợ gả chồng là chuyện trăm năm, nên phải
có sự chọn lựa kỹ càng. Có nhiều gia đình giàu có sang trọng, họ thường chọn
môn đăng hộ đối. Cho nên, một lễ cưới ngày xưa rất là rườm rà, đủ thứ lễ nghĩa.
Ngày nay, người ta đơn giản đi rất nhiều. Đại khái chỉ còn giữ tập tục 2 lễ
chánh thức, đó là lễ hỏi và lễ cưới.
Ở
Việt Nam, việc làm lễ cưới tại chùa, rất hiếm thấy. Nhưng từ khi người Việt
mình ra hải ngoại đến giờ, thì việc làm lễ cưới tại chùa dường như không còn xa
lạ đối với người Việt mình nữa. Sở dĩ người Phật tử tổ chức lễ cưới trong
chùa, theo chỗ chúng tôi được biết thì, cũng có nhiều lý do. Trước hết,
cần nói rõ, Phật giáo không có một nghi thức cố định cho lễ cưới nầy. Lễ nầy,
theo Phật giáo gọi là lễ “hằng thuận”. Tùy thời gian và hoàn cảnh ở mỗi
nơi mà chư Tăng Ni linh động hành lễ cho nó thích hợp.
Đối
với người Việt tỵ nạn ly hương, thật đây là một hoàn cảnh mà tận thâm tâm của
mỗi người không ai muốn xa quê hương xứ sở của mình. Nhưng vì hoàn cảnh mà phải
bỏ nước ra đi. Khi đến xứ lạ quê người, bao nhiêu tình cảm yêu thương gắn bó
đối với quê hương, xóm giềng, chùa chiền đã mất mát đi quá nhiều. Do đó, người
Phật tử muốn tìm lại cái không khí mái ấm gia đình của quê hương thân thiết
ngày nào trong tình tự hài hòa của một dân tộc, thì không đâu hơn bằng mái ấm
đầy tình người của một ngôi chùa. Vì:
“Mái chùa che chở hồn dân tộc,
Nếp
sống muôn đời của tổ tông”.
Do
đó, mà sự tổ chức một lễ cưới tại chùa cũng mang lại nhiều ý nghĩa cho đời sống
tâm linh của chú rể và cô dâu sau nầy.
Buổi
lễ diễn ra trước sự chứng kiến của hai họ và trước Tam Bảo chứng minh, nhứt là
lại được nghe những điều giảng dạy về đạo đức làm người trong đời sống hôn nhân
theo tinh thần Phật dạy trong Kinh Thiện Sanh của chư Tăng Ni. Từ đó, sẽ gây
một ấn tượng sâu đậm thêm trong việc đối xử của đôi nam nữ sau nầy, nhứt là, ý
nghĩa rất sâu xa của chiếc nhẫn.
Khi
chú rể và cô dâu trao nhẫn cưới cho nhau, điều đó nói lên, biểu trưng cho việc
cư xử trong tinh thần nhường nhịn yêu thương tương kính lẫn nhau của hai người.
Cuộc sống lứa đôi nếu thiếu đi yếu tính nầy, thì khó có thể xây dựng được hạnh
phúc lâu bền. Do đó, khi hai bên trao nhẫn cho nhau, dưới sự chứng minh của Tam
Bảo và hai họ, thì đây quả là một điều mang ý nghĩa thật hết sức quan trọng. Vì
thế mới gọi đây là lễ hằng thuận. Hằng là luôn luôn, thuận là hòa thuận. Muốn
luôn luôn hòa thuận với nhau, thì cả hai đều phải biết tương kính nhường nhịn
nhau. Đó cũng là ý nghĩa của chiếc nhẫn mà tổ tiên ta đã bày ra cho mọi người noi
theo.
Ngoài
ra, còn có việc ký hôn thú cho hôn nhân. Nhưng điều nầy, theo tôi, không quan
trọng lắm. Điều quan trọng là làm sao cho đôi nam nữ hiểu được ý nghĩa của đời
sống lứa đôi trong tinh thần yêu thương hòa kính theo những lời Phật dạy.
Đó mới là trọng tâm ý nghĩa của buổi lễ. Và đó mới thật sự có tác động
mạnh trong đời sống tâm linh của đôi nam nữ sau nầy.
Tóm
lại, việc tổ chức một nghi thức đơn giản cho lễ cưới của người Phật tử trong
chùa, mặc dù, đây không phải là một truyền thống của Phật giáo, nhưng nó cũng
nói lên một ý nghĩa đặc thù trong chiều hướng xây dựng hạnh phúc gia đình trong
tinh thần yêu thương qua nếp sống cư xử hòa kính của người Phật tử. Những lời
phát nguyện trước Tam Bảo của hai người, nó có một tác động rất mạnh mẽ cho đời
sống tâm linh về sau. Vì thế, mà việc tổ chức lễ cưới trong chùa, nó cũng mang
lại nhiều ý nghĩa tốt đẹp và rất là hữu ích vậy.
88. Hiến cơ phận (organs)
có lợi và hại thế nào?
Hỏi: Kính
bạch thầy, hiến cơ phận là một việc làm rất cao quý, nhưng là phàm phu như
chúng con thì việc làm nầy có lợi hại thế nào? Vì theo lời Thầy Tổ dạy là sau
khi chết, thần thức chưa rời khỏi xác thân, thì dễ sanh tâm sân hận, nếu thân
thể bị xúc chạm. Kính xin thầy cho con biết, việc làm nầy như thế nào mới được
vẹn toàn ?
Đáp: Việc hiến cơ phận trong thân thể sau
khi chết là do sự phát nguyện của đương sự. Nghĩa cử cao đẹp nầy, không phải ai
cũng có thể làm được. Đây là hạnh bố thí rộng lớn của Bồ tát. Vì bố thí có nội
tài và ngoại tài. Ngoại tài là cho những vật dụng ngoài thân mình, như tiền bạc
của cải v.v… Ngược lại, nội tài là bố thí những bộ phận trong cơ thể, như hiến
máu hay bất cứ một bộ phận nào khác còn lành mạnh.
Nói
về lợi, thì sau khi chết, dù thiêu hay chôn thân thể người ta cũng phải tan rã.
Thay vì tan rã một cách vô ích, người ta lại tình nguyện cho những bộ phận nào
đó còn tốt trong thân thể của họ, để cho các nhà y khoa nghiên cứu, thí nghiệm
rồi đem ra chữa trị giúp người. Đó là một điều rất hữu ích cho nhơn loại. Phải
nói, đây là một hạnh nguyện rộng lớn của Bồ tát mà người thường không thể làm
được. Vì Bồ tát khi còn sống, các Ngài lợi dụng cái thân thể còn mạnh khỏe để
làm lợi ích cho tha nhân, đến khi chết, các Ngài cũng nghĩ đến mọi người mà
hiến bộ phận trong thân thể để cứu mạng sống cho những ai không may bị mang
bệnh nặng hiểm nghèo.
Một
việc làm do phát tâm nguyện vị tha cao cả như thế, thì thử hỏi làm gì có lòng
sân hận mà có hại? Nếu có hại, với điều kiện là người đó không có sự phát
nguyện mà người ta tự nhiên mổ xẻ cắt xén lấy một bộ phận nào đó trong người
của họ, thì điều đó mới thật sự là xúc chạm gây ra tai hại cho người mới chết.
Và như thế, thì chắc chắn là thần thức của người mới chết đó, sẽ sân hận mang
lại hậu quả không tốt. Điều đó, thì rất là tai hại. Bằng ngược lại, thì không
có gì là tai hại cả. Chẳng những không hại mà nó còn mang lại một lợi ích thiết
thực rất lớn cho người sống, vì đã cứu được mạng người.
Đối
với hạng người tầm thường, vì ngu si chấp ngã quá nặng, nên khi còn sống thì họ
một bề chỉ nghĩ đến những điều gì có lợi lộc cho riêng mình, cung phụng cho
thân thể đủ mọi thứ nhu cầu sung túc, đến sau khi chết, cũng vẫn còn luyến tiếc
thân thể, không muốn cho thân thể bị hư hoại. Đó là hạng người quá ích kỷ, chỉ
biết có mình mà không nghĩ đến ai. Họ coi thân thể của họ nặng hơn núi Tu di.
Người như thế, khi còn sống cũng không làm điều gì lợi ích cho ai, dù là một
việc làm rất nhỏ nhặt cũng không có. Hạng người như thế quả họ sống không có
ích lợi gì cho nhân quần xã hội cả.
Trong
xã hội, ta thấy có lắm người giàu có, tiền kho bạc đụng, nhưng vì không có từ
tâm, nên họ không bao giờ biết thương xót cứu giúp ai cả. Khi còn sống, thì họ
lo xây dựng cơ đồ sự nghiệp của họ cho thật vững chắc, ai chết mặc ai, đến khi
gần chết, họ trăn trối lại cho con cháu phải xây lăng mộ cho họ thật kiên cố
sang trọng. Dù biết trước rằng, đó chỉ là chôn cất một cái thây thúi. Đó là
hạng người mà Phật gọi là tham si chấp ngã quá nặng.
Ngược
lại, đối với những người mà họ coi thường bản ngã, sống, thì làm lợi ích cho
mọi người, đến khi chết, họ cũng vẫn nghĩ đến làm lợi ích mọi người. Quả đây
không phải là hạng người tầm thường dễ tìm thấy trong xã hội loài người.
Tuy
nhiên, người có tâm nguyện hiến cơ phận, thiết nghĩ, cũng nên giải thích rõ với
những người thân thuộc trong gia đình về bản nguyện của mình, để không gặp sự
cản trở có thể xảy ra sau khi lâm chung. Mặt khác, tang quyến cũng nên nói rõ
cho quý Tăng Ni biết về bản nguyện hiến cơ phận của bệnh nhân trong giờ phút hộ
niệm mà bệnh nhân đang trong tình trạng hấp hối hay lúc tẩn liệm. Mục đích là để
thức nhắc cho bệnh nhân nhớ lại bản nguyện vị tha cao đẹp của mình lúc còn sống
và hết lòng hộ trì cho nhân viên bệnh viện thực hành nhiệm vụ cắt lấy cơ phận.
Tóm
lại, khi đã nói hiến cơ phận là đã có sự phát nguyện rồi. Đã có phát nguyện như
thế, thì làm gì có sự giận hờn. Vì người khác chỉ làm theo những gì mà mình đã
phát nguyện. Như thế, thì đây là điều hoàn toàn có lợi chớ không có hại chi cả.
89. Vấn đề ăn ngũ vị tân.
Hỏi: Kính
bạch thầy, con không hiểu lý do tại sao người Phật tử khi ăn chay không được ăn
ngũ vị tân? Ăn ngũ vị tân có hại như thế nào mà không được ăn? Kính xin thầy từ
bi giải đáp cho chúng con được rõ.
Đáp: Theo truyền thống Phật giáo Bắc truyền
hay còn gọi là Phật giáo Phát triển, thì người Phật tử khi ăn chay nên kiêng cử
ngũ vị tân. Ngũ vị tân là năm món gia vị có mùi cay nồng gồm: Hành (cách
thông) hẹ (từ thông), tỏi (đại toán), kiệu (lan thông) và hưng cừ, tên khoa học
là Allium fistulosum, là loại gia vị có hình dáng và mùi vị tương tự củ nén
không có ở Trung Quốc và Việt.
Lý
do tại sao người Phật tử không nên ăn những thứ nầy, bởi vì đặc tính của những
thứ nầy nó chứa nhiều tố chất kích thích và mùi vị cay nồng, nếu ăn nhiều thì
thân thể có mùi hôi, nóng nảy và bị kích dục. Do đó, mà trong Kinh Lăng Nghiêm,
quyển 8, Phật dạy: “Các chúng sinh cầu Thiền định (Samadhi) không nên ăn năm
món cay nồng của thế gian. Vì năm món cay nồng đó nếu ăn chín thì phát dâm, ăn
sống thì sinh nóng giận. Người nào ăn năm món cay nồng ấy thì dẫu có tài giảng
thuyết mười hai bộ kinh, chư Thiên mười phương đều chê bai hôi thúi và xa lánh.
Ma quỷ nhìn người ăn mấy món đó liền kéo đến liếm môi, liếm mép họ, vì thế nên
thường ở chung với ma quỷ. Phước đức của người ăn ngũ tân mỗi ngày một tiêu
dần. Bồ tát và thiện thần trong mười phương không đến ủng hộ người ấy”. Vì thế,
Kinh Phạm Võng, quyển hạ, Phật dạy: “Là Phật tử thì không được ăn ngũ vị tân,
nếu ai cố ý ăn thì phạm khinh cấu tội”.
Tuy
nhiên, theo khoa y học cho biết, ngũ vị tân có chứa nhiều hoạt chất làm tăng
sức đề kháng cho cơ thể, được dùng để phòng và trị bệnh. Những nghiên cứu mới
nhất của tổ chức sức khỏe thế giới (WHO) về tỏi và hành có khả năng chữa các
thứ bệnh cảm cúm, tim mạch và ung thư v.v… Do vậy, nên vì mục đích ngăn ngừa
hay chữa trị bệnh, thì ở một chừng mực nào đó, người Phật tử ăn chay cũng có
thể dùng được.
Theo
Đại Đường Tây Vực Ký của Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang thì: “Các nhà sư ở
Tây Vực, nếu người nào bị bệnh nặng, theo sự chỉ dẫn của thầy thuốc phải dùng
Ngũ vị tân thì tạm được dùng nhưng phải ở riêng một chỗ, biệt lập. Sau khi hết
bệnh, phải tắm gội sạch sẽ, thay đổi y phục, mới cho vào ở chung với chúng
Tăng.”
Điều
nầy, người tu theo Mật giáo, chuyên trì chú, thì tuyệt đối không được ăn. Vì ăn
những loại nầy, sự trì chú sẽ không được linh nghiệm. Nhưng đối với những người
tu theo Hiển giáo, thì có khác. Vì Hiển giáo không chú trọng vào sự trì chú,
nên Phật không có cấm một cách tuyệt đối. Theo lời giải đáp của Hòa Thượng
Thanh Từ về vấn đề nầy, qua câu hỏi của một Phật tử, được ghi lại trong bộ băng
nhựa giảng giải về 33 vị Tổ Thiền tông Ấn Độ và Trung Hoa, thì Hòa Thượng cho
rằng, người Phật tử tu theo Hiển giáo, thì vẫn có thể dùng được những thứ nầy.
Nhưng như trên đã nói, chỉ được dùng trong một chừng mực nào đó, để ngăn ngừa
trị bệnh mà thôi, chớ không nên dùng thái quá, phản tác dụng mà có hại cho sức
khỏe. Tuy nó là một vị thuốc, nhưng nếu sử dụng quá mức, thì cũng dễ gây ra tai
hại.
Nói
tóm lại, việc kiêng cử Ngũ vị tân, đối với những Phật tử xuất gia hoặc tại gia
tu theo Mật tông, thì tuyệt đối họ không bao giờ dùng. Ngược lại, những Phật tử
tu theo Hiển giáo, thì không có kiêng cử tuyệt đối. Tuy nhiên, nếu Phật tử nào
ăn chay mà gìn giữ kiêng cử không ăn, thì đó cũng là điều rất tốt vậy.
90. Chích lý tây quy (quảy
hài về Tây)
Hỏi: Kính bạch thầy, khi vào các chùa thuộc Phật
giáo Bắc tông, ở hậu tổ, con thấy đa phần các chùa đều có thờ hình Tổ Bồ Đề Đạt
Ma trên vai có quảy một chiếc dép. Con không hiểu về sự tích và ý nghĩa nầy như
thế nào? Kính mong thầy hoan hỷ giải đáp cho con rõ. Kính đội ơn thầy.
Đáp: Tổ Bồ Đề Đạt Ma là vị sơ Tổ Trung Hoa.
Sử ghi lại, Ngài từ Ấn Độ đến Trung Hoa truyền pháp đi bằng đường biển tới
Quảng Châu ngày 21 tháng 9 năm Canh Tý nhằm đời nhà Lương, niên hiệu Phổ Thông
năm đầu (520. TL ).
Sau
khi hội kiến cùng vua Lương Võ Đế, Ngài thấy căn cơ của nhà vua không lãnh hội
được yếu chỉ Thiền tông, nên Ngài rời khỏi Kim Lăng (kinh đô nước Lương) đến
Lạc Dương, trụ tại chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn, trọn ngày ngồi xoay mặt vào vách
im lặng. Nơi đây, Ngài đã độ một vị đệ tử đầu tiên tên là Thần Quang pháp danh
là Huệ Khả. Huệ Khả đã được Ngài truyền tâm ấn và kế vị làm Tổ thứ hai.
Thời
kỳ cuối đời Ngài hiện có nhiều truyền thuyết quan niệm khác nhau. Theo Thiền
Luận, quyển thượng của Thiền sư Suzuki do Trúc Thiên dịch thì: “Những ngày
cuối cùng của Đạt Ma ở Trung Hoa bao trùm trong bí mật; ta không biết rằng bằng
cách nào, lúc nào và tại đâu Sư lìa cõi thế tục nầy. Có người nói Sư bị đối
phương đầu độc, người nói Sư băng qua sa mạc về Ấn…” Tuy vậy, căn cứ Sử 33
vị Tổ Thiền tông Ấn – Hoa do Hòa Thượng Thích Thanh Từ biên soạn, thì Ngài an
nhiên thị tịch tại Trung Hoa nhằm ngày mùng 9 tháng 10 năm Bính Thìn, niên hiệu
Đại Thông năm thứ hai, nhà Lương (529 TL). Nhục thân của Ngài an táng tại chùa
Định Lâm, núi Hùng Nhĩ. Nhưng khi Tống Vân đi sứ Ấn Độ về lại gặp Ngài tại núi
Thông Lãnh, quảy một chiếc dép và đi nhanh như bay. Tống Vân sau khi về Triều
tấu trình mọi sự lên vua, nhà vua liền cho khai quật mộ Ngài, thì quả nhiên
không thấy thi thể của Ngài và chỉ còn thấy có một chiếc dép. Mục kích điều kỳ
diệu nầy, nhà vua liền ra lệnh đem chiếc dép về thờ tại chùa Thiếu Lâm. Từ đó
về sau, các chùa Phật giáo Bắc tông, ở hậu tổ đều có thờ tôn tượng qua hình ảnh
trên vai quảy chiếc dép nầy, gọi là quảy hài về Tây.
Đó
là chúng tôi lược kể về chuyện tích của Ngài. Nhưng tại sao Ngài không quảy một
đôi dép mà Ngài chỉ quảy một chiếc? Vậy quảy một chiếc có ý nghĩa gì? Và tại
sao không xách mà phải quảy trên vai? Đó là điều mà đại đa số chúng ta đều thắc
mắc. Vấn đề nầy, thú thật, thì chúng tôi chưa thấy sách sử nào ghi chép giải
thích, nhưng, theo chỗ học hỏi tìm hiểu của chúng tôi, thì điều nầy, chỉ là
mang một ý nghĩa có tánh cách biểu trưng mà thôi.
Theo
nhà Thiền, muốn giải thoát thì hành giả phải vượt ra ngoài đối đãi vọng chấp
hai đầu. Hiện tại, chúng ta đang sống bị dính kẹt vào lối chấp đối đãi hai đầu:
có, không, phải, trái v.v… Chính vì sự dính mắc nầy mà chúng ta phải chịu triền
miên đau khổ. Vì còn thấy có hai bên là còn có vọng chấp phiền não tạo nghiệp.
Đã có tạo nghiệp là có sanh tử luân hồi nổi trôi để thọ quả báo. Muốn chấm dứt
vòng sanh tử khổ đau, thì hành giả cần phải buông xả vọng chấp hai đầu nầy. Do
đó, một chiếc dép là để biểu trưng cho yếu lý vượt ngoài đối đãi và phải đạt
cho kỳ được diệu lý Nhứt thừa viên đốn.
Còn
quảy trên vai là nói lên ý nghĩa gánh vác đảm đang. Trọng trách của người tăng
sĩ, nhứt là người tu Thiền thì phải có trách nhiệm hoằng truyền chánh pháp. Tục
diệm huệ đăng hay dĩ tâm truyền tâm, để cho chánh pháp được lưu truyền mãi trên
nhơn gian làm lợi ích cho chúng sanh, đó là một trọng trách lớn lao của người
tăng sĩ: “tác Như lai sứ và hành Như lai sự” vậy.
91. Cha ăn mặn con khát
nước.
Hỏi: Kính
bạch thầy, con thường nghe người ta nói câu: “Đời cha ăn mặn, đời con khát
nước”. Con chưa hiểu rõ ý nghĩa của câu nói nầy như thế nào? Và nói như thế có
trái với luật nhân quả hay không? Kính xin thầy hoan hỷ giải đáp cho chúng con
được rõ.
Đáp: Câu nói nầy mới nghe qua, thì dường như
có chống trái với luật nhân quả. Vì theo luật nhân quả, ai làm nấy chịu, không
thể người nầy ăn mà người khác lại no, hay người nầy uống mà người kia đã khát.
Nghiệp quả mình gây, thì mình phải chịu nhận lấy, không ai thay thế cho ai. Thế
thì, tại sao ở đây nói, đời cha ăn mặn, đời con khát nước? Câu nói nầy,
theo chỗ hiểu của chúng tôi, thì nó nói lên cái tác động ảnh hưởng qua lại
trong đời sống gia đình.
Đã
sống chung trong một gia đình, tất nhiên, ngoài biệt nghiệp ra, nó còn có sự
cộng nghiệp trong đó. Nếu không có sự cộng nghiệp, thì chắc chắn không có sự
quan hệ gắn bó tương quan qua tình nghĩa cha con hay vợ chồng. Dù đây là duyên
nợ oan gia chằng chịt của mỗi người với nhau trong quá khứ.
Đã
nói là cộng nghiệp, thì ít nhiều gì cũng có ảnh hưởng với nhau. Theo biệt
nghiệp, thì ai làm nấy chịu. Như cha phạm pháp, thì cha phải chịu tù tội trước
luật pháp, không ai có thể thay thế. Tuy nhiên, nếu xét trên bình diện cộng
nghiệp, thì việc làm của người cha sẽ gây ra ảnh hưởng đến gia đình rất lớn.
Ảnh hưởng tác động qua nhiều phương diện. Như sa sút về phương diện làm ăn, khó
khăn trong vấn đề kinh tế gia đình, ảnh hưởng đến sự học hành của con cái về
mặt lý lịch, vật chất cũng như tinh thần.
Điều
liên hệ ảnh hưởng về việc học hành thi cử nầy, chúng ta thấy rất rõ, sau năm
1975, đa số các con em học sinh trong những gia đình có cha làm sĩ quan cấp lớn
thời quốc gia, đều bị đánh rớt vì lý lịch không tốt. Như vậy, việc cha làm có
ảnh hưởng cho gia đình và con cái là như thế.
Đó
là một cộng nghiệp chung của gia đình phải gánh chịu. Còn người cha bị pháp
luật trừng trị hành hạ đó là nghiệp riêng của ông ta. Từ đó suy ra, hành động
tốt hay xấu của mỗi thành viên trong gia đình hay trong một đoàn thể, rộng ra
là cả quốc gia dân tộc, đều có tác động ảnh hưởng chung. Vì thế mới có những
câu nói : “Tốt lá tốt nem, tốt em, tốt chị. Hay ngược lại cũng thế. Hoặc:
một người làm xấu cả bọn mang nhơ; một người làm tốt cả bọn được nhờ. Một con
sâu làm sầu nồi canh v.v…” Còn và còn rất nhiều những câu nói như thế.
Nếu
làm cha mẹ ăn ở không có đạo đức, thì người con dễ bị hư hỏng. Thí dụ trong gia
đình, người cha thì hay rượu chè say sưa be bét, còn mẹ thì cũng hay thích chơi
bài bạc đỏ đen. Đã vậy, hai người còn xung khắc cãi vã rầy rà với nhau mãi.
Cuộc sống giữa hai người không có một chút hạnh phúc. Cả hai đều sống buông thả
như thế, thì bảo làm sao con cái trong gia đình nên thân cho được? Bởi cha mẹ
thiếu đạo đức, thì làm sao dạy dỗ con cái. Tất nhiên, con cái cũng có cuộc sống
bê tha mà thôi. Điều nầy, đã và đang xảy ra nhan nhãn hằng ngày trong xã hội.
Trong
cuộc đời tương đối, đôi khi cũng có những trường hợp đặc biệt ngoại lệ. Như cây
đắng mà sanh trái ngọt. Có những gia đình, cha mẹ thiếu đạo đức, kém học thức,
nhưng có những đứa con rất ngoan hiền, học giỏi đổ đạt thành tài. Những trường
hợp ngoại lệ nầy, thật sự mà nói, ta thấy rất ít. Đại đa số, đều tác động chịu
ảnh hưởng bởi cộng nghiệp rất lớn.
Tóm
lại, câu nói trên, theo tôi, thì không có gì là chống trái với luật nhân quả
cả. Vì luật nhân quả, ta phải xét qua nhiều mặt. Không thể xét một cách đơn
phương, cục bộ, một chiều được. Bởi lý nhân quả nó tương quan theo ước định của
chiều thời gian. Và sự ảnh hưởng qua lại giữa biệt nghiệp và cộng nghiệp đương
nhiên là phải có. Đời cha gây ra những hành động xấu, tốt, tất nhiên, phải có
ảnh hưởng đến đời con. Nếu đời cha là người ăn ở có đạo đức, hiền từ, có trình
độ học vấn kiến thức khá, và có một đời sống cư xử gương mẫu, thì đời con chắc
chắn là phải có ảnh hưởng tốt đẹp lây. Trường hợp nầy đã xảy ra nhan nhãn trong
xã hội xưa nay.
Ngược
lại, nếu người cha là một người kém đạo đức, đời sống bê tha trụy lạc, có nhiều
tánh xấu, thì tất nhiên sẽ gây tác động ảnh hưởng đến tánh tình và đời sống của
người con rất lớn. Như ăn mặn là nhân mà khát nước là quả. Chính vì cha mẹ ăn ở
không có đạo đức mà có thể gây ảnh hưởng hậu quả cho đời con gánh chịu. Đây là
nhân quả tương đồng tác động ảnh hưởng bởi cộng nghiệp mà ra.
92. Tại sao phải ăn chay
trong các ngày trai giới?
Hỏi: Kính
bạch thầy, người Phật tử ăn chay có ăn chay kỳ và ăn chay trường, con chưa hiểu
tại sao phải ăn chay trong các ngày trai giới? Và những ngày trai là những ngày
gì? Kính xin thầy từ bi giải đáp cho chúng con được rõ.
Đáp: Theo kinh Thế Ký trong Trường A Hàm và
Luận Đại Trí Độ nói, thì những ngày trai là ngày tuần thú của sứ giả các cõi
trời Tứ Thiên Vương và trời Ma Hê Thủ La. Những vị nầy lãnh sứ mạng thị sát
nhơn gian xem sự hành thiện tu tập của nhơn gian như thế nào rồi về tâu lại với
Thiên vương. Nếu như mọi người biết lo làm lành tạo phước như bố thí và hiếu
thảo với ông bà cha mẹ thì số lượng sanh thiên sẽ được gia tăng. Bằng ngược
lại, thì sự sanh thiên sẽ bị giảm thiểu. Do đó, mà ở nhơn gian người ta cố gắng
tu tạo phước lành trai giới, chay tịnh trong những ngày trai để được sinh về
các cõi trời. Đồng thời, vào những ngày trai các vị quỷ thần cũng thường du
hành trong nhơn gian và thường quở phạt gây ra tai họa cho những người không tu
tập, kém phước đức. Chính vì thế, mà Phật dạy các hàng Phật tử tại gia nên cố
gắng tu tạo phước đức vào những ngày chay tịnh. Nhờ tăng trưởng phước đức tu
trì mà có thể vượt qua mọi tai nạn khổ ách.
Trong
một tháng có nhiều ngày trai, tùy theo sự phát nguyện thọ trì trai giới của
Phật tử mà có ra nhiều ngày trai khác nhau. Nhưng chủ yếu là các ngày mùng tám,
mười bốn, rằm và ba mươi. Vì những ngày nầy, các vị Thiên sứ vâng mệnh của
Thiên vương tuần hành thường xuyên để khuyến khích nhơn gian tu phước sanh
thiên. Bởi thế, nên trời Đế Thích có bài kệ tán thán:
Người
nào lấy ngày tám
Mười
bốn, rằm mỗi tháng
Để
tu hành trai giới
Người
ấy đồng với ta.
Ngoài
ra, còn có các ngày trai khác. Nếu người nào ăn chay mười ngày, thì ăn vào các
ngày 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30. Đây gọi là thập trai. Còn nếu ăn sáu
ngày (lục trai) thì: 8, 14, 15, 23, 29, 30 . Nếu ăn bốn ngày (tứ trai) thì: 1,
14, 15, 30. Nếu ăn hai ngày (nhị trai) thì: mùng 1 và rằm. Ngoài ra, còn có tam
nguyệt trai, tức thọ trì trai giới vào những tháng: tháng giêng, tháng bảy và
tháng mười. Có người ăn luôn ba tháng, thì bắt đầu ăn từ rằm tháng tư cho đến
rằm tháng bảy.
Việc
thọ trì trai giới để tu tập tạo thêm phước đức là tùy thuộc vào sự phát nguyện
của người Phật tử. Thông thường, người Phật tử sau khi quy y, tối thiểu phải
thọ trì 2 ngày chay: mùng một và rằm. Vào những ngày trai giới, người Phật tử
nên cố gắng gìn giữ tâm ý mình cho được thanh tịnh bằng cách tụng kinh, niệm
Phật và tu tạo nhiều phước thiện v.v… Đó là điều rất tốt cho người Phật tử bền
chí tu tập vậy.
93. Tượng Phật có từ lúc
nào?
Hỏi: Kính
bạch thầy, con thường phát tâm hỷ cúng tượng Phật cho các chùa, nhưng thú thật,
con chưa hiểu rõ lắm về nguyên nhân do đâu mà có tượng Phật và tượng Phật có từ
lúc nào? Ai là người tạo tạc tượng Phật đầu tiên? Kính xin thầy từ bi hoan hỷ
giải đáp cho chúng con được rõ.
Đáp: Căn cứ vào kinh Phật Thuyết Đại Thừa
Công Đức Tạo Tượng (Đại chính tân tu đại tạng kinh, tập 16, tr. 790a), thì
tượng Phật đã có ngay từ thời Phật còn tại thế. Nguyên khởi là do vua Ưu Đà
Diên, trị vì nước Câu Diệm Di là người đầu tiên dùng gỗ thơm chiên đàn tạo ra
hình tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Kinh
văn nguyên tác rất dài, ở đây, chúng tôi chỉ xin được tóm lược nội dung qua một
vài ý chính như sau: “Sau gần 49 năm thuyết pháp độ sanh, trong mùa an cư cuối
cùng, Đức Phật liền nghĩ đến thánh mẫu Ma Da, nên Ngài tạm xa rời nhơn gian để
lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho thánh mẫu và chư Thiên nghe. Trong thời
gian nầy, vua Ưu Đà Diên, ngày đêm hằng trăn trở thao thức nhớ nghĩ đến Phật.
Vì ông là một Phật tử rất thuần thành và luôn sùng kính Tam Bảo. Do tấm lòng
nhớ nhung tha thiết đó, là động cơ chính yếu thúc đẩy ông phải gấp rút tạo hình
tượng Phật. Đó là một việc làm nhằm mục đích thể hiện lòng khao khát kính
ngưỡng của ông đối với Đức Phật. Đồng thời, ông cũng muốn lưu lại hình
bóng của Đức Thế Tôn trong những lúc Ngài không có mặt ở nhân gian.
Sau
khi nghĩ thế, nhà vua liền ra lệnh triệu tập các điêu khắc gia nổi tiếng trong
nước để điêu khắc tạo hình tượng Phật để chiêm bái. Nhưng, lệnh truyền ra, mà
không có ai dám đảm nhận trọng trách nầy. Vì họ nghĩ rằng, thân Phật tướng hảo
quang minh, oai nghiêm cao quý, hình dung của Ngài siêu trần tuyệt thế, làm sao
có thể tạc tượng chuyển tải được những đức tướng giống hệt Ngài được. Thật là
một việc làm vô cùng khó khăn, nếu không khéo sẽ trở thành đắc trọng tội với
Đức Phật. Do nghĩ thế, mà không một người thợ điêu khắc nào dám nhận lãnh.
Lúc
bấy giờ, có một vị Trời tên là Tỳ Thủ Yết Ma, biết được việc đó, liền biến hóa
ra một người thợ mộc. Vị thợ mộc nầy, liền đến trước mặt nhà vua tâu
rằng: “Muôn tâu Đại vương, tôi là một thợ mộc khéo tay nghề, xin hết lòng
vì nhà vua mà tạo tượng Phật. Việc làm của tôi, quyết không để cho nhà vua thất
vọng. Vậy, cúi xin Đại vương chớ tìm người khác hãy để cho tôi đảm nhận trọng
trách nầy”.
Nghe
qua, nhà vua chấp thuận và ra lệnh phải thi hành ngay. Với bàn tay tuyệt xảo
của vị trời nầy, chỉ trong vòng thời gian một ngày, thì tượng Phật đã được hoàn
tất. Hình tượng Phật điêu khắc tuyệt đẹp, nhà vua rất ưng ý hài lòng. Nhà vua
chiêm ngưỡng trầm trồ khen ngợi, phát hỷ tâm thanh tịnh, liền chứng Nhu thuận
nhẫn. (Nhu thuận nhẫn nghĩa là tâm nhu, trí thuận; theo Vô Lượng Thọ Kinh, thì
nhu thuận là một trong 3 pháp nhẫn : Âm hưởng nhẫn, nhu thuận nhẫn, và Vô sinh
pháp nhẫn). Ngay sau khi chứng được Nhu thuận nhẫn, nhà vua vô cùng hoan hỷ
mừng rỡ, bao nhiêu phiền muộn đều tiêu tan hết.
Về
công đức tạo tượng, cũng theo kinh văn nói trên, Đức Phật dạy rằng: “bất
cứ ai dùng những vật liệu như: tơ sợi thêu thùa tượng Phật hoặc dùng chì, kẽm,
vàng, bạc hay các loại gỗ thơm chiên đàn v.v… tô đắp tạc tượng, khiến mọi người
chiêm ngưỡng lễ bái, thì đều được phước báo vô lượng vô biên. Người đó sẽ được
hình tướng đoan trang và sẽ tiêu trừ được những tội cực trọng”.
Qua
đó cho chúng ta thấy rằng, người tạo nên tượng Phật hoặc người góp tịnh tài hỷ
cúng vào công việc tạo tượng nầy, thì cả hai đều được phước đức rất lớn lao. Vì
người Phật tử góp phần vào việc duy trì Tam Bảo để làm lợi lạc cho nhơn sinh.
Nhờ đó, mà Phật pháp mãi được lưu truyền rộng rãi và cũng nhờ đó mà mọi người
mới nghĩ nhớ đến ân đức cao sâu rộng rãi bao la của Đức Phật. Có tưởng niệm như
thế, người Phật tử mới thiết tha nỗ lực hành trì và quyết lòng noi theo tấm
gương hạnh nguyện từ bi vị tha cao cả của Đức Phật mà gắng công tu hành để
chóng được giác ngộ giải thoát.
Tóm
lại, nhờ vua Ưu Đà Diên mà hôm nay, chúng ta mới có được những tượng Phật để
tôn thờ. Dù điêu khắc hay tô đắp tạc tạo với bất cứ hình thức vật liệu nào, tất
cả cũng nhằm một mục đích chung là mang lại một sắc thái thẩm mỹ để phát khởi
tín tâm của những người hâm mộ sùng bái ở nơi Đức Phật. Thế nên, các nhà điêu
khắc tạo tượng cũng phải có một năng lực chuyên môn và một cảm quan sâu sắc, mới
có thể thực hiện hoàn mỹ công việc nầy. Đó là một phước đức rất lớn lao mà
không phải ai cũng có thể tạo nên được.
94. Tam đức là gì?
Hỏi: Kính bạch thầy, con có nghe băng giảng
nói về tam đức: trí đức, đoạn đức và ân đức. Nhưng con không hiểu ý nghĩa về ba
đức nầy như thế nào? Kính xin thầy hoan hỷ giải đáp cho con hiểu.
Đáp: Tam đức thuộc về pháp số hay danh số.
Tam đức gồm có:
1.
Trí đức hay còn gọi là quán đức nó có nghĩa là, người tu hành cần phải dùng trí
huệ quán sát các pháp đều là hư giả không thật. Nhờ quán sát như thế, nên không
nhiễm trước ở nơi các pháp. Do đó, hành giả sẽ được giải thoát.
2.
Đoạn đức là chỉ cho đoạn dứt hết các thứ vô minh phiền não lậu hoặc.
3.
Ân đức là chỉ cho cái đức ban ân huệ cho chúng sanh. Ân đức nầy là do nguyện lực
của Phật và Bồ tát luôn luôn cứu độ chúng sanh. Người có ân đức là người luôn
có tâm hồn rộng lượng bao dung tha thứ và làm lợi ích cho muôn loài.
95. Ý nghĩa lá cờ Phật
giáo.
Hỏi: Kính
bạch thầy, có người hỏi con về ý nghĩa lá cờ Phật giáo. Họ hỏi tại sao có 5 màu
khác nhau. Vậy 5 màu đó tượng trưng cho ý nghĩa gì? Thật sự con không hiểu, xin
thầy giải đáp cho con rõ.
Đáp: Lá cờ Phật giáo đã được chấp thuận bởi
Hội Nghị Liên Hữu Phật giáo Thế Giới, tổ chức lần đầu tiên tại thủ đô Colombo
Tích Lan, từ ngày 26 tháng 5 năm 1950 đến ngày 7 tháng 6 năm 1950. Lá cờ 5 sắc
là tượng trưng cho Ngũ căn Ngũ lực. Ngũ căn gồm có: tín, tấn, niệm, định,
huệ. Còn Ngũ lực chỉ là tăng sức cho ngũ căn thêm lực dụng mạnh mẽ hơn mà
thôi.
Như
chúng ta tin vào Tam bảo hay lý nhân quả, nhưng lòng tin của chúng ta chưa được
vững chắc mạnh mẽ, nên cần phải có niềm tin vững chắc mạnh mẽ hơn, đó là phạm
vi của tín lực. Nghĩa là có thêm năng lực thúc đẩy niềm tin vững mạnh hơn lên.
Tấn là tinh tấn, tức siêng năng hành trì về một pháp môn nào đó. Như siêng năng
niệm Phật chẳng hạn. Mặc dù chúng ta có siêng năng, nhưng sự siêng năng của
chúng ta chưa được mạnh mẽ, nên cần phải có tấn lực vào, thì sức siêng năng
niệm Phật của chúng ta mới được dũng tiến hơn. Nhờ sức tinh tấn nên chúng ta luôn
luôn nhớ đến danh hiệu Phật mà chuyên trì không gián đoạn. Sự chuyên chú hằng
nhớ, đó là Niệm. Từ niệm chuyên chú lâu ngày thuần thục, thì Định lực phát
sanh. Khi đã có định, tất nhiên là có Huệ. Đó là ý nghĩa đại khái của Ngũ căn
và Ngũ lực.
Tóm
lại, Năm màu của lá cờ là biểu trưng cho ý nghĩa ngũ căn ngũ lực là như thế.
Ngoài ra, nó còn biểu trưng cho ý nghĩa tinh thần hòa hợp của Phật giáo. Phật
giáo luôn chủ trương hòa bình. Cho nên, nhơn loại khắp năm châu, tuy màu da
chủng tộc có khác nhau, nhưng Phật giáo xem nhau như tình huynh đệ một nhà.Với
tinh thần từ bi, bình đẳng, lục hòa, Phật giáo không có phân chia giai cấp hay
phân biệt khác nhau màu da chủng tộc. Vì tất cả đều có chung một nguồn tuệ giác
(Phật tánh) như nhau. Vì vậy, nên lá cờ Phật giáo ngoài ý nghĩa biểu trưng cho
giáo lý, nó còn nói lên tinh thần thích nghi hòa hợp đó.
96. Sự khác biệt giữa
tượng Phật Thích Ca và Phật Di Đà.
Hỏi: Kính
bạch thầy, xin thầy chỉ cho chúng con sự khác biệt giữa hình tượng Phật Thích
Ca và Phật A Di Đà khác nhau ở điểm nào?
Đáp: Sự khác biệt giữa hai tôn tượng Phật
Thích Ca và Phật A Di Đà qua một vài đặc điểm của biểu tướng như sau:
1.
Phật Thích Ca thường trong các chùa Phật giáo Bắc Tông (Đại Thừa) đều thờ Ngài
ở chính giữa chánh điện. Nên gọi Ngài là đấng Trung Tôn, vì Ngài là vị Giáo chủ
cõi Ta bà nầy.
2.
Hình tượng Ngài không nhứt thiết phải giống người Ấn Độ, vì theo quan niệm Phật
giáo Bắc tông, nhứt là Thiền tông cho rằng, mỗi người đều có ông Phật (Phật
tánh) nên người nước nào tạc tượng giống người nước đó. Từ nét mặt cho đến hình
tướng. Nên hình tượng thờ trong các chùa không nhứt thiết phải giống nhau. Đó
là xét trên đại thể, còn các chi tiết thì tương đối giống nhau.
Như
ngồi trên tòa sen, hai bàn tay bắt ấn Tam muội, nhục kế trên đỉnh đầu, đôi mắt
mở ba phần tư, và mặc ca sa (y) v.v… Đó là một vài nét biểu tướng của Phật
Thích Ca. Ngoài ra, các chùa còn có thờ tôn tượng Đức Phật Thích Ca sơ sinh tay
chỉ thiên tay chỉ địa.
Về
Tôn tượng đức Phật Di Đà, thông thường, có hai tượng mà chúng ta thường thấy:
Tượng Ngài ngồi kiết già trên tòa sen, tay kiết định ấn, tương tợ Phật Thích Ca
và tượng đứng trên hoa sen lơ lửng trong hư không, bên dưới là bể cả sóng nổi
lên rất cao, mắt Ngài nhìn xuống, tay trái bắt ấn cam lồ và đưa lên ngang vai,
tay mặt duỗi xuống như sẵn sàng chờ đợi cứu vớt những chúng sanh đang đắm chìm
trong bể khổ. Tượng nầy gọi là tượng Di Đà phóng quang. Về tượng đứng, thường
bên cạnh Ngài có hai vị đại Bồ tát Quán Âm và Thế Chí. Bồ tát Quán Âm thì đứng
bên tay trái và Bồ tát Thế Chí đứng bên tay phải của Ngài. Đây gọi là tượng Tam
Thánh. Về tượng nầy, thì rất dễ phân biệt khác với tượng Phật Thích Ca. Còn về
tượng ngồi, ta nên lưu ý sự khác biệt giữa hai tôn tượng như sau:
1.
Tượng Phật Thích Ca không bao giờ duỗi một cánh tay.
2.
Tượng Phật Thích Ca thường đắp y choàng qua cổ không có đắp y khoát vuông để
trống trước ngực có chữ vạn. Ngược lại, tượng Phật Di Đà có đôi khi người ta
tạc tượng Ngài ngồi tư thế kiết già và duỗi xoè bàn tay mặt. Y khoát cổ vuông
và trước ngực có chữ vạn. Đó là hai nét chính khác với tượng Phật Thích Ca.
97. Bát kỉnh pháp là gì?
Hỏi: Kính
thưa thầy, con nghe nói bát kỉnh pháp mà con không hiểu bát kỉnh pháp là gì?
Xin thầy hoan hỷ giải thích cho con rõ.
Đáp: Bát kỉnh pháp hay còn gọi là bát kỉnh
giới hoặc bát trọng pháp, gọi tắt là bát kỉnh. Đây là tám pháp mà Phật dạy Tỳ
kheo ni phải cung kính tôn trọng Tỳ kheo tăng. Bát kỉnh pháp gồm có:
1.Tỳ
kheo ni dầu 100 tuổi hạ, thấy vị Tỳ kheo tăng mới thọ giới, cũng phải đứng lên
tiếp đón lễ bái và trải tòa sạch sẽ mời ngồi.
2.
Tỳ kheo ni không được chê bai mắng nhiếc Tỳ kheo tăng.
3.
Tỳ kheo ni không được cử tội, nói lỗi của Tỳ kheo tăng, ngược lại Tỳ kheo tăng
được quyền nói lỗi của Tỳ kheo ni.
4.
Thức xoa ma na ( Sa di ni học pháp trước khi thọ giới Tỳ kheo ) học giới xong,
nên theo chúng tăng cầu thọ đại giới.
5.
Tỳ kheo ni phạm tội tăng tàn, nên phải nửa tháng ở hai bộ tăng hành pháp ma na
đỏa.
6.
Tỳ kheo ni nên trong nửa tháng theo Tỳ kheo tăng cầu thọ học.
7.
Tỳ kheo ni không được an cư ở nơi không có Tỳ kheo tăng mà an cư.
8.
Tỳ kheo ni an cư kiết hạ xong, nên ở trong chúng Tỳ kheo tăng cầu xin 3 việc để
tự tứ sám hối. ( Từ Điển Phật Học Huệ Quang tập 1 trang 574 )
98. Bát nạn là gì?
Hỏi: Kính
bạch thầy, con đọc trong kinh thấy nói Bát nạn, nhưng con không hiểu Bát nạn là
gì? Xin thầy hoan hỷ giải đáp cho con được rõ. Cám ơn thầy.
Đáp: Bát nạn còn gọi là Bát nạn xứ hay Bát
nạn giải pháp v.v… Nó có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng tựu trung cũng chỉ cho
tám chỗ mà chúng sanh thọ khổ. Bát nạn gồm có:
1.Nạn
địa ngục: chúng sanh do tạo nghiệp ác, nên phải chiêu cảm quả báo đọa vào
địa ngục, chịu khổ không ngừng, không được thấy Phật nghe pháp.
2.
Nạn ngạ quỷ: Tức là loài quỷ đói. Chúng sanh do tạo nghiệp tham lam bỏn
xẻn nên chiêu cảm thọ sanh vào loài ngạ quỷ phải chịu đói khát khổ sở trăm bề.
3.
Nạn súc sanh: Chúng sanh do si mê tối tăm, hành động phi pháp trái với
luân thường đạo lý, nên phải chiêu cảm quả báo thọ sanh vào loài súc sanh nầy.
4.
Nạn sanh lên cõi trời Trường thọ: Cõi trời nầy thọ mạng dài lâu, bị chướng
ngại không được thấy Phật nghe pháp.
5.
Nạn sinh ở Uất đan việt hay còn gọi là Bắc cu lô châu hoặc Thắng xứ. Vì
người sanh về cõi nầy, họ mãi mê tham đắm hưởng lạc, nên không gặp được Phật
pháp tu hành.
6.
Nạn đui điếc câm ngọng: Tuy sanh được làm người nhưng sáu căn của họ không
được vẹn toàn, nên cũng không được thấy nghe học hỏi Phật pháp.
7.
Nạn thế trí biện thông: hạng người nầy, tuy họ rất thông minh lanh lợi,
chuyên nghiên cứu học sách ngoại đạo, nên họ không tin chánh pháp, không biết
tu hành để được giải thoát sanh tử khổ đau.
8.
Nạn sanh trước Phật và sau Phật: Chúng sanh do nghiệp chướng sâu dầy, nên
sanh ra đời không được gặp Phật.
Đại
khái trong Kinh nói Bát nạn là như thế.
99. Tại sao Bồ tát Địa
Tạng tay mặt cầm tích trượng và tay trái nắm hạt minh châu?
Hỏi: Kính
bạch thầy, mỗi khi lạy Bồ tát Địa Tạng, nhìn thấy Ngài tay mặt cầm tích trượng
còn tay trái thì nắm hạt minh châu, con không hiểu ý nghĩa nầy như thế nào?
Kính xin thầy giải đáp cho con rõ.
Đáp: Tích trượng là một trong những pháp khí
do Phật chế ra. Thời xưa, Phật và các Thánh chúng đi khất thực thường vai mang
bát và tay cầm tích trượng. Công dụng của tích trượng là để dẹp trừ những
chướng ngại vật làm trở ngại bước chân của các Ngài đi. Như rắn rết v.v…
Còn
trên đầu tích trượng sở dĩ có 12 khoen, đó là biểu trưng cho 12 nhân duyên. Đức
Phật do giác ngộ 12 nhân duyên mà được thành tựu đạo quả. Từ đó, Ngài đem 12
nhân duyên để giáo hóa chúng sanh, vì Ngài muốn mọi người đều được giác ngộ đạo
lý như Ngài. Vì thế, tay mặt của Bồ tát Địa Tạng cầm cây tích trượng trên đầu
có 12 khoen là nói lên ý nghĩa tiêu biểu đó. Còn tay trái Ngài nắm hạt minh
châu là tượng trưng cho trí huệ. Vì muốn phá vô minh, cần phải có trí huệ. Một
khi có trí huệ chiếu sáng thì vô minh không còn. Đầu mối của 12 nhân duyên là
vô minh. Nên 12 khoen là tượng trưng cho vô minh. Hạt minh châu là tượng trưng
cho trí huệ. Khi trí huệ bừng sáng như hạt minh châu chiếu sáng, thì bóng tối
vô minh không còn. Ngang đó, sẽ được giải thoát sanh tử chấm dứt mọi khổ đau
ràng buộc. Bởi thế, nên hình ảnh của Bồ tát Địa Tạng là biểu trưng người xuất
gia, khác hơn các vị Bồ tát khác tượng trưng một người cư sĩ tại gia. Tất cả đó
là nói lên ý nầy.
100. Tứ ma là gì?
Hỏi: Kính
bạch thầy, con nghe nói người tu hành hay bị bốn thứ ma làm chướng ngại, nhưng
con không hiểu bốn thứ ma đó là gì? Cúi xin thầy từ bi giải đáp cho con rõ.
Đáp: Trong Kinh Bát Đại Nhơn Giác có câu
nói: “Tồi phục tứ ma, xuất ấm giới ngục”. Nói bốn loại ma đó là:
Phiền não ma, ngũ ấm ma, thiên ma và tử ma.
Bốn
loại ma nầy, làm chướng ngại cho người tu hành rất lớn.
Thứ
nhứt là phiền não ma. Đây là ma trong tâm của mỗi người. Phiền não gồm có
rất nhiều loại, nhưng không ngoài hai loại chính: căn bản phiền não và tùy
phiền não. Căn bản là gốc rễ. Tức là những loại: tham, sân, si, mạn, nghi, ác
kiến. Đây là những loại có gốc rễ sâu dầy thật khó trừ khó đoạn. Chính nó là
nguyên nhân gây ra cho người ta phải đau khổ triền miên.
Còn
tùy phiền não, thì nhẹ hơn, nhưng chúng nó cũng gây ra cho người ta luôn luôn
bất an. Chúng gồm có 20 thứ. Cường độ của chúng, cũng có loại mạnh loại yếu.
Nên các nhà Duy Thức chia chúng ra làm ba loại: tiểu tùy, trung tùy và đại tùy.
Về
tiểu tùy thì có 10 thứ: phẩn, hận, phú, não, tật, xan, cuống, siểm, hại, kiêu.
Trung
tùy gồm có 2 loại: vô tàm và vô quý.
Đại
tùy gồm có 8 thứ: điệu cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm,
tán loạn, bất chánh tri.
Thứ
hai là ngũ ấm ma. Ngũ ấm ma gồm có: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Tại sao
gọi 5 thứ nầy là ma? Vì 5 thứ nầy không thật có mà người ta cố chấp cho là thật
có, rồi từ đó mà tạo nghiệp thọ khổ nên gọi nó là ma.
Thứ
ba là thiên ma. Đây là loại ma vương ở cõi trời Dục giới. Chúng có khả
năng biến hóa khuấy phá nhiễu loạn làm trở ngại sự tiến đạo của hành giả. Loại
ma nầy, khuấy phá Phật khi Phật sắp thành đạo. Vì bọn chúng không muốn cho ai
thoát khỏi ngũ dục. Chúng thấy ai tu hành tinh tấn, không còn mê đắm ngũ dục
lạc thế gian, thì chúng thường hay khuấy phá.
Thứ
tư là tử ma. Tử ma là ma chết. Con người sau khi chết thành loài ma quái yêu
tinh khuấy nhiểu làm người ta sợ hãi sanh bệnh v.v… Hoặc người đang tinh tấn tu
hành, bỗng bị vô thường xảy đến bệnh hoạn hay tai nạn rồi ngã ra chết làm trở
ngại dở dang sự tu hành đó cũng thuộc về tử ma.
Nói
tóm lại, bốn loại ma nầy, lực dụng của chúng đều làm chướng ngại lớn trên bước
đường tu tiến của hành giả. Vì bọn chúng khuấy nhiểu mà làm cho người tu hành
khó được giải thoát./.
------
Hết
0 comments:
Đăng nhận xét