ĐỌC SÁCH
‘NGƯỜI
XƯA CẢNH TỈNH’
Nếu
cần một ca để minh chứng cho tánh xấu của người Việt, các bạn chỉ cần đến những
khu đông người Việt (ví dụ như ở Úc) là thấy ngay. Nơi tôi đậu xe có 5 tầng, có
thể chứa hơn 400 (?) chiếc xe hơi. Sáng thứ Hai nào cũng rất sạch sẽ vì nhân
viên của Hội đồng thành phố đến quét dọn và làm sạch tất tần tật. Nhưng những
ngày sau đó thì mức độ dơ bẩn cứ tăng dần và đạt đỉnh điểm vào ngày Chủ Nhật.
Đến ngày Chủ Nhật, khu đậu xe 5 tầng là một bãi rác lớn, gồm đủ thứ đồ thải, từ
thức ăn và thức uống thừa, các hộp plastic, hộp giấy, và nay thì thêm cả ...
khẩu trang vung vãi khắp nơi. Nhìn toàn cảnh phải nói là còn dơ bẩn hơn cả
những trạm đậu xe ở Việt Nam!
Đây
là khu tập trung đông người Việt ở Sydney. Đa số những người đậu xe ở đây là
người Việt, người Hoa, và cả người Trung Đông (có lẽ ít hơn). Có thể nói không
ngoa rằng cả 3 sắc tộc này đều mang tiếng là ... ở dơ. Không biết ai hơn ai về
cái thói ở dơ, nhưng nhìn cảnh họ vứt rác bừa bãi thì phải nói là kinh khủng.
Họ thản nhiên mở cửa xe quăng rác xuống đường. Họ vô tư mở cửa xe hỉ mũi vào
không khí và người đi sau có thể ... lãnh đủ. Họ không quan tâm gì đến vệ sinh
công cộng, và cũng chẳng quan tâm đến người phía sau. Dĩ nhiên, không phải
người Việt nào cũng vậy, nhưng chỉ một thiểu số như vậy cũng đủ để chúng ta xấu
hổ. Người quét dọn cái nhà đậu xe nghĩ gì, khó ai biết, nhưng chắc chắn họ
không đánh giá cao người Việt chúng ta.
Tôi
thỉnh thoảng hỏi một 'thủ phạm' sao vứt rác như vậy, thì câu trả lời rất thú
vị. Họ nói rằng chẳng cần quan tâm, vì hành vi của họ là tạo công ăn việc làm
cho nhân viên của Hội đồng thành phố! Nhưng hình như họ không nghĩ rằng chúng
ta -- và cả họ -- phải trả tiền thuế để trả lương cho những người nhân viên đó.
Vả lại, cách lí giải đó là một nguỵ biện cho hành vi kém văn hoá của một cộng
đồng.
Điều
đáng nói ở đây là những đồng hương này đã tiếp xúc với 'thế giới văn minh'. Họ
đã sống trong xã hội Úc này một thời gian, một xã hội rất quan tâm đến vấn đề
vệ sinh công cộng. Như tôi nói, chỉ có một số ít người Việt xả rác như thế
thôi. Những người ở Úc lâu năm (ví dụ như trên 10) thì chắc không xả rác bừa
bãi như tôi mô tả và cũng không có suy nghĩ kiểu 'tạo công việc cho người
khác'. Thế hệ người Việt thứ hai thì chắc chắn là không xả rác như thế. Chỉ có
thể suy đoán là hành vi xả rác đó hay thấy ở người Việt mới đến Úc định cư, hay
người Việt chưa quen với văn hoá vệ sinh công cộng. Văn hoá mang tính di
truyền, và rất có thể họ đem những 'nét quê hương' sang Úc. Cũng có thể thời
gian dài chưa đủ để tiến hoá đến hành vi văn minh. Dù lí do gì thì họ cũng làm
xấu hổ người Việt.
Câu
chuyện tôi kể chỉ để nhằm giới thiệu một cuốn sách mới có tựa đề là "Người
xưa cảnh tỉnh" (1) của hai soạn giả Trần Văn Chánh và Vương Trí Nhàn. Đây
là cuốn sách thuộc vào nhóm sách 'học làm người' thời nay.
Những
sách cảnh tỉnh, vạch ra những thói hư tật xấu của một dân tộc không phải là
mới, nhưng mới với Việt Nam. Người Mĩ đã có "The Ugly American"
(Người Mĩ xấu xí). Người Úc có "The Ugly Australian" (Người Úc xấu
xí). Người Nhật cũng có một cuốn sách tương tự. Gần chúng ta hơn, người Hoa
cũng đã có một cuốn sách như thế. Thật vậy, đúng 20 năm trước, tác giả Bá Dương
(Bo Yang) đã làm cho cả thế giới và cộng đồng người Hoa xôn xao khi ông cho
xuất bản cuốn sách 'Xú Lậu Đích Trung Hoa Nhân' ('Người Hoa Xấu Xí'). Trong
sách, Bá Dương (người Hoa sống ở Đài Loan) liệt kê và phê phán không khoan
nhượng những nét văn hóa, những thói quen, những hủ tục 'xấu xa' của người Hoa.
Ông không có một chữ nào để viết về những nét văn hóa 'đẹp' của Trung Hoa. Cuốn
sách được bán rất chạy, và trở thành đề tài bàn luận của hầu hết các tầng lớp
xã hội, từ giới bình dân đến trí thức. Cuốn sách được dịch sang tiếng Anh dưới
tựa đề 'The Ugly Chinaman and the Crisis of Chinese Culture' (và đã tái bản 3
lần), được xem là 'cẩm nang' của người phương Tây để hiểu biết hơn người Hoa.
Nhưng
người Việt thì chưa có một cuốn sách hoàn chỉnh như những cuốn 'ugly' đề cập
trên đây; có lẽ cuốn 'Người xưa cảnh tỉnh' là gần nhứt. Tuy chưa có, nhưng các
học giả Việt Nam trong quá khứ đã nhiều lần nói lên những tính xấu của người
Việt. Họ viết ra những điều đó trong nhiều dịp và bối cảnh khác nhau, có khi
rất cá nhân, nhưng nói chung là rất rải rác và rời rạc. Chúng ta chưa có một
tổng luận có hệ thống về thói xấu của người Việt.
Sách
là một loại 'anthology' hay tập hợp những đoạn văn của các học giả Việt viết về
tính cách và thói quen của người Việt. Đó là những học giả sống vào thế kỉ 19
và đầu thế kỉ 20 như Nguyễn Trường Tộ, Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh, Trần Trọng Kim, Phan Khôi, Nguyễn Văn Huyên, Huỳnh Thúc
Kháng, Ngô Tất Tố, Ngô ĐứcKế, Đào Duy Anh, Hoàng Đạo, Hoàng Cao Khải, Nguyễn
Trọng Thuật, Phạm Quỳnh, Dương Bá Trạc, v.v. Họ viết ra những nhận xét đó trong
các bài báo và khảo luận văn hóa. Thời gian họ viết ra trong những năm cuối thế
kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, khi nền báo chí học thuật Việt Nam bắt đầu khởi sắc.
Những nhận xét đó được viết bằng thể văn có khi là học thuật, có khi là ngôn
ngữ thô, nhưng nhiều khi là châm chọc.
Trong
'Người xưa cảnh tỉnh' hai soạn
giả Vương Trí Nhàn và Trần Văn Chánh mượn những lời nhận xét của các học giả đó
để cảnh tỉnh người Việt ngày nay. Đó là một cuốn sách không hẳn dễ đọc, nhưng
khi đã đọc thì khó buông được, bởi vì hình như người đọc có thể tìm thấy hình
bóng của chính mình hay những người chung quanh trong từng câu chữ trong sách.
Sách
gồm 2 phần: phần đầu là sưu tập những câu nói của các học giả, và phần hai là
tổng luận. Phần I được sưu tập bởi tác giả Vương Trí Nhàn (Hà Nội). Phần II
được viết bởi tác giả Trần Văn Chánh (Sài Gòn). Phần đầu, Vương Trí Nhàn sưu
tập đến 260 câu nói của các học giả. Ông sắp xếp các phát biểu đó dưới 13 tiểu
mục: ăn ở, cư trú và mối liên hệ với thiên nhiên; tệ nạn xã hội; dân trí và ý
thức xã hội; giáo dục; giao lưu tiếp xúc; tìm tòi học hỏi và tiếp nhận người
nước ngoài; làm ăn buôn bán; nói năng, suy nghĩ, lễ nghi, phong tục; quan hệ
giữa người với người; tổ chức quản lí làng xã; tổng quát về người Việt; trí
thức quan lại; và văn hóa nghệ thuật và học thuật. Phần tóm tắt có thể xem dưới
đây (2). Như có thể thấy, đó là một danh sách dài những thói hư tật xấu của
người Việt.
Có
thể xem cấu trúc quyển sách như là một tiểu luận mang tính học thuật định tính.
Phần đầu là những dữ liệu (hay nói 'chứng cứ' cũng được), và phần hai là diễn
giải những dữ liệu đó và đặt chúng vào bối cảnh hiện tại. Do đó, đọc phần đầu
thì có thể hơi nhàm vì dữ liệu (260 câu trích dẫn), nhưng đọc phần hai thì thấy
thú vị hơn vì người đọc sẽ hiểu những dữ liệu đó có ý nghĩa gì, và biết được
những cách nhìn của tác giả. Bài tổng luận (tác giả gọi là 'tổng thuật') bắt
đầu bằng một trường hợp liên quan đến một tiếp viên của Vietnam Airlines bị tạm
giam ở Nhật vì nghi ngờ xách lậu hàng ăn trộm về Việt Nam, và tác giả Trần Văn
Chánh bàn về những thói quen không mấy hay ho của người Việt. Tác giả trích lại
nhận xét của học giả Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược về người Việt: 'Tâm
địa thì nông nổi, hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trương
hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma quỷ, sùng
sự lễ bái, nhưng mà vẫn không nhiệt tin tông giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói
khoác.' Tác giả cho rằng nhận xét đó khá đúng với tâm tánh của người Việt (dĩ
nhiên là nói chung), dù nhiều người không muốn nhìn nhận điều đó. Tác giả Vương
Trí Nhàn đi đến nhận xét rằng 'Thói xấu lớn nhất của người Việt là rất sợ nói
về thói xấu của mình.'
Cũng
như sách của Bá Dương, quyển 'Người xưa cảnh tỉnh' không có một lời nói nào tốt
về người Việt, đơn giản vì đó không phải là mục tiêu của sách. Mục tiêu là mượn
lời nói của người xưa để cảnh tỉnh người Việt thời nay. Người Việt thời nay,
bên cạnh những nét văn hóa hay, còn có rất rất nhiều thói quen và quán tính chỉ
có thể mô tả bằng một cụm từ: khó hòa nhập với thế giới văn minh.
Đó
là những thói quen và quán tính mà tác giả Vương Trí Nhàn và Trần Văn Chánh đề
cập đến trong sách. Sách còn có những trích dẫn mà nếu đối chiếu lại ngày nay
cũng khá thời sự tính, như nền giáo dục giết chết nhân cách (Đào Duy Anh) và
nền giáo dục bị thương mại hóa (Thái Phỉ). Những thói như loanh quanh chỉ những
ăn uống (nhận xét của Phan Kế Bính), mê muội hưởng lạc (Nguyễn Trường Tộ), mê
tín gây lãng phí, ăn uống chơi bời bên cạnh nỗi đau của người khác (Phan Kế
Bính), thạo sử người hơn sử mình (Hoàng Cao Khải), học đòi làm dáng sống sượng
(Nguyễn Văn Vĩnh), chỉ biết học cái bề ngoài (Phạm Quỳnh), hiếu danh đến mất tự
trọng (Phạm Quỳnh), chỉ trích và châm chọc (Lương Đức Thiệp), hay nghi ngờ và
hại nhau trong công việc (Phan Bội Châu), khinh miệt cá nhân (Hoài Thanh), mưu
danh bằng cách hạ nhục kẻ khác (Hoa Bằng), v.v. tất cả đều dễ dàng nhận ra
trong xã hội ngày nay.
Một
câu hỏi đặt ra là những thói xấu vừa đề cập có phải là 'văn hóa'. Nếu lí giải
rằng cái nền văn hóa Việt Nam là nguyên nhân của những thói hư tật xấu đó có vẻ
đơn giản hóa vấn đề, bởi vì người Việt ở nước ngoài có vẻ có ít thói xấu như
thế so với người trong nước, và ngay cả ở trong nước cũng có sự khác biệt lớn
về lề thói ứng xử giữa người miền Bắc và miền Nam trước 1975, hay sau và trước
1975. Tức là có một yếu tố khác, hơn là văn hóa, có thể giải thích tại sao
những cái mà tác giả gọi là 'thói hư tật xấu' của người Việt. Tôi nghĩ rằng đó
là thể chế chính trị - xã hội. Khi nói 'thể chế', tôi muốn nói đến cái tiếng
Anh gọi là 'institution', chứ không hẳn là chế độ chính trị. Nhưng dĩ nhiên, có
người sẽ nói chế độ đẻ ra thể chế văn hóa, nên người ta cũng có lí do qui về
chế độ.
Có
nhiều nghiên cứu cho thấy người Á châu, kể cả người Việt, ít tin tưởng vào
người lạ hơn là người Âu châu. Có lẽ vì văn hóa Á Đông phân biệt tương đối rạch
ròi giữa Trong Nhóm và Ngoài Nhóm. Người Trong Nhóm dễ tin hơn người Ngoài
Nhóm. Và, có người chỉ ra rằng các tập đoàn kinh tế người Hoa thường do người
trong gia đình nắm quyền điều hành, còn các tập đoàn kinh tế Âu Mĩ thì ít có
'thể chế gia đình trị' đó, và do đó có thể giải thích tại sao nhiều tập đoàn
kinh tế Á châu khó vươn ra 'biển lớn'. Riêng trường hợp Việt Nam, mới có một
cuộc điều tra xã hội cho thấy có khoảng 23% là người ta tin tưởng lẫn nhau, và
có đến 80% người trả lời sẵn sàng lợi dụng người khác để hưởng lợi cho mình,
nói lên một xã hội bị sứt mẻ niềm tin nghiêm trọng. Với một xã hội như thế thì
chúng ta khó kì vọng gì lành mạnh và tươi sáng cho tương lai, cũng giống như
bên Tàu, dù kinh tế có phát triển đây đó nhưng thế giới vẫn xem người Hoa là
một loại hạng hai.
'Người xưa cảnh tỉnh' có thể làm cho
nhiều người cau có, thậm chí giận dữ, bởi vì tác giả chỉ nêu lên những thói xấu
của người Việt. Nhưng nếu có những nhận xét giận dữ và phản ứng hằn học với
quyển sách thì điều đó chỉ thêm minh chứng về tính xấu của người Việt mà thôi.
Tuy quyển sách chưa phải là một quyển 'Người Việt Xấu Xí' (chứ chưa chắc 'xấu
xa') như cuốn của Bá Dương, vì tác giả chỉ 'mượn' người xưa, chứ chưa trực diện
tấn công như Bá Dương. Tuy nhiên, những lời của người xưa và lí giải trong sách
cũng đáng để chúng ta tham khảo.
Nhưng
mục tiêu của tác giả là cảnh tỉnh người thời nay. Cảnh tỉnh để tự sửa mình. Khi
được hỏi người Việt nên bắt đầu từ đâu để tự sửa mình, tác giả nghĩ đến giáo
dục và luật pháp. Tôi nghĩ đó có lẽ cũng là câu trả lời nhiều người nghĩ đến,
nhưng chưa đủ. Giáo dục và luật pháp chịu sự chi phối nặng nề của thể chế chính
trị, cho nên tôi nghĩ cái gốc và cũng là nơi khởi đầu chỉnh sửa chính là thể
chế. Ngoài thể chế, tôi nghĩ vai trò của tôn giáo độc lập cũng vô cùng quan
trọng. Có rất nhiều nghiên cứu tâm lí xã hội ở phương Tây cho thấy mối liên hệ
dương tính giữa đạo đức xã hội, đạo đức cá nhân và mức độ hoạt động độc lập của
tôn giáo. Do đó, cảnh tỉnh là ở cấp độ cá nhân, dù rất quan trọng, nhưng vẫn
cần phải có sự tác động của 'hệ thống' thể chế và tôn giáo.
'Người
xưa cảnh tỉnh' cũng có thể ví như là một tấm gương. Tấm gương đó có tác dụng
phản chiếu để mỗi chúng ta nhìn thấy những tì vết tâm lí của chính mình mỗi
ngày. Tôi nghĩ cuốn sách xứng đáng có mặt trong tủ sách của mỗi gia đình người
Việt. Tác giả Bá Dương đã qua đời năm 2008, và trước ngày qua đời ông nhận định
rằng cuốn sách 'Người Trung Hoa Xấu Xí' của ông đã giúp cho người Hoa tốt hơn.
Chúng ta cũng hi vọng rằng quyền 'Người xưa cảnh tỉnh' của hai tác giả Vương
Trí Nhàn và Trần Văn Chánh cũng có tác động tích cực như thế cho người Việt
trong tương lai.
*.
NGUYỄN
VĂN TUẤN
Địa chỉ: Viện Nghiên cứu Y
khoa Garvan
thành phố Sydney, Australia
…………………………………………………………………………
- Cập nhật từ messenger facebook Trần Hải Sơn ngày
16.02.2021.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét