PHÙNG CUNG –
‘CHỮ QUÊ’ KỲ DIỆU
*
Khoảng năm 1986, tôi được mời
đi dự trại viết văn dành cho người viết văn trẻ ở Việt Trì một tháng, xong về
Hà Nội nằm ở “Chòi ngắm sóng” của Phùng Quán chơi thêm cả tuần nữa. Thong dong
thế nên biết được nhiều chuyện lắm. Những ngày đó ngày nào anh Quán cũng đạp
chiếc xe đạp cuốc Liên Xô cao lênh khênh, giải thưởng cuộc thi viết về Lê Nin,
truyện ngắn “Như con cò vàng trang cổ
tích”, chở tôi đi ăn các món Hà Nội và thăm các đại gia văn chương như
Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt,… Một buổi sáng, uống xong mấy chén rượu “diệt sâu
bọ”, anh Phùng Quán bảo: ”Hôm nay mình sẽ
chở Ngô Minh đến thăm một người lạ lùng, người đắt giá nhất trong làng “Nhân
văn” xưa. Một người mà chỉ một truyện ngắn đã phải đánh đổi cả một đời người,
một “nhà thơ chữ quê kiệt xuất” - đó là anh Phùng Cung…”(Tác giả Ngô Minh)
Nghe đến tên Phùng Cung tôi đã
nhớ ngay đến Con ngựa già của Chúa
Trịnh, cái truyện ngắn tai ương một thời, mà ông anh trai mê văn chương
của tôi ở cái làng Thượng Luật heo hút góc biển nam Quảng Bình ấy dấm dúi tha
về không biết từ đâu bản chép tay trong cuốn vở học trò cho tôi đọc thời còn
học cấp hai trường làng. Hồi đó tôi không hề biết truyện ấy bị cấm kỵ, nên cứ
đọc vô tư. Hơn nữa tôi đọc truyện mà chưa hiểu hết ý tứ sâu xa gì, chỉ thương
hoài con ngựa Kim Bồng Thiên lý mã khi đã già, vì bao nhiêu năm chỉ lo phục vụ
trong phủ Chúa với hai chiếc lá đa che hai bên mắt, không được xông pha nơi
chiến trận cho thoả chí tang bồng. Nên khi ra trận sống mái cuối cùng, ngựa Kim
Bồng “chỉ trong chớp mắt nó tụt lại.
Không chịu, nó càng lồng lên. Bỗng nó thấy nhói một cái ở ngang bụng như bị một
nhát gươm chém mạnh. Nó ngã vật xuống, vùi đầu trong bụi lốc của đàn ngựa bay
qua…” .Tôi giục anh Quán: ”Đi ngay đi
anh, “Con Ngựa già của Chúa Trịnh” phải không ?”…
Anh Quán đạp xe chở tôi từ
trường Chu Văn An bên Hồ Tây về đến 135- phố Mai Hắc Đế thì dừng lại. Cửa đóng
kín. Anh Quán dựng xe đạp rồi gõ cửa nhẹ. Một ông già thanh mảnh, lịch lãm mặc
bộ pizama màu trắng, đi guốc mộc, đôi mắt thăm thẳm, long lanh hiền dịu, đeo
kính lão dày cộp, ra mở cửa. Thấy Phùng Quán, gương mặt ông đang từ ưu tư căng
thẳng chuyển sang tươi cười niềm nở. Anh Quán quay sang tôi chữ nghĩa ý tứ: ”Đây là nhà văn Phùng Cung, vừa mới được về
với đời từ mấy năm nay”, rồi lại quay sang giới thiệu với Phùng Cung: ”Thưa anh, em đưa Ngô Minh đứa em làm thơ ở
Huế quê em đến thăm anh”. Ông bắt tay tôi rồi giục: ”Anh em vào nhà đi. Đứng ngoài này nói chuyện không tiện!”.
Tôi nhớ hình như lúc đó ông ở
trong một căn nhà hai gác. Ông dẫn chúng tôi lên gác. Tôi quan sát thấy ở ban
công nhà có cây cau cảnh đặt cạnh cái vại nước nhỏ, một cảnh thu nhỏ thường ở
các làng quê Bắc Bộ. Tôi đã từng sơ tán trọ học ở Kim Động, Hưng Yên hai năm
khi đang học Đại học Thương Mại Hà Nội, thấy nhà nào trong xóm cũng có vại nước
đặt ở đưới cây cau cao ở sân dùng để rửa chân mỗi khi đi đâu về. Còn cây cau
đến mùa ra hoa thơm săn se. Mùa cau ra hoa rụng lấm tấm đầy mặt nước, thơm lưng
lửng. Đó là hồn quê Bắc Bộ. Sau này gia đình nhà thơ Phùng Cung đã chuyển về
Bưởi, chỗ Quần Ngựa. Một lần tôi cũng theo anh Phùng Quán đến thăm, cũng thấy ở
sân ông trồng cây cau, phía dưới có vại nước. Trước khi nhà thơ mất vài tháng,
ông chỉ cây cau và nói với một người bạn tên là Lữ đến thăm nhà: ”Anh thấy không, cây cau nhà tôi èo uột,
không lớn nổi vì thiếu ánh sáng. Nhưng mỗi lần nhìn nó thì tôi nghĩ đến thân
phận đất nước, và tôi càng thấy thương người dân mình hơn. Không giận ai được,
chỉ có thương thôi” (Lữ - Cây cau của Phùng Cung) . “Cây cau - vại nước” là
một hình ảnh đặc trưng, ám ảnh mà mỗi khi nhắc đến Phùng Cung tôi lại nhớ, lại
hình dung ra gương mặt thân thuộc của ông.
Suốt buổi sáng hôm ở phố Mai
Hắc Đế ấy, Phùng Cung điềm đạm pha trà, thủng thỉnh làm từng động tác một. Hình
như ông vừa pha trà vừa nghĩ tới điều gì đó lung lắm. Tôi thấy ông như một thầy
giáo vừa nghiêm trang vừa từ tốn. Sáng ấy chủ yếu hai người Phùng Cung - Phùng
Quán nói chuyện với nhau, còn tôi chỉ ngồi nghe như một đứa trẻ thích hóng
chuyện người lớn. Tôi biết anh Quán cố tình gợi chuyện để Phùng Cung kể cho tôi
nghe cuộc đời đầy tai ương của ông. Phùng Cung kể chuyện đám cưới của ông do
nhà văn Phan Khôi làm chủ hôn, mặc dù cơ quan không đồng ý vì gia đình bên vợ
thuộc “thành phần giai cấp phong kiến bóc lột”, chuyện bí mật làm thơ trong tù…
Chốc chốc ông quay sang hỏi tôi đôi điều về Cố Đô Huế, như thể hiện sự quan tâm
đến “khách đường xa”. Tôi thấy thỉnh thoảng Phùng Cung đang câu chuyện sôi nổi
lại liếc ra cửa với thái độ rất cảnh giác. Quan sát cử chỉ của ông, tôi cứ
tưởng tượng có ai đó đang rình ngoài cửa.
Qua câu chuyện tôi biết Phùng
Cung mới 17 tuổi đã làm Chủ tịch liên xã Hồng Châu –Liên Châu, huyện Yên Lạc,
Vĩnh Yên khi cách mạng Tháng Tám thắng lợi. Có lẽ ông là một cán bộ xã thuộc
loại trẻ nhất nước thời ấy. Chính tên cái xã ấy là do ông đặt người ta vẫn giữ
đến bây giờ. Vì hồi ấy ông là người cách mạng có chữ nhất trong xã. Rồi sau đó,
Pháp tái chiếm Vĩnh Yên, ông lên chiến khu Việt Bắc hoạt động văn nghệ. Rồi vào
Đảng. Phùng Cung mà cũng vào Đảng ư ? Tôi rất bất ngờ khi nghe ông kể ông có
hoàn cảnh đau buồn rất giống tôi là trong Cải cách ruộng đất, bố ông bị quy là
địa chủ cường hào, bị bắt tù và chết trong tù Cò Nỉ, Thái Nguyên. Ông tìm đến
nhà tù để thăm bố nhưng rồi đau xót phục xuống khóc và thắp nhang lạy bố, vì bố
đã thành nấm cỏ trên đồi…Sau này đọc cuốn Cát bui chân ai của Tô Hoài (Nhà xuất
bản Hội Nhà Văn, 1992) tôi mới biết thêm một số nét về cuộc sống của Phùng Cung
ở trong tù. Tô Hoài kể rằng, Phùng Cung mới ra tù, đến thăm Tô Hoài “Dáng cù rù, mặt tái ngoét, không phải Phùng
Cung mà cái bóng của Phùng Cung trên tờ giấy tẩy chỉ mờ mờ. – Còn sống về được
à? – Cũng không hiểu tại sao anh ạ”… Tô Hoài kể, tan lớp kiểm điểm “nhân
văn” ở Thái Hà ít lâu, Phùng Cung bị bắt tù 12 năm không có án, trong đó biệt
giam 11 năm. Đã tù biệt giam, lại bị bệnh lao, thế mà không chết, mới lạ. Có lẽ
nỗi đau đó đã lặn vào hồn, vào tim, đã rèn nên tính suy tư thế sự cuộc đời vô
cùng sâu sắc trong văn chương Phùng Cung chăng? Sau này được đọc bài viết “Nhà thơ Phùng Cung” của Phùng Hà
Thủ, con trai nhà thơ, tôi mới biết thêm nhiều chi tiết cụ thể hơn của cuộc đời
gian truân đau khổ của nhà thơ mà tôi vô cùng yêu mến. Đó là chuyện Phùng Cung
ngày đầu bị bắt trong tháng 5-1961; Những nhà tù mà Phùng Cung từng trải qua;
chuyện Phùng Cung bị các văn nghệ sĩ cùng cơ quan xa lánh, rồi bị chính những
người đó đấu tố, kiểm điểm.v.v.. Tất cả những chuyện ấy làm cho tôi càng thêm
khâm phục, kính trọng nghị lực phi thường và phẩm chất ngòi bút của ông!
Tôi rụt rè hỏi ông: “Em đọc Con ngựa già của Chúa Trịnh
thấy truyện hay thế, nhân văn thế sao lại sự tình khốn khổ thế hở anh?”.
Ông chớp chớp mắt, thở dài: ”Truyện dài
lắm Ngô Minh ạ. Nhưng thôi đừng nói chuyện này nữa, Quán nhỉ…”. Nói rồi ông
đứng lên mở ngắn kéo bàn lục tìm hồi lâu mới lấy ra một tập vở bé bằng bàn tay,
bìa bọc giấy xi măng cáu bẩn, cầm đến đưa cho Phùng Quán: ”Sau mười hai năm khổ ải, mình về với vợ con là mừng. Nghĩ đến tù đày là
sợ lắm, sợ lắm!”. Phùng Cung trầm ngâm: “Quán ạ, mình cố quên hết văn chương. Nhưng không sao quên được. Đêm ngủ
thơ nó cứ kéo về trông mộng. Thế là mình thủng thắng ghi lại từng ngày. Như là
viết nhật ký. Đây là những bài thơ nho nhỏ về chuyện quê nhà. Nhưng bây giờ thì
gay rồi. Hôm qua chú công an khu vực đến chơi nhà, bỗng dưng chú cười hỏi: “Chào
bác Phùng Cung, nghe nói dạo này bác lại viết thơ nữa à?”. Chỉ câu hỏi vui thế
mà làm mình nổi da gà, hai chân loạng quạng đi không vững nữa. Sợ quá. Nhiều
đêm không ngủ được. Tập thơ này toàn hình ảnh quê, mình viết để giải khuây,
không có “chuyện gì” trong đó cả. Nhưng nếu mà họ thu mất thì tiếc lắm. Nên
Quán cứ giữ hộ cho mình cho chắc.” Anh Quán nhận tập vở thơ rồi nói vui “Anh suốt ngày xoay trần làm nghề đập đinh,
rồi rán bánh giúp chị Thoa để bán kiếm tiền nuôi ba con nhỏ đi học, tưởng anh
đã quên mùi bút mực rồi, hoá ra vẫn còn vương vấn…”.
Anh Phùng Quán đưa cho tôi xem
tập thơ chép tay. Tập vở mỏng, giấy học trò đen hùn. Trong đó mỗi trang chép
một đến hai bài thơ, bài nào cũng ngắn, có bài chỉ hai ca câu, bốn năm câu
giống như thơ Haicu của Nhật Bổn, nét chữ Phùng Cung viết bằng bút chì rất nắn
nót, hoa tay, nhưng không ghi tên tác giả. Tôi liếc bài thơ hai câu đầu tiên
tựa đề là “Bèo”, bỗng nổi da
gà: Thơ ghê quá, bất ngờ quá:
Lênh đênh muôn dăm nước non
Dạt vào ao cạn vẫn còn lênh đênh
(Sau này in trong tập thơ Xem đêm, câu thứ hai bị ngắt ra
thành hai câu: Dạt vào ao cạn / Vẫn còn lênh đênh). Chỉ một cánh bèo quê đơn sơ
thôi mà khái quát được cả một phận người! Loại thơ kiệm chữ mà đầy ngẫm nghĩ
này hiếm lắm, quý lắm. Tập thơ nhỏ hút hồn tôi. Thế là tôi vừa tò mò lắng nghe
hai ông anh nói chuyện với nhau, lại đọc ngấu nghiến hết cả tập thơ. Có thể nói
lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với một loại thơ ‘’chữ quê” ấn tượng như thế. Nó
vừa dân gian vừa bác học, vừa tâm can vừa chữ nghĩa: Áo cũ gối đầu / Đêm tỉnh giấc / Sao khuya dạt chân rêu / Lạnh biếc /
Bầu buông chày ngọc / Cõi Lam Kiều / Về bên góc sân con (Góc sân con); Hay Đêm về khuya / Trăng ngả màu hoa lý /
Tiếng gọi đò căng chỉ ngang sông (Đò khuya); Quất mãi nước sôi / Trà đau nát bã / Không đổi giọng Tân Cương (Trà).v.v..
Chao ôi là chữ! Quất nước sôi, Bầu buông chày ngọc, trăng màu hoa lý, tiếng gọi
đò căng chỉ, trái gấc chín ngập ngừng, tiếng tù và bết gió, trời xanh cánh
chấu, nắng ngã tương, sáo diều hóc gió, mảnh trời da báo, mồ hôi xương, nắng bổ
cau, con giun đất mạ vàng.v.v.… Rất nhiêù, rất nhiều, toàn chữ quen mà quá lạ.
Người ta nói mồ hôi da chứ ai nói mồ hôi xương? Vậy mồ hôi xương là mồ hôi gì?
Có lẽ đó là những giọt mồ hôi cuối cùng của con người lao lực, bị vùi dưới đáy
xã hội chẳng ai quan tâm. Rót nước vào ấm trà là “quất nước sôi”, “quất“ chứ
không phải “rót”. “Quất” là “đánh”. Đánh đến mức trà mới “đau
nát bã”. Nhưng kỳ diệu là “không đổi
giọng Tân Cương”, nghĩa là Trà vẫn là Trà Tân Cương chính hiệu. Phải chăng
ông đang nói về đời mình!?
Lao động thơ ghê gớm lắm mới
chiết ra được những chữ quê hút hồn người như thế. Có lẽ ông đã nghĩ đến những
con chữ ấy bao nhiêu lần trong những năm tháng ngồi một mình nơi tù biệt giam
lạnh lẽo không khí chết chóc. Nó giống như gỗ lũa, như đá cuội. Vâng, đời chữ
là đời người. Tôi đã đọc thơ của một số nhà thơ rất tâm huyết trong việc “làm
chũ”. Đối với họ làm thơ trước hết phải là “làm chữ”. Điều đó đúng lắm, quý
lắm. Nhưng hình như chữ ấy của họ vẫn là chữ của thành thị, mang hơi hướng Tây
phương. Còn chữ của Phùng Cung là chữ đẻ ra, luyện nên từ cánh đồng, bờ tre,
mái rạ, hương lúa, hương cau, ánh sáng đom đóm, từ đớn đau, chiêm nghiệm một
đời người trầm luân khổ ải.
Tôi cứ nghĩ, chữ ấy mới là chữ
của hồn thơ Việt. Có thể nói Phùng Cung là bậc thầy về “chữ Việt” trong thơ ca
Việt Nam hiện đại. Thơ là để cho người đọc xúc động ngẩn ngơ, chia sẻ, thơ phải
làm cho người đọc nổi da gà, ứa nước mắt, mới là thơ thật. Còn loại thơ luận
đề, triết lý, người đọc xong chỉ khen nhà thơ thông minh thôi, chứ họ không xúc
động thì không thể nằm lòng được. Thơ Phùng Cung “ý tại ngôn ngoại”, là loại
thơ làm người đọc nổi da gà ! Phùng Cung gọi mùa nước lụt là mùa nước mắt là
rất thật đối với người nông dân đồng bằng Sông Hồng, cũng như chính đời ông: Đê tiền triều gãy khúc / Đồng ngập trắng/
Con lềnh đềnh cõng -vắng - bơi-suông / Thương em dứng giữa mùa nước mắt.
Không phải đó là sự quan sát, ghi nhận, mà đó là tâm cảm, chiêm cảm.
Trên đường về lại Hồ Tây, tôi
bảo anh Quán: “Anh để em giữ tập thơ này
cho. Anh giữ cùng chưa chắc an toàn”. Anh Phùng Quán đồng ý. Thế là tôi
mang vào Huế. Năm 1988, nhờ không khí đổi mới, tạp chí Sông Hương do nhà văn Tô
Nhuận Vỹ làm Tổng biên tập đã trở một tạp chí Văn học hàng đầu của cả nước,
luôn được độc giả trong và ngoài nước đón đọc từng số vì tạp chí đăng rất nhiều
thơ, truyện ngắn, bài viết về “cởi trói”, “đổi mới văn chương” tâm huyết. Tôi
đã chọn hai chùm thơ Phùng Cung và đưa tập thơ viết bút chì của Phùng Cung cho
nhà văn Nguyễn Khắc Phê, lúc đó là phó Tổng biên tập Sông Hương, sau này một
giai đoạn là Tổng biên tập. Tạp chí Sông Hương năm 1988 đã hai lần giới thiệu
thơ Phùng Cung với những bài như Nghiêng
luỵ, Bèo, Người làng, Chiếc lá rụng, Cô lái
đò, rút trong tập thơ chép tay bằng bút chì ấy. Tạp chí Sông Hương số
54 lại giới thiệu một chùm 5 bài thơ của Phùng Cung: Nghe, Người làng,
Bờ ao thu, Xem đêm, Đêm cuối thu. Có thể nói văn chương Phùng Cung lần đầu tiên sau
32 năm kể từ Con ngựa già của Chúa
Trịnh (1956) mới được xuất hiện trở lại, đã gây ấn tượng mạnh đối với
độc giả Sông Hương và cả nước. Chắc chắn những ngày cuối năm 1988 ấy ông vui
lắm.
Gần đây tôi mới biết, khi nhà
thơ Phùng Quán còn sống, một lần nữ nhà văn Hà Khánh Linh ở Huế ra Hà Nội, anh
Phùng Quán cũng dắt đến thăm nhà thơ Phùng Cung ở Bưởi. Buổi trưa hôm đó Phùng
Cung, Phùng Quán và ông Nguyễn Hữu Đang mời cơm nữ sĩ Hà Khánh Linh. Tại bữa
cơm ấy Phùng Cung cũng đưa cho Hà Khánh Linh một tập thơ chép tay như thế,
nhưng viết bằng bút mực, chứ không phải bút chì.. Có lẽ để nhờ nữ sĩ giữ hộ chứ
không phải tặng, vì không thấy đề tặng. Tập thơ gồm 106 bài chép trên giấy in
roneo màu vàng rơm, bìa tập vở học trò bọc loại giấy can bản vẽ cũ. Ở trang đầu
cuốn vở đề tên là Phó Châu. Có lẽ thơ ghi trong hai cuốn vở mà tôi đã đưa cho
Tạp chí Sông Hương và chị Hà Khánh Linh đang giữ đã được chọn vào tập Xem
đêm (200 bài) (Nhà xuất bản Văn hoá thông tin 1995) . Nhưng kẹp trong tập
thơ chép tay chị Linh đang giữ còn có bài thơ mới làm ghi trên hai mặt một tờ
giấy cũ là bài Chiều cun cút,
bài thơ rất hay nhưng không thấy trong tập Xem đêm:
Áo song chàng
Nón lá
Phới về quê
Dệt dạt tối ngày khoai dáy
Lúc thảnh thơi
Quần vận khấu bò
Rong ruổi chốn rau dưa
Tôi gõ rỗ/ Khe khẽ ê a
Chiều cun cút
Một mình
Không lửa không đèn
Nhòm nhõm thâu đêm
Chết thèm cái bóng
Xa là trời sao
Gần là đom đóm.
Mới hay, gửi cho bạn bè giữ hộ
à cách “lưu trữ” thơ của Phùng Cung. Ông phải chép thành nhiều bản để đề phòng
bị mất…
Tôi rất vinh hạnh được gặp
Phùng Cung một số lần nữa ở nhà Phùng Quán. Ông vẫn từ tốn, đĩnh đạc, như cuộc
đời chưa từng bị phong ba bão táp gì. Bao giờ ông cũng lặng lẽ, cười tủm tỉm
với áng mắt chứa chan đồng cảm. Ông cùng mang họ Phùng, nhưng không có huyết
thống gần với Phùng Quán. Phùng Cung quê ở Sơn Tây còn Phùng Quán quê ở Huế.
Trong “đám” tài tử “Nhân Văn” thời ấy, cho đến khi “nằm dài dưới đáy huyệt”,
hai người Phùng Cung-Phùng Quán luôn thuỷ chung son sắt . Phùng Quán ngưỡng mộ
Phùng Cung vì đó là một người luôn sống và viết thực lòng mình, đó là một ngươì
anh cả về tuổi tác cũng như tài năng văn chương chữ nghĩa. Phùng Quán đã làm
hết sức mình để tập thơ “Xem đêm”
của Phùng Cung ra mắt độc giả với sự nhiệt tình đóng góp tiền trong sổ tiết
kiệm hưu của ông Nguyễn Hữư Đang. Còn Phùng Cung thì luôn yêu thương, tin cậy
đối với Phùng Quán. Coi Phùng Quán như một người em can trường, chí cốt. Nên
khi Phùng Quán mất, Phùng Cung là người được bạn bè và gia đình Phùng Quán chọn
mời làm Trưởng Ban tang lễ. Ông đã đọc bài điếu văn “ Sống là thể phách, còn là
tinh anh” cực kỳ cảm động và súc tích. Bài điếu văn ấy cũng là một áng văn
chương tình nghĩa và đẹp thâm hậu mà tôi đã đưa lên trang đầu trong tập sách “Nhớ Phùng Quán” (Nhà xuất bản Trẻ
2002).
Năm 2004, tôi được một bạn văn
ở hải ngoại về nước cho biết, anh vừa được đọc cuốn sách rất giá trị in bằng
tiếng Việt. Đó là cuốn Phùng Cung- Truyện và thơ in rất dày dặn (Nhà xuất bản
Văn nghệ , Mỹ, 2003). Mới hay Phùng Cung không chỉ có “Con ngựa già của Chúa Trịnh”, “Xem đêm”, Phùng Cung còn có rất nhiều thơ và truyện ngắn viết
từ trước khi bị bắt và viết trong suốt 12 năm ở tù như Mộ phách, Chiếc mũ
lông, Dạ ký, Kép nghề, Quản thổi.v.v. Anh bạn tôi bảo trong tập sách này có một số
chuyện hay hơn “Con ngựa già của Chúa
Trịnh”. Tôi chưa được đọc, nhưng tin vào nhận xét của bạn. Chứng tỏ
Phùng Cung là một người lao động văn chương bền bỉ, trong hoàn cảnh khổ cực
nhất ông vẫn viết và viết hay. Tiếc là những sáng tác đó chỉ được in ở hải ngoại,
không được in trong nước!
Trong tôi, Phùng Cung luôn là
một nhà thơ dân tộc tầm cỡ, một nhà văn có bản lĩnh sáng tạo và nhân văn cao cả
và đặc sắc. Nhưng ông cũng là một người viết văn luôn ám ảnh bỡi nỗi sợ hãi
thời đại
….đủng đỉnh
áo thao guốc mộc
ngó đêm
hương cau hồn nước
gió quê
len lén
vén rèm
cú khuya chợt rúc
thắc thỏm
trăng già tái mặt
phòng văn
vội khép
thở dài
xâm xấp mồ hôi trán
Ồ, ngựa chúa
hồn ma
(Một chút Phùng Cung – Ngô Minh)
Tiếc là văn chương của ông đã
không được đến nhiều với độc giả bởi do quá nhiều đa đoan ngáng trở. Tôi cứ
mong ước lúc nào đó xuất bản một tuyển tập văn thơ Phùng Cung chắc thú vị
lắm... Nhưng đến bao giờ? Trong tập thơ Xem đêm có một bài thơ nhà thơ
nhắn gửi với những người làm thơ hôm nay. Đó là bài Tội nghiệp. Để kết thúc bài
viết, mời bạn đọc cùng tôi đọc lại bài thơ đó:
Tội nghiệp nhà thơ
Hợm mình
Lầm lạc
Biết không biết sống
Nên không biết chết
Nửa thế kỷ
Bị lưu đày
Trong cõi tung hô …
Tôi hiểu ông đang nói điều gì
*.
NGÔ MINH
Quê quán: Làng Thượng Luật, xã Ngư Thủy,.
huyện Lệ
Thủy, tỉnh Quảng Bình.
Thường trú (và mất): thành phố Huế.
.............................................................................................................
- Cập nhật
từ email: tranchicuong27@yahoo.com.vn gửi ngày 15.12.2020.
- Bài viết
không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng
ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét