VAI TRÒ MAO TRONG CHIẾN DỊCH
TIẾN CHIẾM
HOÀNG SA 1974
Luồng gió
ngoại giao đã đổi chiều khi Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon bắt tay với Mao
ngày 21 tháng Hai 1972. Chuyến viếng thăm Trung Cộng của Nixon nhắm vào 3 mục
đích: (1) hướng tới một giải pháp hòa bình tại Đài Loan, (2) tìm một giải pháp
hòa bình cho chiến tranh Việt Nam qua đàm phán và (3) giảm ảnh hưởng của Liên
Xô. Như lịch sử đã chứng minh, ít nhất hai trong số ba mục đích của Tổng thống
Richard Nixon đều không đạt được. Chỉ riêng vấn đề Việt Nam, chiến tranh không
chấm dứt bằng giải pháp hòa bình mà bằng máu cho đến ngày 30-4-1975.
Sự gần gũi
giữa Mỹ và Trung Cộng đã đẩy Cộng sản Việt Nam nghiêng xa hơn về phía Liên Xô.
Bắc Việt cho rằng Trung Cộng đã phản bội đảng Cộng sản Việt Nam khi đặt mối
quan hệ giữa Trung Cộng và Mỹ lên trên quyền lợi của Bắc Việt. Xuân Thủy,
trưởng phái đoàn đàm phán của Bắc Việt, tố cáo Mỹ “âm mưu chia rẽ khối xã hội chủ
nghĩa.” Khoảng cách giữa Bắc Việt và Trung Cộng xa cách dần mặc dù Trung Cộng
tuyên bố vẫn tiếp tục “ủng hộ cuộc chiến chống Mỹ đến mục đích cuối cùng.”
Chủ trương chiếm Hoàng Sa trước khi chiến tranh chấm dứt
Sau khi Hiệp
định Paris được ký kết, quan hệ giữa Cộng sản Bắc Việt và Trung Cộng trở nên tệ
hại hơn. Học bài học tranh chấp biên giới với Liên Xô phía Bắc và phát xuất từ
mối lo sợ bị bao vây ở phía Nam, Mao nghĩ đến việc phải tiến chiếm các đảo
ngoài Biển Đông trước khi Cộng sản Bắc Việt chiếm toàn bộ Việt Nam và rơi hoàn
toàn vào quỹ đạo của Liên Xô, lúc đó là kẻ thù số một của Trung Cộng. Mao càng
lo lắng hơn khi thấy chính sách của Hoa Kỳ ngày càng trở lại với chủ trương tự
cô lập (American Isolationism) trước đây trong lúc Liên Xô ngày càng mở rộng và
có khả năng lấn chiếm sang Châu Á.
Ngoài lý do
lãnh thổ, việc tiến chiếm Hoàng Sa là một bước thay đổi quan trọng trong chính
sách đối ngoại của Mao, chuyển từ giai đoạn đấu tranh cách mạng dựa trên quan
điểm Marx-Lenin-Mao sang thực tế quốc tế. Để thực thi các chính sách này, Mao
cần một lãnh đạo có đầu óc thực dụng, và người đó không ai khác hơn là Đặng
Tiểu Bình. Ngày 22 tháng 12, 1973, Mao phục hồi họ Đặng.
Mặc dù già
nua, bệnh hoạn, chủ trương “phục hồi các lãnh thổ Trung Quốc bị mất” là chủ
trương của Mao.
Đặng Tiểu
Bình đóng vai trò tích cực nhưng y chỉ mới được phục hồi chưa đầy một tháng sau
sáu năm bị hạ bệ. Chu Ân Lai chủ tọa nhiều phiên họp của Bộ Chính Trị nhưng
trong thời gian đó họ Chu đang bị kết án hữu khuynh. Diệp Kiếm Anh được giao
trách nhiệm chủ tịch của ủy ban nhưng họ Diệp đã 77 tuổi và thuộc thành phần
tướng lãnh thời Vạn Lý Trường Chinh.
Tháng Giêng
1974, Mao quyết định tiến chiếm Hoàng Sa trước. Kế hoạch chiếm Hoàng Sa được
nghiên cứu rất kỹ lưỡng và chi tiết, không chỉ về mặt quân sự mà cả chuẩn bị dư
luận quốc tế để biện hộ cho hành động xâm lược Việt Nam.
Về mặt đối
ngoại: Để có lý do tấn công Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa, bộ máy tuyên truyền
Trung Cộng tố cáo Việt Nam Cộng Hòa vào tháng 11, 1973 đã bắt giữ tàu đánh cá
Trung Cộng và hành động đó được xem như vi phạm chủ quyền Trung Cộng, buộc
Trung Cộng phải “phản công tự vệ.” Ngày 11 tháng Giêng 1974, Bộ Ngoại Giao
Trung Cộng ra thông báo xác định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và vùng biển
chung quanh quần đảo này: “Các quần đảo Nam Sa, Tây Sa, Trung Sa đều là một
phần của lãnh thổ Trung Quốc. Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có chủ quyền
không thể tranh cãi đối với những hòn đảo này.”
Về mặt tổ
chức: Một ủy ban đặc nhiệm của các lãnh đạo cao cấp nhất trong đảng và nhà nước
Trung Cộng được thành lập để phác thảo kế hoạch tiến chiếm Hoàng Sa được thành
lập trong phiên họp của Bộ Chính Trị do Chu Ân Lai chủ tọa. Năm Ủy viên Bộ
Chính Trị trong ủy ban gồm Thống Chế Diệp Kiếm Anh (Ye Jianying), Phó Chủ Tịch
Trung Ương Đảng Vương Hồng Văn (Wang Hongwen), Ủy Viên Thường Trực Bộ Chính Trị
phụ trách tuyên truyền Trương Xuân Kiều (Zhang Chunqiao), Phó Thủ Tướng Đặng
Tiểu Bình (Deng Xiaoping) và Đại Tướng Tư Lệnh Quân Khu Bắc Kinh Trần Tích Liên
(Chen Xilian). Chu Ân Lai giao cho Diệp Kiếm Anh trách nhiệm điều hành ủy ban.
Mao phê chuẩn thành phần ủy ban
Một phiên
họp mở rộng sau đó, ngoài Chu Ân Lai và năm thành viên còn có sự tham dự của Đô
Đốc Tô Chấn Hoa (Su Zhenhua), Chính Ủy Thứ Nhất của Hải Quân Trung Cộng. Tô
Chấn Hoa là một trong những tướng hải quân có quan hệ mật thiết với Đặng Tiểu
Bình và cũng là người chủ trương bành trướng Biển Đông.
Với một
thành phần lãnh đạo chiến dịch cao cấp và đầy đủ ban bộ như vậy chứng tỏ việc
tiến chiếm Hoàng Sa không chỉ là một tranh chấp biển đảo bình thường mà còn
mang một ý nghĩa chiến lược hàng đầu và phải chiếm Hoàng Sa bằng mọi giá.
Về mặt quân
sự: Đây là lần đầu tiên hải quân Trung Cộng thực hiện một cuộc viễn chinh hải
quân chống lại nước ngoài và lực lượng tham chiến được chọn lựa hết sức cẩn thận.
Bốn ngày sau khi Trung Cộng tuyên bố chủ quyền, 11 chiến hạm của hải quân Trung
Cộng và 600 lính được lệnh tiến vào vị trí. Các phi đoàn chiến đấu cơ đặt trên
đảo Hải Nam được lệnh sẵn sàng tham chiến. Đặng Tiểu Bình trong thời gian này
vừa được giao phó chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung
Quốc và thay mặt ủy ban điều hợp các hoạt động của Quân Ủy Trung Ương cũng như
các vấn đề quân sự khẩn cấp. Bộ Tư lệnh Hạm Đội Nam Hải dưới quyền Tư lệnh
Zhang Yuanpei trực tiếp chịu trách nhiệm tiến chiếm Hoàng Sa.
Kế hoạch
được đệ trình lên Mao và Mao chấp thuận.
Ngày 19
tháng Giêng 1974, Hải Quân Trung Cộng tiến chiếm Hoàng Sa. Sau trận hải chiến
khoảng một giờ, Trung Cộng chiếm Hoàng Sa. Phía Trung Cộng công bố họ chỉ có 18
binh sĩ thiệt mạng và không có tàu nào chìm mặc dù báo chí Tây Phương cho rằng
ít nhất một chiến hạm của hải quân Trung Cộng đã bị bắn chìm. Người viết không
trình bày chi tiết ở đây vì diễn biến của hải chiến Hoàng Sa đã được rất nhiều
tài liệu và nghiên cứu Việt Nam cũng như quốc tế công bố. Rất nhiều thông tin
quý giá đang được lưu trữ tại website hqvnch.org.
Thái độ bàng quan của Mỹ
Chính phủ Mỹ
ra lệnh Đệ Thất Hạm Đội không được can thiệp vì đã đồng ý ngầm với Trung Cộng
sẽ giữ thái độ bàng quan trong tranh chấp Hoàng Sa, và các chiến hạm và phi cơ
của Mỹ sẽ không xâm phạm giới hạn 12 hải lý của quần đảo Hoàng Sa. Cam kết này
của Mỹ đã được Ngoại Trưởng Trung Cộng Hoàng Hoa nhắc lại trong diễn văn đọc
trước Liên Hiệp Quốc ngày 12 tháng Tư 1972 với sự hiện diện của Ngoại Trưởng
Hoa Kỳ Henry Kissinger.
Bản tin của
báo Time ngày 4 tháng Hai 1974 cũng xác định chính sách của Mỹ trong hải chiến
Hoàng Sa là “tuyệt đối khoanh tay.”
Ngoài ra,
trước đó vào mùa xuân 1972, Trung Cộng đã thử ý định Mỹ bằng cách gởi công hàm
phản đối khi một tàu chiến Mỹ vi phạm khu vực 12 hải lý của quần đảo Hoàng Sa.
Mỹ đáp ứng bằng việc chỉ thị hải quân Mỹ sẽ không hải hành trong khu vực 12 hải
lý do Trung Cộng quy định. Thái độ đó của Mỹ là dấu hiệu cho Trung Cộng biết Mỹ
sẽ không can dự vào tranh chấp Hoàng Sa.
Tại sao Trung Cộng chọn ngày 19 tháng Giêng 1974?
Ngày 19
tháng Giêng 1974 là ngày kỷ niệm 24 năm Trung Cộng công nhận nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa. Đây không phải là sự kiện trùng hợp ngẫu nhiên mà là một cái tát
chính trị vào mặt đảng Cộng sản Việt Nam.
Tối ngày 20
tháng Giêng, Chu Ân Lai triệu tập phiên họp để tổng kết thành quả chiến dịch,
và ngay sau phiên họp y đã trình chiến thắng lên Mao. Quần đảo Hoàng Sa của
Việt Nam bị sáp nhập vào địa phận tỉnh Quảng Đông. Các báo đảng và nhà nước
Trung Cộng sau đó đã tung hô “chiến thắng vĩ đại của Mao Chủ tịch trên biển.”
Về phía Cộng sản Việt Nam, ngoài tuyên bố ba điểm chung chung giống như người
ngoài cuộc của cái gọi là “Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” ngày
26 tháng Tư 1974, các lãnh đạo Cộng sản Bắc Việt không có một lời phản đối nào
trước hành động xâm lăng của Trung Cộng. Khi đất nước bị xâm lăng, những kẻ
chọn thái độ im lặng cũng chẳng khác gì chọn đứng về phía xâm lăng.
Bài học lịch sử từ hải chiến Hoàng Sa
– Đừng trông cậy vào ngoại viện: Trong tổng kết mới nhất The
U.S.-China Military Scorecard: Forces, Geography, and the Evolving Balance of
Power, 1996-2017 của RAND Corporation, tuy Trung Cộng đạt nhiều tiến bộ trong
hơn 30 năm hiện đại hóa, kỹ thuật chiến tranh của Mỹ vẫn còn dẫn trước rất xa.
Ngay cả trong vũ khí nguyên tử, tỉ lệ giữa Mỹ so với Trung Cộng là 13 trên 1.
Nghĩa là, dù bắn trước, Trung Cộng vẫn sẽ phải bị Mỹ đánh trả bằng bom nguyên
tử nhiều lần.
Tuy nhiên,
sự vượt trội kỹ thuật chiến tranh không có nghĩa Mỹ sẽ can thiệp vào xung đột Biển
Đông nếu Việt Nam bị Trung Cộng tấn công lần nữa. Vì các lý do kinh tế, Mỹ có
thể làm ngơ như họ đã từng làm ngơ vì lý do chính trị trong hải chiến Hoàng Sa
1974. Bài học của hai cuộc thế chiến cho thấy Mỹ chỉ tham chiến khi quyền lợi
của họ bị va chạm trực tiếp và phải có lợi về đường dài. Không nên trách ai cả.
Một con người hay một quốc gia cũng thế, phải tự đứng lên bằng đôi chân của
chính mình trước khi trông cậy vào sự giúp đỡ của người khác.
– Dân chủ hóa hay mất nước: Tham vọng bành trướng trên Biển Đông của Trung Cộng
quá rõ ràng và lộ liễu. Mặc dù có các áp lực quốc tế, không có dấu hiệu gì cho
thấy Trung Cộng sẽ từ bỏ tham vọng chiếm đoạt Biển Đông. Chủ trương gặm nhấm
Biển Đông của Trung Cộng đang được tiến hành từng bước và chúng hy vọng đến mức
độ nào đó sẽ đặt Mỹ và cả thế giới vào thế đã rồi. Trung Cộng đã nuốt vô thì
chỉ có cách mổ bụng chúng mới lấy ra được.
Để tránh đại
họa mất nước, chọn lựa duy nhất của Việt Nam hiện nay là dân chủ hóa và phải
dân chủ hóa gấp. Dân chủ là điều kiện tiền đề trong chính sách đối ngoại nhằm
tạo sự tin cậy nơi các nước dân chủ Tây Phương, nhưng quan trọng nhất là nền
tảng của đoàn kết dân tộc và thăng tiến đất nước. Một dân tộc chia rẽ không
thắng được Trung Cộng. Dân chủ là đôi cánh giúp đất nước có thể cất cao lên
cùng thời đại. Đó không phải là lý thuyết mà là thực tế chính trị đang được hầu
hết các quốc gia áp dụng. Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất trong tiến trình
dân chủ hóa là tháo gỡ cho được cơ chế chính trị xã hội độc tài Cộng sản hiện
nay.
– Chủ động chiến lược hóa vị trí quốc gia để khỏi bị “Phần
Lan Hóa” (Finlandization): Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Liên Xô cho phép Phần Lan được duy
trì cơ chế dân chủ trong khi khống chế mọi chính sách đối nội và đối ngoại đi
ngược với quyền lợi của Liên Xô. Phần Lan không có chọn lựa nào khác vì không
nằm trong vị trí chiến lược.
Khác với
trường hợp Phần Lan, một Việt Nam dân chủ có khả năng thoát ra khỏi khả năng bị
“Phần Lan Hóa,”đưa đất nước vào vị trí chiến lược quốc tế và chủ động làm cho
quốc tế quan tâm.
Chủ trương
hiện nay của lãnh đạo Cộng sản Việt Nam “không tham gia các liên minh quân sự,
không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt
căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia” là chủ
trương tự sát, không đúng về lý thuyết lẫn thực tế chính trị. Chủ trương này là
bản sao chính sách đối ngoại của Trung Cộng nhưng khác ở điểm Trung Cộng chỉ
tuyên bố để tuyên truyền chứ không bao giờ áp dụng.
Kết luận
Robert D.
Kaplan, nhà nghiên cứu chính trị quốc tế nổi tiếng và đã được tạp chí The
Policy hai lần xếp vào danh sách 100 nhà tư tưởng hàng đầu của thế giới (“Top
100 Global Thinkers”), cho rằng Trung Cộng có khả năng cao sẽ “Phần Lan Hóa”
Việt Nam.
“Phần Lan
Hóa” là một loại chủ nghĩa thực dân trong thời đại toàn cầu. Chủ trương này ít
tốn kém vì các quốc gia bị “Phần Lan Hóa” được phép duy trì độc lập trên danh
nghĩa nhưng chính sách đối ngoại sẽ được soạn thảo tại Bắc Kinh. Trung Quốc làm
như vậy để vừa thúc đẩy nền kinh tế đang tiến rất chậm và đồng thời cũng để
giảm áp lực chống đối từ trong nước qua việc đề cao chủ nghĩa dân tộc. Công
thức mà Trung Cộng đang sử dụng không có gì mới và mô hình phát triển hiện nay
của Trung Cộng cũng không phải là một loại mô hình ngoại lệ (Chinese
exceptionism) như một số lý thuyết gia của đảng Cộng sản Trung Quốc đang dùng
để kết luận Trung Cộng sẽ không sụp đổ.
Một thành
phần có ảnh hưởng trực tiếp vào sự thay đổi cơ chế chính trị nhưng Robert D.
Kaplan không đưa vào phân tích của ông, đó là nhân dân, tức là thành phần những
người dân của một quốc gia có ý thức cao về quyền hạn và trách nhiệm phải thực
thi đối với đất nước. Trong thực tế cách mạng dân chủ, đóng góp của nhân dân là
yếu tố âm thầm nhưng quyết định, tiềm tàng nhưng vô cùng mạnh mẽ như đã chứng
tỏ tại nhiều quốc gia Đông Âu, Phi Châu, và tại Liên Xô cũ. Tại Việt Nam, yếu
tố nhân dân còn giới hạn, chưa tập trung, thiếu tổ chức nhưng đã có và đang
trên đà phát triển. Những hạt giống đã được gieo xuống. Mỗi người Việt, mỗi tổ
chức, đoàn thể trong điều kiện và phương tiện sẵn có của mình nên tập trung
chăm bón.
----------
Tham
khảo:
–
Kuisong, Y. (2002). Changes in Mao Zedong’s Attitude toward the Indochina
War, 1949-1973. Woodrow Wilson International Center for Scholars.
–
Elleman, B., Paine. (2011). Naval Power and Expeditionary Warfare:
Peripheral Campaigns and New Theatres of Navy Warfare. Taylor and Francis
Group.
–
Zhai, Q. (2002). China & The Vietnam Wars, 1950-1975. University of
North Carolina Press.
–
Tonnesson, S. (2001, July). The Paracels: The “other” South China Sea Dispute. Asian
Perspective, 26(4), 145-169
–
Heginbotham, E. et al. (2015). The U.S. China Military Scorecard: Forces,
Geography, and the Evolving Balance of Power, 1996-2017. RAND Corporation.
–
Paracel (Xisha) Islands – 1974. http://www.globalsecurity.org/military/world/war/paracel.htm
–
Brown, D. (2014, May 22). Vietnam Faces “Finlandization” from China. Asia
Sentinel.
–
Wortzel, L. (1999, September 30). Dictionary of Contemporary Chinese
Military History. Greenwood Press.
– The
World: Storm in the China Sea. (1974, February 4). Time.
–
Kaplan, R. The South China Sea is to China what the Greater Caribbean was to
the United States. (2015, June 19). The Globe and Mail.
– Garver,
J. (2016, January 4). China’s Quest: The History of the Foreign Relations
of the People’s Republic of China. Oxford University Press.
–
Lee, L. (1999). China and the South China Sea Dialogues. Praeger.
–
Hayton, B. (2014, October 28). The South China Sea: The Struggle for Power
in Asia. Yale University Press.
–
Trang sưu tầm tài liệu lịch sử Hải Quân Việt Nam Cộng hòa http://www. hqvnch.org
*.
TRẦN TRUNG
ĐẠO
Địa chỉ: Braintree, Massachusetts, Hoa Kỳ.
Email:
trantrungdao@gmail.com
.
.............................................................................................................
- Cập nhật từ email: datinh_1974@yahoo.com, ngày 20.03.2021.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích
đăng lại.
.
LỜI BỘC BẠCH CỦA NGHỆ SĨ THÀNH LỘC VỚI NHỮNG NGƯỜI MẾN MỘ
Trả lờiXóa"Hồi còn làm Ban Giám Khảo của VN’s Got Talent đến mùa thứ 2 thì có một bạn hâm mộ tại Hà Nội đã lấy chân dung tôi, Huy Tuấn, Thuý Hạnh và MC Thanh Bạch ghép vào hình ảnh nhóm thầy trò đường tăng Tam Tạng đi thỉnh kinh trong Tây Du Ký để bày tỏ lòng ngưỡng mộ. Tôi có nói với bạn ấy (qua facebook thôi) rằng tôi cảm kích lòng ngưỡng mộ của bạn ấy dành cho chương trình và riêng BGK&MC, nhưng xin đừng ghép tôi vào cái nhóm văn hoá Trung Quốc vì tôi không muốn trông thấy hình ảnh chính mình lại khoác bộ trang phục của họ để cổ suý cho một nền văn hoá của một quốc gia đang xâm lấn lãnh thổ và làm hại người dân nước tôi mỗi ngày trên biển đảo!
Bạn ấy bảo tôi cực đoan, chính trị là chính trị mà nghệ thuật là nghệ thuật! Tôi nói trước đây tôi cũng đã từng nghĩ như vậy nhưng bây giờ thì không vì chính Trung Quốc cũng đã không nghĩ như vậy, họ là những kẻ xảo ngôn nên ta không cần phải tôn trọng và hãy lấy hình ảnh tôi ra khỏi bức ảnh ấy, người bạn này đã tỏ ra thất vọng và miệt thị tôi khá nặng! Lúc đó tôi có nghĩ chắc bạn này là một dư luận viên.
Trong đợt kỷ niệm cho sự kiện của một hội chuyên ngành về sân khấu, người ta muốn dựng lại một số vở kịch lừng danh của nhà hát sân khấu nhỏ 5B mà một thời tôi đã gắn bó tài nghệ mình nơi đó, chỉ là một đợt hoạt động mang tính sự kiện thôi nhưng trong đó có vở Lôi Vũ (tác giả Tào Ngu - Trung Quốc) mà tôi đã thành công nhiều với vai Chu Xung. Tôi từ chối tham gia cũng vì lý do trên, không thể khác!
Không thể viện lý do nghệ thuật khác với chính trị để chính mình tự làm tổn thương lòng tự trọng dân tộc của mình. Khi hai quốc gia còn là bạn bè tôn trọng chủ quyền của nhau thì nghệ thuật còn làm thăng hoa nhau được, chứ ai lại có thể đi tôn vinh văn hoá của một quốc gia nó bắn giết dân ta, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của ta từng ngày từng giờ được? Tôi đã nói rõ quan điểm của mình như vậy với ban tổ chức và không hiểu sao sau đó đợt sự kiện đó cũng ngưng lại luôn, chắc vì không có kinh phí chứ không phải là từ tôi, tôi chỉ là hạt cát trong cái sa mạc showbiz Việt nhu nhược nầy!
Cũng như có lần tôi từ chối làm đại sứ hình ảnh cho một sản phẩm của Trung Quốc (họ đài thọ tôi du lịch miễn phí bên đó) thì cũng có vài người bảo tôi dại đã để vuột khỏi tay 1 cây cờ!!!
Rồi bây giờ là một danh sách dài ngoằng các tài tử minh tinh điện ảnh và nghệ sĩ của Trung Hoa lục địa mà “thần dân” xứ Việt chết mê chết mệt đã lên tiếng ủng hộ cái gọi là “đường lưỡi bò” láo xược trên biển Đông của chính quyền Trung Quốc, họ phản đối phán quyết của toà án quốc tế, bất chấp luật pháp và đi ngược lại với lương tri thế giới. Những cái tên như Phạm Băng Băng, Triệu Vy, Huỳnh Hiểu Minh, Lục Tiểu Linh Đồng… vốn đã xem chúng ta là thần dân của họ, tài nguyên nước ta là tài sản của quốc gia họ từ bao đời nay rồi! Vậy có đúng là nghệ thuật kinh tế đi trước để lót đường cho chính trị và xâm lược đi sau không?
Các văn nghệ sĩ, các fans hâm mộ những soái ca, tỉ tỉ, những thứ ngôn tình hay nam thần ngọc nữ gì đó…..hãy tỉnh táo và sáng suốt mà lo bảo vệ những giá trị văn hoá Việt còn sót lại trong mong manh và chỉ có chúng ta mới là những người phải thể hiện lòng tự tôn dân tộc mình. Tôi không kêu gọi kỳ thị mà tôi kêu gọi sự thức tỉnh!"
Thành Lộc