Nhà phê bình HOÀI THANH
TRONG ‘HỒI KÝ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH’
*
(Tác giả Nguyễn Đăng Mạnh) |
Tôi được tiếp xúc với
Hoài Thanh nhiều lần.
Hồi công tác ở một cơ
quan của Tỉnh đảng bộ Thái Nguyên, tôi đã được nghe ông nói chuyện về thơ kháng
chiến, tại một địa điểm ở thị trấn Phúc Trìu. Tiếp đó tôi học ở trường sư phạm
trung cấp trung ương (đóng ở Chợ Ngọc, Tuyên Quang). ở đây tôi lại được nghe
ông nói về đề tài ấy một lần nữa. Cả hai lần đều vào năm 1949.
Khi tôi về học ở Đại
học sư phạm Hà Nội (từ 1957 – 1960) thì ông đến dạy mấy bài về văn học Việt Nam
thời trung đại: Kiều, Cung oán, Hoa Tiên, Phan Trần…
Sau này, được giữ lại
làm cán bộ giảng dạy đại học, lúc đầu ở Đại học Sư phạm Vinh, sau ở Đại học Sư
phạm Hà Nội, tôi luôn đến ông để hỏi về tình hình văn học thời trước cách mạng
tháng Tám và về kinh nghiệm phê bình văn học (Khi ở Nguyễn Thượng Hiền, khi ở
Trần Quốc Toản).
Hầu hết những ghi
chép của tôi về ông, tôi đã sử dụng trong bài chân dung đặt tên là “Hoài
Thanh, con người sinh ra để đọc thơ, bình thơ”. Ở đây tôi chỉ xin ghi một
số điều về ông mà tôi chưa có dịp viết ra hoặc viết ra chưa đầy đủ.
Có lẽ một trong những
điều khổ tâm nhất của Hoài Thanh là hầu hết các cây bút cùng thời với ông và
cùng theo cách mạng như ông, đều gọi ông là “thằng nịnh” (Nguyễn
Tuân, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên…)
Cho nên Xuân Sách có
thơ:
Vị nghệ thuật nửa đời người
Nửa đời còn lại vị người cấp trên.
Tôi nghe nói,
hồi kháng chiến chống Pháp, ở chiến khu Việt Bắc Hoài Thanh luôn luôn sát cánh
với Tố Hữu, luôn gần gũi trò chuyện thân mật với Tố Hữu, trong khi anh em khác
thường lảng đi chỗ khác, sợ mang tiếng cầu thân với cán bộ lãnh đạo. Tâm lý anh
trí thức thường như thế. Và họ phản ứng với thái độ của Hoài Thanh.
Tôi thì cho rằng,
Hoài Thanh là con người sống bằng tình cảm. Hồi cách mạng tháng Tám, ông ở Huế.
Lúc ấy Tố Hữu còn rất trẻ mà đã làm chủ tịch uỷ ban khởi nghĩa của Huế. Một
thanh niên vào tù ra tội, lại là một thi sĩ thật sự và cũng mê Kiều như ông,
hợp với ông, nên ông phục lắm. Tố Hữu cũng rất quý và tin cậy Hoài Thanh. Khi
được gọi ra Bắc để lãnh đạo văn nghệ, người đầu tiên Tố Hữu cần gặp là Nguyễn
Tuân. Tố Hữu đã nhờ Hoài Thanh đến Nguyễn Tuân, thương lượng và hẹn thời gian,
địa điểm gặp (Nguyễn Tuân hẹn gặp ở nhà hàng Thuỷ Tạ bờ hồ Hoàn Kiếm). Tố Hữu
còn là chỗ dựa về chính trị của Hoài Thanh nữa.
Từ Sơn, con Hoài
Thanh, có lần nói với tôi: có một bữa, ông Hoài Thanh nằm trên giường, có vẻ
mệt. Bỗng ông nói với con: “Cha mà không có anh Lành thì Bùi Công Trừng nó
giết cha rồi!” Té ra là thế! Cái chuyện vị nghệ thuật, vị nhân sinh có
chết ai đâu mà những ông cộng sản làm to chuyện thế, và thù dai thế! Người ta
đã đi theo cách mạng, theo kháng chiến bao năm rồi mà vẫn không tha (cho mãi
đến kỳ tặng giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I (1996), họ cũng không tặng cho Hoài
Thanh, trong khi sẵn sàng tặng cho Hà Xuân Trường, Hồ Tôn Trinh, tuy sự nghiệp
của hai vị này có đáng gì đâu so với Hoài Thanh). Tôi cứ nghĩ mãi, không hiểu sao,
đối với trí thức, các ông cộng sản lại hẹp hòi và ngu xuẩn đến thế. Chính các
ông ấy, đã làm hại cách mạng nhiều lắm.
Anh Từ Sơn còn cho
biết, hồi Hoài Thanh phụ trách tuần báo Văn nghệ. Có một số báo, trang đầu in
ảnh Trường Chinh. ảnh bị cái tít in quá đậm ở mặt sau làm mờ đi. Trường Chinh
gọi Hoài Thanh đến nói: “Anh in ảnh tôi như thế này à?” Hoài Thanh sợ
quá, cứ đi lang thang ngoài đường, vô cùng hoang mang. Cái án vị nghệ thuật trở
thành cái án chính trị, vẫn như lưỡi gươm lơ lửng treo trên đầu.
Đúng vậy, Hoài Thanh
là con người chủ yếu sống bằng tình cảm. Cái tạng ông nó thế (Người ta từng cho
ông thuộc loại phê bình tình cảm – để phân biệt với phê bình lý trí, phê bình
khoa học chủ nghĩa scientisme). Cho nên, ông có quan hệ đặc biệt với Tố Hữu,
viết rất say sưa về thơ Tố Hữu, tập thơ nào của Tố Hữu ra đời cũng lập tức có
một bài phê bình rất tâm huyết của ông. Đó, cũng là do cái nợ tình, nợ nghĩa mà
ra.
Nhưng cái: “án
chính trị vị nghệ thuật” chắc cũng làm cho ông phải lên gân lên cốt khi
phủ nhận triệt để Thi nhân Việt Nam:
Thi nhân còn một chút duyên
Chẳng cầm cho vững lại lèn cho đau.
(Xuân
Sách)
Chẳng lẽ một
con người giầu tình như ông mà lại dễ dàng dứt tình với đứa con tinh thần mà
ông đã gửi cả tâm hồn vào đấy. Từ Sơn nói, cuối đời, có lần Hoài Thanh nói với
anh: “Nhờ có cuốn Thi Nhân Việt Nam mà người ta mới coi cha là một nhà
văn”.
Vậy mà ông lại phủ
nhận Thi nhân Việt Nam (Nhìn lại phong trào Thơ mới và cuốn Thi nhân
Việt Nam) đến mức Trần Huy Liệu cho là quá đáng, và Tố Hữu thì nói: “Hoài
Thanh đã tát mình đau quá”.
Cho nên tôi vẫn cứ
ngờ ngợ thế nào về cái thái độ quá cứng, quá tả của Hoài Thanh. Tiếp xúc với
ông, thấy ông luôn luôn nói lập trường cách mạng, lập trường giai cấp. Phải có
tình cảm đúng, tình cảm đúng là tình cảm của giai cấp công nhân. Ông tỏ ra rất
phục các lãnh tụ cộng sản, coi phát ngôn của các vị ấy là chân lý mình phải lấy
làm chuẩn, kể cả những phát biểu về văn chương. Và ông không viết về các nhà
Thơ mới nữa, mà chỉ chăm chăm viết về thơ Hồ Chí Minh, Sóng Hồng, Tố Hữu, hay
các cây bút đang chiến đấu ở miền Nam như Lê Anh Xuân, Nguyễn Thi, Anh Đức… Cứ
như là mỗi bài viết phải là một cuộc chiến đấu về tư tưởng theo gương những
người cộng sản. Không biết ông có thật sự tin ở những điều mình nói, mình viết
hay không – tôi cứ ngờ ngờ thế nào ấy.
Nhưng ý kiến của Hoài
Thanh bên cạnh “phần cứng” cũng có những “phần mềm”. ấy là khi
ông phát biểu về những đối tượng khác. Nhiều nhận xét của ông khá thẳng thắn,
không dè dặt, né tránh.
Có lần ông nói với
tôi về Viện văn học và tờ Tạp chí văn học do ông phụ trách (Lúc này Hoài Thanh
làm Viện phó Viện Văn học, thư ký toà soạn Tạp chí văn học):
“Viện văn học của
chúng tôi làm sao có uy tín được như Tự lực văn đoàn ngày trước. Nó đưa ai lên
là được lên. Nó hạ ai xuống là phải xuống
Bây giờ ta đang chống
Mỹ (1967), tạp chí của chúng tôi vẫn ra được đều đều là coi như thắng Mỹ rồi.
Mỗi số ra được đúng kì hạn là một trận thắng… Chứ thực ra nhiều bài có chất
lượng gì đâu. Tôi khổ với các ông HMĐ, HSV quá, chữ nghĩa, câu văn, tôi cứ phải
sửa rất nhiều mới đăng được.”
Ông nói về Chế Lan
Viên:
“Chế Lan Viên sắc
sảo, nhiều sáng tạo khá hấp dẫn. Nhưng tôi cứ lởn vởn ý nghĩ về chỗ trung thực
của anh. Cuốn Thi nhân Việt Nam của tôi có nhiều sai lầm. Nhưng điều tôi ân hận
hơn cả là đã quá khen Chế Lan Viên. Thực thì chắc có thực, nhưng có thực đến
mức ấy không? Có thật “Hồn ai trú ẩn ở đầu ta”, có thật có “tâm hồn Chàm” thế
không? Có muốn trốn lên “một tinh cầu giá lạnh” thật không? Xuân Diệu thì chân
chất, thật thà.”
Về Nguyễn Đình Thi,
ông nói vắn tắt: “Chưa bao giờ tôi đánh giá cao nhân cách của Nguyễn Đình
Thi”.
Hoài Thanh cũng đánh
giá rất thấp con người Huy Cận: “Có người nhân cách tốt nhưng thơ lại
không hay, như Thanh Tịnh. Có người nhân cách kém mà thơ lại hay, như Huy Cận”.
Đây là ông nói Huy Cận trước cách mạng, Huy Cận “Lửa thiêng”. Thơ Huy
Cận sau cách mạng, ông cho là tầm thường (vulgaire) – Trong tập Di bút, ông có
ghi lại cuộc trao đổi của ông với Trường Chinh ở chiến khu Việt Bắc hồi kháng
chiến chống Pháp về Huy Cận. Họ thống nhất với nhau: thơ Huy Cận vulgaire (Khi
in tập Di bút thành sách, anh Từ Sơn ngại đụng chạm nên cắt bỏ đi, cả
ý kiến của Hoài Thanh về văn của HMĐ nữa). Còn với tôi, ông nói: “Huy Cận
xưa hay hơn bây giờ. Bây giờ cũng có bài hay nhưng ít, càng làm càng dở. Xưa
trong cái u uất nặng nề, anh chàng 16, 17 tuổi đó có nhìn thấy một góc, một khoảng
trời rất trong, rất thơ.
Nay có thể là tâm hồn
không u ám nữa, tiến bộ, nhưng không có được khoảng trời rất trong như thế
nữa.”
Nguyễn Tuân không ưa
Hoài Thanh, nói về ông nhiều câu rất ác. Nhưng nhận xét về Nguyễn Tuân, thái độ
của Hoài Thanh vẫn rất công bằng:
“Nguyễn Tuân địch có
thể lợi dụng, như trước cách mạng, nó tặng anh ấy giải thưởng Alexanơre de
Rhodes – Sau cách mạng thì bọn Nhân văn lôi kéo. Nhưng Nguyễn Tuân không bao
giờ hạ mình làm những điều phi nghĩa. Nguyễn Tuân không phải Nhân văn, không bê
tha truỵ lạc trong sinh hoạt như cánh Nhân văn. Nguyễn Tuân thích phát hiện
những cái lặt vặt, thứ yếu vì cho rằng những cái quan trọng ai cũng biết cả
rồi. Nguyễn Tuân rất bướng. Cần góp ý kiến gì với anh ấy, chúng tôi phải nhờ
anh Tố Hữu. Tố Hữu nói mới nghe, mà cũng nghe vừa phải thôi. Anh ấy cho giáo
điều thì sinh ra xét lại. Vào Đảng như một thứ nhân sĩ, không gắn bó với một
trách nhiệm cụ thể nào, coi mình như một thế giới uỷ, chính uỷ của thế giới, có
trách nhiệm với toàn nhân loại. Cho nên chậm tiến. Đi trong kháng chiến như đi
chơi, tuy đi chơi trong kháng chiến khác đi chơi trước cách mạng.
Bài Tờ hoa của Nguyễn
Tuân, Chế Lan Viên có công phát hiện, đã bỏ đi. Thế mà sau lại đăng báo được.
Tờ hoa là có ý chửi cải cách ruộng đất.
Cái gì quen đi rồi
cũng thành nghề. Nguyễn Tuân có nghề chửi. Chửi rất ác. Không thể phê bình thân
ái nội bộ được. Nguyễn Tuân cứ phải chửi ác. Nay vớ được thằng phi công Mỹ, tốt
quá! Ta chửi Mỹ lâu rồi, song trước kia nó ở tận đâu đâu ấy, nay nó trực tiếp
đánh ta, ta nhìn rõ mặt nó rồi. Cái nghề chửi của Nguyễn Tuân được dùng đến,
rất tốt. Nguyễn Tuân ghét conformisme. Tôi cho tác dụng của Nguyễn Tuân còn lâu
dài đối với cách mạng giải phóng dân tộc.”
Hoài Thanh nói về
Nguyên Hồng: “Lắm lúc không biết anh ấy thật hay giả. Trên diễn đàn, đang
nói, dừng lại: “Cho tôi khóc một lúc đã”. Nguyên Hồng cũng không gắn với một
trách nhiệm cụ thể nào, nên chậm tiến bộ”.
Hoài Thanh luôn luôn
cho rằng phải sống gắn bó với quần chúng, có trách nhiệm cụ thể với cách mạng
mới tiến bộ được.
* *
*
Nhìn chung cuộc đời
Hoài Thanh, thấy ông có mấy cái thực sự trở thành niềm say mê:
Một là say Thơ mới
(1932 – 1945). Điều này, sau cách mạng ông đã quyết dứt bỏ. Nhưng chắc ở chỗ
sâu kín của tâm hồn, vẫn không dứt bỏ được.
Hai là say Kiều.
Trước cách mạng thì không nói làm gì. Ông đã ca tụng câu nói mà ông cho
là “can đảm” của Phạm Quỳnh: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn,
tiếng ta còn, nước ta còn”. Và ông đã trân trọng ghi lên trang đầu cuốn Thi
nhân Việt Nam câu thơ của Nguyễn Du: “Của tin gọi một chút này làm ghi”.
Sau cách mạng, ngay
trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, ông đã viết ngay một cuốn
sách về Kiều: Quyền sống của con người trong Truyện Kiều. Ông ca ngợi
Nguyễn Du trong dịp kỉ niệm 200 năm sinh của nhà thơ, rồi ông dạy Truyện Kiều ở
Đại học Sư phạm Hà Nội…
Trong những cuộc tiếp
xúc với ông, tôi thấy khi nói về quá trình phấn đấu về tư tưởng để có được lập
trường của Đảng, có được tình cảm mà ông gọi là tình cảm đúng đắn của giai cấp
công nhân, cứ thấy ông quẩn quanh, vướng vít không sao dứt khỏi được duyên nợ
với Truyện Kiều. Ông thương cô Kiều chịu nhiều oan khổ thì không có chuyện gì.
Nhưng ông cảm thông với giấc mộng Từ Hải của Nguyễn Du thì có vấn đề. Ông biết
Cụ Hồ nói: “Thằng Từ Hải sao nó tồi thế. Nó không chết đứng thì về triều
nó cũng chết ngồi”. Lê Duẩn phê phán cuốn “Quyền sống…” của ông. Tuy
ông rất phục Hồ Chí Minh và Lê Duẩn, nhưng ông vẫn chưa thông. Đến cuộc chỉnh
huấn năm 1952, Tố Hữu còn phải giúp đỡ ông nhiều: “Làm sao lại lấy Từ Hải
làm lý tưởng được: một nhân vật bất mãn và bất lực”. Nhưng ông vẫn chưa thông
hẳn.
Duyệt lại quá trình
phê bình, nghiên cứu của Truyện Kiều của mình, ông nói:
“Trước cách mạng
tháng Tám mình viết “Một phương diện của thiên tài Nguyễn Du” (1944), nhiệt
liệt ca ngợi Từ Hải. Lúc nhỏ tôi cũng có mộng anh hùng (Hoài Thanh từng tham
gia đảng Tân Việt và từng bị bắt giam một thời gian ở Hà Nội, sau đó bị trục xuất
về Nghệ An), rồi cuộc đời ác liệt quá, lại không gắn được với một tổ chức nào
cho chắc nên không dám làm anh hùng. Nhưng vẫn có mơ ước làm anh hùng. Nguyễn
Du chắc cũng vậy. Đến thời kháng chiến, năm 1948, tôi viết Quyền sống của con
người trong Truyện Kiều, tự thấy chưa thay đổi gì lắm. Đi cách mạng, ừ thì đi.
Rồi đâu cũng vào đấy thôi, chỉ khác là có đánh Tây. Vì thế trong cuốn sách tôi
chỉ thêm có một câu: “Nhân dân ta đang thực hiện giấc mộng anh hùng của Nguyễn
Du và còn vượt xa nữa. Nói chung vẫn ca ngợi Từ Hải.
Sau chỉnh huấn
1952, cũng chưa hoàn toàn thay đổi. Trước thì viết Từ Hải chết vì ngay thẳng mà
chết. Sau viết, Từ Hải chết vì thật dạ tin người. Đến mãi 1965, kỷ niệm 200 năm
sinh Nguyễn Du tuy có phê phán Từ Hải thiếu cảnh giác, nhưng trong phê phán vẫn
có thương hại nhiều…”
Đấy, qua lời tự bạch
của Hoài Thanh, thấy ông không sao dứt được khỏi tâm trí mình nỗi ám ảnh của Từ
Hải, giấc mơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Dù đấu tranh tư tưởng, dù kiểm
thảo lên, kiểm thảo xuống, vẫn không dứt ra được. Ông mê Kiều có lẽ còn hơn cả
Chu Mạnh Trinh ngày trước: “Ta cũng nòi tình, thương người đồng điệu”.
Một niềm say mê nữa
cũng đeo đuổi Hoài Thanh đến trọn đời là đọc thơ, bình thơ, giảng thơ. Con
người tình cảm của Hoài Thanh tất nhiên thể hiện rất rõ ở lĩnh vực này.
Ngay giải thích những
hiện tượng văn học sử ông cũng dùng kinh nghiệm đời sống, dùng trực cảm. Ông
không thích nói lý luận, có lẽ ông không tin ở lý luận.
Ông nói, nhà thơ lãng
mạn đến với cách mạng, sáng tác được ngay vì quen ca ngợi. Còn nhà văn hiện
thực phê phán lại lúng túng, không viết được, vì chửi đã thành nghề rồi. Chỉ
quen chửi. Đến với cách mạng, chửi ai?
Ông cho rằng, vấn đề
dân tộc bao giờ cũng gây xúc động mạnh. Cách mạng vô sản nói chuyện giai cấp
nên khó hấp dẫn. Mặt trận Việt Minh ra đời nêu dân tộc lên hàng đầu, làm nức
lòng người.
Về tầng lớp tiểu tư
sản, ông cho rằng, tiểu tư sản yêu nước song yếu đuối. Rất sợ cây súng của Tây
nên không tin tưởng. “La raison du plus fort est toujours la
meilleure” là cái triết lý nó đè lên tâm hồn như một định mệnh.
Ông nói về phê bình
văn học:
“Ta cho đến nay chưa
có ai gọi là nhà phê bình. Từ 1930, cái gì cũng đổi mới cả, song chưa thể nói
đã có phê bình chuyên nghiệp (nhà văn chuyên nghiệp thì có). Thường chỉ là
nghiệp dư, làm một nghề nào đó rồi mới làm thêm phê bình.
Muốn đẩy mạnh phê
bình, phải giải quyết:
– Gây hào hứng cho
phê bình. Người ta hiện nay không thích viết phê bình, không hào hứng làm nhà
phê bình.
– Tạo điều kiện để có
nhà phê bình chuyên nghiệp.
– Luyện cách viết cho
hay. Hiện nhiều người chưa có cách viết, không biết cách viết. Phải viết thế
nào cho người ta đọc một câu cứ phải đọc tiếp.
Nhược điểm của
phê bình là không dứt khoát, tác phẩm nào cũng ưu một chút, khuyết một chút.
Như nhau. Người đọc không biết anh cho tác phẩm là hay hay dở. Phê phán Vào đời
và Đống rác cũ là trung ương phê chứ có phải nhà phê bình nêu ra đâu.
Hiện nay có hiện
tượng trái ngược là nhà văn và nhà phê bình đọc tác phẩm rất ít, ít hơn quần
chúng. Anh phê bình chỉ đọc để viết thôi. Khi cần viết mới đọc.
Phê bình phải có hai
điều kiện:
– Nhậy cảm. Xúc cảm
nhạy bén.
– Có văn hoá. Dù là
inpressionnisme cũng phải có văn hoá. Phải đọc nhiều, đọc hết, có ấn tượng sâu
và nhớ lâu.
Ngày xưa tôi đọc
nhiều lắm, nhớ lâu, dễ khóc. Nay khó khóc quá - “Tuổi già hạt lệ như sương”.
Cũng ít nhớ. Tôi thuộc loại người cũ rồi. Lê Đình Kỵ thế mà cũng thuộc loại cũ
rồi.
Đi vào văn học mà 40
tuổi mới vào là dại. Vào làm gì! Viết văn là phải bắt đầu từ trẻ, có nhiệt
tình, nhậy cảm. Người ta viết văn bằng những ấn tượng những năm lên năm, lên bẩy,
chứ không phải 30, 35 đâu.
Và cái đó không thay
đổi được. Cái tạo nên tài năng, phong cách, sở trường là hoàn cảnh sống từ tuổi
lên năm, lên bẩy: cánh đồng ấy, bờ tre ấy, cái ao ấy… Sau này lớn lên, thay đổi
quan điểm, lập trường, chứ không thay đổi phạm vi đề tài, cách viết, cách cảm
xúc, cách nghĩ. Không nên bắt người ta thay đổi. Bắt vô ích. Mỗi ca sĩ chỉ hát
hay vài bài, Tân Nhân chỉ hát hay vài bài, các bài khác cũng hát được nhưng không
hay.”
Về vấn đề tính dân
tộc của văn học, tôi rất tán thành ý kiến Hoài Thanh:
“Tính dân tộc chỉ cảm
thấy thôi, rất khó định nghĩa hay phân tích cho rành mạch”. Viết văn thì phải
thể hiện tính dân tộc. Nhưng tính dân tộc là gì? Hoài Thanh bình thơ Giang Nam
viết về tình vợ chồng mà ông cho là có tính dân tộc:
“Dây bầu sai trái bên
đầu ngõ
Vẫn đợi anh về hái
nấu canh
Đó là tính dân
tộc đấy, rất Việt Nam! Người vợ nghèo Việt Nam chỉ mơ ước thế thôi.
Nhớ chồng, thương
chồng, em khóc. Nhưng lại đổ tại con: “Nó khóc làm em cũng khóc theo”
Thực ra con không
khóc, em cũng khóc.
Tình cảm của người
Việt Nam thường tỏ bầy, kín đáo, lặng lẽ, không ồn ào. Đó là cái tần ngần của
Kim Trọng khi trở lại vườn Thuý:
Cuối tường gai góc mọc đầy
Đi về này những lối này năm xưa…
Người Tây thì
khác: Le lac của Lamartine: Ôi, hồ! ầm ĩ cả lên.”
Về việc phân biệt thơ
hay thơ dở, tức là việc thẩm văn, Hoài Thanh cũng quan niệm hết sức đơn giản,
theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa. Ông nói: “Phân biệt thơ hay thơ dở chỉ có
đọc nhiều. Ăn phở mãi thì phân biệt được phở ngon. Chứ phân chất, định nghĩa
phở ngon là gì, vô ích. Nhưng phải đọc kỹ, phải tinh. Nếu không, có khi mắc lừa.
Phở có lẽ ít mắc lừa hơn.”
Về điểm này, tôi thấy
Hoài Thanh chỉ đúng một phần thôi. Vì thực tế có người đọc rất nhiều mà thẩm
văn vẫn kém. Quan trọng là phải sống sâu sắc với những gì mình đọc, cũng như
những gì mình thấy, mình nghe… Người sống hời hợt thì đọc thiên kinh vạn quyển,
đi khắp thế giới, sống đến trăm tuổi, cũng chẳng có được năng lực thẩm văn tử
tế. Theo tôi, Hoài Thanh sở dĩ thẩm văn tốt, chủ yếu vì ông sống sâu sắc cuộc
sống của mình, sống sâu sắc với mọi cảnh vật quanh mình. Cứ đọc những đoạn bình
thơ của ông mà xem.
Thí dụ, ông bình thơ
Tố Hữu, bài Việt Nam, máu và hoa
“Ngày 29 – 1 – 1973,
báo Nhân dân đăng bài Việt Nam máu và hoa của Tố Hữu. Hôm ấy, hiệp định Pari
vừa kí được hai hôm. Nhà thơ cảm thấy một niềm vui lớn quá, tưởng chừng như
không phải là chuyện thật mà là chuyện trong mơ:
Khao khát trăm năm mãi đợi chờ,
Hôm nay vui đến ngỡ trong mơ
Cả cái êm ả của
bầu trời, cái bình yên của mặt đất cũng có cái gì như là không thật:
Một trời êm ả xanh không tưởng,
Mặt đất bình yên giấc trẻ thơ.
Có người băn
khoăn: chuyện ta chiến thắng là chuyện tất nhiên, chuyện ta dự kiến từ lâu,
chính ta tự mình làm nên chiến thắng, tại sao gọi là chuyện trong mơ? Nhưng
tuần tự và đột biến, tất nhiên mà ta vẫn cứ ngạc nhiên, cuộc sống xưa nay là
thế và chính vì thế mà say người. Một cây hoa ta trồng ta biết nó sẽ nở hoa,
nhưng đến ngày nở hoa, ta lại không khỏi có chút ngạc nhiên. Một đôi vợ chồng
trẻ, một hôm nào đó cũng không ngờ mình đã làm cha, làm mẹ. Một bông hồng nở,
một đứa bé ra đời còn thế nữa là chuyện chiến thắng hôm nay…”
Đấy, ông có dẫn sách
vở gì đâu. Toàn nói chuyện kinh nghiệm sống thông thường mà đem đến cho ông
những rung cảm trước những vần thơ.
Ông nói đúng: Đọc
thơ, nếu không có vốn sống thì cứ dửng dưng, không có xúc cảm gì. ấy là thơ đã
gieo vào những tâm hồn chưa có gì để đón đợi nó.
Cảm nhận được thơ hay
thơ dở rồi, lại còn phải biết diễn đạt sao cho hấp dẫn nữa. ở đây, Hoài Thanh
có hai tư cách thống nhất làm một: nhà phê bình và thày giáo dạy văn.
Ông nói:
“Cách viết, cách nói
không nên cố định, mà tuỳ bài, tuỳ nội dung mà quyết định hình thức. Có thể đi
từ đại ý đến chi tiết hay ngược lại. Điều quan trọng là làm sao luôn luôn đặt
ra những vấn đề để giải quyết – cuộc sống là như thế.
Và phải nói sao
buộc người nghe phải chờ đợi.
Thí dụ, năm 1941, Tố
Hữu ở trong tù viết bài Quyết hy sinh, đã vẽ được hình ảnh người chiến sĩ cộng
sản rất đẹp:
Các anh chị bước lên đài gươm máy
Đầu sắp rơi mà môi vẫn cười tươi!
Song lúc đó anh
mới 20 tuổi, kinh nghiệm chiến đấu chưa nhiều, nên hình ảnh chưa sâu. Đến bài
Ba mươi năm đời ta có Đảng (1960), hình ảnh người chiến sĩ được vẽ sâu hơn:
“Miếng cơm dành để người sau ấm lòng”. Đúng hơn, sâu hơn. Đằng sau câu thơ lại
có thấp thoáng hình ảnh anh Hoàng Văn Thụ.
Thí dụ khác: Tháng
Tám 1945, Tố Hữu làm bài Hồ Chí Minh. Hình ảnh Bác rất đúng, rất đẹp:
Bao thất bại dẫu xát lòng cay đắng
Hồn vẫn tươi vui, thơm ngát tình đời.
Nhưng lúc đó, Tố Hữu
chưa được gần Bác, nên có câu không đúng “Tiếng người thét, mau lên gươm lắp
súng”. Tiếng thét này không phải của Bác. Sau này trong bài Sáng tháng năm, anh
sửa lại đúng hơn:
Giọng của Người, không phải sấm trên cao
Thấm từng tiếng, ấm vào lòng mong ước.
Về cách nói, có
cách nói nhợt nhạt, có câu nói cứ trơn tuồn tuột. Có cách nói làm cho người ta
phải chú ý. Chữ dùng thì phải bình dị, gần gũi. Phải học ngôn ngữ quần chúng,
học ca dao, để nói cho đỡ khô khan.
Và phải tuỳ thể loại
của tác phẩm. Mỗi thể loại có ưu thế và hạn chế của nó, đáp ứng một khía cạnh
nào đó của đời sống. Chẳng hạn, đánh giá Sống như anh phải theo đặc trưng của
thể ký. Đọc ký, người ta tin có thực. Cái hay của ký, tác dụng của ký, một phần
là ở chỗ người đọc tin là có thực. Nếu là tiểu thuyết thì người ta đòi hỏi nhân
vật phải được đào sâu vào tâm lý với những diễn biến thầm kín và phức tạp.
Nhưng là ký thì không ai đòi hỏi thế. Lê Anh Xuân làm Trường ca Nguyễn Văn
Trỗi. Anh tả chị Quyên đến thăm anh Trỗi ở khám tử hình “Chấn song sắt cũng trổ
cành đơm hoa”. Thơ tả thế được. Ký không tả thế được.”
* *
*
Hoài Thanh vốn là một
học sinh trường Bưởi. Ông cùng Tôn Quang Phiệt tham gia đảng Tân Việt, bị nó
bắt giam rồi trục xuất khỏi Hà Nội, tống vào Vinh. Có một thằng Tây, chủ nhà
máy gạch Vinh thấy ông nói được tiếng Pháp, gọi cho làm thư ký.
Một buổi kia đi làm,
xe đạp thủng săm, đến chậm 15 phút, nó tát tai và đuổi. Ông tìm được một gia
đình xin làm gia sư. Bùi Huy Tín ở nhà in Đắc Lập, Huế, tình cờ gặp, đưa vào
trong ấy làm thợ chữa morasse (1931). Đến năm 1933, Đào Duy Anh, Tôn Quang
Phiệt thành lập trường Collège tư thục Thuận Hoá. Ông được mời dạy. Ông dạy
Việt văn và tiếng Pháp, vừa đi làm, vừa đọc sách, viết văn từ ngày ấy.
Hồi làm thợ chữa
morasse, Hoài Thanh đã viết phê bình. Rồi nổ ra cuộc tranh luận với Hải Triều
về quan điểm nghệ thuật. Hoài Thanh hàng ngày đi làm phải cuốc bộ, guốc gỗ, vậy
mà bị quy là nhà văn phú hào. Còn Hải Triều đi xe nhà gọng đồng, nhà có 8 đầy
tớ, thì là nhà văn vô sản. Hoài Thanh ngẫm nghĩ thấy cũng buồn cười.
Nhà in Đắc Lập, nơi
làm việc của Hoài Thanh rất gần hiệu sách Hương Giang của Hải Triều. Họ rất dễ
gặp nhau. Nhưng Hải Triều tránh không muốn gặp Hoài Thanh, vì sợ gặp, nhỡ hoà
giải với nhau thì mất đối tượng đấu tranh.
Đọc thơ, bình thơ quả
là niềm say mê, một niềm vui, thậm chí là lẽ sống của Hoài Thanh. Dường như lúc
nào ông cũng băn khoăn day dứt về chuyện văn chương.
Trước cách mạng, cãi
nhau với Hải Triều cũng là chuyện say mê văn chương. Sau cách mạng, phấn đấu về
tư tưởng, nhưng vẫn luôn luôn trăn trở về quan niệm văn chương thế nào là đúng,
là sai.
Năm 1954, anh Thành
Thế Thái Bình được cử vào tiếp quản Thủ đô. Trước khi nhận nhiệm vụ này, anh có
tham gia cải cách ruộng đất đợt 5 với Hoài Thanh ít ngày ở Đại Từ – Thái
Nguyên. Anh nhận xét, Hoài Thanh ba cùng rất nghiêm túc, thái độ với anh đội
trưởng rất kính cẩn, một thưa anh, hai báo cáo anh, tuy anh này rất trẻ, chỉ
đáng tuổi con ông thôi. Thành Thế Thái Bình lúc đó chỉ độ 20 tuổi, cũng được
ông thưa gửi như thế. Ông không hề tỏ ra là một nhà văn, không bao giờ nói
chuyện văn chương.
Nhưng những buổi tối
sáng trăng, thấy ông thường ngồi trầm ngâm, ở cái chõng ngoài sân, hút thuốc
lào, vừa chống cái điếu cày, vừa nhìn trăng, thỉnh thoảng thở dài. “Yêu
trăng có phải là vị nghệ thuật không nhỉ, cũng có thể là vị nhân sinh chứ! Có
nhất thiết cứ phải trực tiếp viết về người nghèo khổ mới là vị nhân sinh? Như
thơ Hồ Xanh: “Nước mắt của anh em vô sản, là nguồn thơ chảy ra vô tận”?
Tôi đoán ông tự hỏi
mình như thế khi ngắm trăng và thở dài. Tôi nghĩ thế vì liên hệ đến
đoạn Di bút của ông sau này viết về ý kiến Lê Duẩn nói với họa sĩ
Huỳnh Văn Gấm hồi hoạt động ở trong Nam: “Không nhất thiết bức tranh nào cũng
trình bày những hình ảnh công nông. Một bông hồng rung rinh dưới ánh mặt trời
trong sương sớm sao lại không được xem là nghệ thuật vị nhân sinh?”.
Trong những ngày cuối
đời, ông ghi những ý nghĩ của mình vào một tập giấy gọi là Di bút. Đọc
tập Di bút này thấy những băn khoăn day dứt cuối đời của ông chủ yếu
cũng vẫn là chuyện văn chương, đặc biệt là chuyện hiểu thơ và bình thơ.
* * *
Nhưng trong những
ngày cuối cùng trước khi mất, theo anh Từ Sơn, Hoài Thanh hình như có ngộ ra
một cái gì đó có vẻ ngược chiều với những suy nghĩ trước kia của ông.
Trong Di
bút (bản đánh máy Từ Sơn cho tôi) tuy ông chủ yếu nói về văn chương, nhưng
cũng có nêu lên một vài thắc mắc về chế độ xã hội miền Bắc. Chẳng hạn, ông nhận
xét thái độ lao động của cán bộ ta không nghiêm túc bằng những viên chức của
các cơ quan dưới chính quyền nguỵ (gọi là viên chức “lưu dung”). Thí dụ,
những cô y tá, hộ lý của bệnh viện ta không phục vụ bệnh nhân tốt như y tá, hộ
lý của các bệnh viện ở Sài Gòn trước 1975 ở lại làm việc với ta, hay những cô
mậu dịch của ta thì rất hách dịch, cửa quyền. Còn luật lệ giao thông của ta thì
không nghiêm như luật lệ giao thông của Sài Gòn thời nguỵ… Ông thuật lại câu
chuyện của em ông là Nguyễn Đức Ninh là đảng uỷ viên xã Nghĩa Mỹ huyện Nghĩa
Đàn. Trong cải cách ruộng đất, khi anh bí thư đảng uỷ bị bắt, bị quy là phản
động mà Ninh không hề biết, anh rất phục đảng: đảng tài giỏi quá!. Nhưng đến
khi chính anh cũng bị bắt thì anh mới thấy, hoá ra đảng cũng sai (Từ Sơn cho
biết Nguyễn Đức Ninh bị kết án tử hình, sau hạ xuống tù chung thân).
Ông thắc mắc cả về Lê
Duẩn khi Duẩn nói Nguyễn Du không có chút tình cảm gì với quần chúng. Ông thắc
mắc cả về Hồ Chí Minh: trong 5 điều Bác Hồ dạy “không có một điều nào nói
về tình thương mẹ, thương cha. Tình thương ấy mà không có hoặc có mà lệch lạc
thì đâu có thể nói được là đã nên người”.
Hoặc là
“vào khoảng năm 1952,
tôi được nghe Bác nói trong một lớp chỉnh huấn: ‘Bác có thể sai, Trung
ương có thể sai… Nhưng đồng chí Mao Trạch Đông, đồng chí Xitalin thì không thể
sai’ (…). Ý kiến ấy khó có thể nói là không sai”.
Tuy thắc mắc đấy,
nhưng qua cách diễn đạt, thấy ông vẫn phải rào đón rất kỹ. Di bút chỉ viết cho
con đọc thôi mà phải rào đón như thế có nghĩa là ông chỉ phân vân thế thôi, chứ
vẫn rất tin ở đảng, ở Lê Duẩn và cụ Hồ.
Về bài thơ của
Xuân Sách viết về ông, Đặng Vương Hưng có viết trên một số Văn nghệ công an rằng
Xuân Sách có đến thăm Hoài Thanh khi ông Hoài sắp mất. Xuân Sách cho biết, cuối
cùng Hoài Thanh đã thú nhận Xuân Sách viết về ông như thế là đúng. Thực ra,
theo Từ Sơn, Đặng Vương Hưng đã bịa ra chuyện ấy. Vì khi ốm nặng, Hoài Thanh ra
Hà Nội, còn Xuân Sách vẫn ở Vũng Tầu, không hề đến thăm. Theo Từ Sơn, chuyện
thật chỉ là thế này: Hoài Thanh nói với Từ Sơn: “Xuân Sách nó dùng Kiều để
nói mình vì biết mình mê Kiều. Nhưng câu thứ hai ác quá. Nên sửa như thế này
cho đúng: “Nửa đời lại phải vị người cấp trên” – thêm cho một
chữ “phải”. Vậy là có thể hiểu, Hoài Thanh quả có công nhận Xuân Sách
nói đúng một phần về mình.
Khi Hoài Thanh mệt
nặng, Từ Sơn có nói với Tố Hữu đến thăm.
Tố Hữu đến, Hoài Thanh quay mặt vào tường không tiếp. Tố Hữu về rồi, ông mới
quay ra. Ông nói với Từ Sơn: “Từ bài Chuyện thơ (Làm bí thư hoài có bí …
thơ), coi như sự nghiệp của Tố Hữu đã kết thúc.”
Tôi cho ông nói thế
là đúng. Qua bài Chuyện thơ, Tố Hữu ngang nhiên tuyên bố: “Ta là nhà
thơ bí thư Đảng, nhà thơ lãnh tụ đây!”. Cụ Hồ làm thơ có bao giờ tuyên bố thế
đâu! Thậm chí còn coi những “bạn tù” nghiện ngập, bẩn thỉu, ghẻ lở là
tri âm tri kỷ nữa “Gẩy đàn trong ngục thấy tri âm” (Ghẻ)
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết của
(về) tác giả Nguyễn Đăng Mạnh0
- Các bài viết của
(về) tác giả Nguyễn Khôi0
- Các bài viết của
(về) tác giả Nguyễn Bàng0
- Các bài viết của
(về) tác giả Dương Ninh Ninh0
- Các bài viết của
(về) tác giả Xuân Diệu0
- Các bài viết của
(về) tác giả Trần Đăng Khoa0
- Các bài viết của
(về) tác giả Nguyễn Quang Thiều0
- Các bài viết của
(về) tác giả Chử Văn Long0
- Các bài viết của
(về) tác giả Nguyễn Thanh Lâm0
- Các bài viết của
(về) tác giả Trần Mạnh Hảo0
*.
Láng Hạ, 25 - 5 –
2007
NGUYỄN ĐĂNG MẠNH
Địa
chỉ: Quan Hoa, Cầu Giấy, Hà
Nội.
.............................................................................................................
- Cập nhật từ
email: datinh_1974@yahoo.com ngày 22.12.2020
- Ảnh minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét