CHIẾN SĨ VÔ
DANH:
HOÀNG THẾ
DŨNG
*
1
Năm 1967 những cuộc đánh phá không ngưng nghỉ của không quân Mỹ nhích dần
từ Nam ra Bắc. Nó được đặt tên là chiến tranh leo thang.(Tác giả Vũ Thư Hiên)
Ở báo ảnh Việt Nam sự bận rộn tăng lên từng ngày. Tờ báo tháng trong thời
bình chúng tôi làm nhẩn nha, làm túc tắc, nay phải vẳt chân lên cổ làm cật lực
mới xong. Bài vở đã được duyệt đi duyệt lại, sắp đưa cho nhà in đành vứt bỏ
trước biến chuyển mới.
Cựu tổng bí thư Trường Chinh, người khai sinh tờ báo ở Bắc Kinh theo mẫu
báo ảnh Trung Quốc không bỏ thói quen duyệt từng số báo đã lên khuôn. Tính xét
nét, soi từng câu, bắt bẻ từng chữ, ông ta làm khổ chúng tôi rất nhiều. Bài vở
đã được thư ký toà soạn, chủ nhiệm duyệt kỹ rồi, nhưng phải được Trường Chinh
duyệt. Ông ta mà không hài lòng thì lũ chúng tôi phải cắn răng làm lại.
Chán việc bàn giấy, tôi xin đi làm phóng sự. Chủ nhiệm Ngô Đức Mậu gật. Tôi
lập tức lên đường.
Thời gian này phương tiện duy nhất để đi lại là xe đạp. Những dòng sông
chắn ngang quốc lộ chỉ có đò ngang thay cho những cầu Bùng cầu Phủ, Chánh Hoà,
Lý Hoà bị đánh sập. Hai bên đường từ Thanh Hoá trở vào là những thị trấn hoang
vắng, những làng mạc xơ xác, những mố cầu gãy bên những hố to nhỏ như địa mạo
mặt trăng.
Ở nước ta tếng bom nổ hoà với tiếng ru hời của mẹ không phải chỉ cho một
thế hệ nằm nôi. Sau chiến tranh chống Pháp là chiến tranh chống Mỹ.
Bên cạnh cuộc chiến tranh thực với bom rơi đạn nổ còn có một cuộc chiến
tranh ảo. Nguyễn Tuân mô tả cuộc chiến tranh ấy bằng giọng thì thào: “Không có
đầu rơi, không có máu chảy, mà có người chết”.
Đó là cuộc chiến tranh giữa những người cùng một chiến hào. Cuộc chiến
tranh này do một bên tiến hành, bên kia là những kẻ cúi đầu chịu trận .
Sau cái chết bất đắc kỳ tử sau một li bia của uỷ viên Ban Thường vụ Quốc
Hội Dương Bạch Mai giữa giờ giải lao một phiên họp Quốc hội năm 1964, lúc nào
tôi cũng cảm thấy hơi lạnh của thanh gươm Damocles đung đưa trên đầu.
Bề ngoài tôi vẫn là một viên chức, một nhà báo, nhưng ở đâu, đi đâu, tôi
cũng cảm thấy mối đe doạ rình rập.
Trong những buổi lên lớp cho cán bộ các diễn giả nhắc đi nhắc lại lời giáo
huấn của tổng bí thư Lê Duẩn: “Kẻ nào không theo ta, kẻ đó chống ta”. Khái niệm
“không theo là chống” cực kỳ nguy hiểm. Phụ tá trung thành của Lê Duẩn, trưởng
Ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ lạnh lùng bấm nút cho bộ máy trấn áp chạy hết
tốc lực.
Đêm đêm một tiếng phanh ô tô rít ngoài đường cũng làm tôi thức giấc. Những
người vô tình bộc lộ quan điểm bất đồng, thậm chí để lộ ra sự không thích điểm
này điểm khác trong đường lối chính sách của đảng cầm quyền thường xuyên cảm
thấy hơi thở lạnh lẽo của thần chết ở sau gáy.
Tôi quen phó tổng biên tập báo Quân đội nhân dân Hoàng Thế Dũng trước mấy
năm căng thẳng ấy nhiều lần. Chả là khi phải viết bài về chiến tranh tôi tới
toà soạn báo này lấy tư liệu. Anh tiếp tôi xuề xoà, sẵn sàng đưa cho tôi những
tài liệu tôi cần, với lời dặn muôn thuở:
- Dùng xong, nhớ trả lại nhá! Phải thương mấy cậu đánh máy.
Hoàng Thế Dũng hơn tôi khoảng chục tuổi, kể ra không phải là nhiều, nhưng
trong thời kỳ đầy những biến động lịch sử thì chỉ chênh nhau vài ba năm người
hơn tuổi đã ra dáng đàn anh. Chưa kể tiểu sử khác người của anh: năm 1943, ở
tuổi 18 Hoàng Thế Dũng đã tham gia cách mạng, 20 tuổi là chiến sĩ Giải phóng
quân, 22 tuổi là chính uỷ trung đoàn.
Trong lịch sử quân đội Việt Nam, cán bộ trẻ có chức vụ cao như anh không
nhiều.
Vào đêm trước Cách mạng Tháng Tám, Hoàng Thế Dũng đã cùng Lê Liêm (sau này
là thiếu tướng cục trưởng Cục Dân quân) đóng giả quân Nhật tổ chức cuộc tước
súng quân Pháp ở đồn Bần Yên Nhân rất ngon lành, không tốn một viên đạn. Trong
kháng chiến chống Pháp anh từng dẫn một cánh quân vượt biên giới bất ngờ tấn
công quân Tưởng Giới Thạch, giải phóng chiến khu Thập vạn đại sơn của quân đội
Trung Hoa Dân quốc trước cả quân Trung Quốc đỏ trên đường tiến xuống Hoa Nam.
Sau chiến dịch giải phóng biên giới 1950, Hoàng Thế Dũng là một trong ba cán bộ
trẻ được tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp giao việc báo cáo tại Hội nghị tổng kết
chiến dịch.
Năm 1967, như rất nhiều người khác bị coi là có “quan điểm xét lại”, một
định danh mơ hồ được chụp lên đầu những kẻ có bất kỳ ý kiến khác hoặc không
giống quan điểm của các “lãnh tụ”, Hoàng Thế Dũng bị Lê Duẩn loại khỏi chức vụ,
cho ngồi chơi xơi nước.
Ngôi nhà số 5 Hai Bà Trưng của gia đình tôi bị các vị “lãnh tụ” tự xưng gọi
là “câu lạc bộ Pétofi”. Cả hai vị Lê Duẩn và Lê Đức Thọ chắc chắn chẳng biết nó
là cái gì, chẳng đọc câu thơ nào của nhà thơ cách mạng Hungari, chỉ nghe câu
lạc bộ này gồm “những tên chống phá cách mạng”. Cộng với cựu vương Trường Chinh
là ba, mấy vị này đều muốn dẹp cái câu lạc bộ tưởng tượng ấy ngay lập tức.
Nhưng thời cơ đầu thập niên 60 chưa thuận lợi cho những cánh tay đã rất ngứa
ngáy.
Cha tôi không hiểu được bao nhiêu về lý thuyết mác-xít, mặc dầu ông là
người hoạt động cách mạng từ 1923, là thành viên của tổ chức Thanh niên Cách
mạng Đồng chí hội từ năm 1925. Vì thâm niên cách mạng, những người trung thành
với cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc coi ông như người anh.
Cái chế độ xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ lý thuyết Karl Marx ngày càng
không hợp ý cha tôi. Ông vừa đi cùng nó vừa hục hặc với nó. Ông không được lòng
những đồng chí nay đã trở thành lãnh tụ quyền uy. Ngôi nhà từng là nơi lui tới
của nhiều nhà cách mạng trong thời kỳ bí mật nay trở thành “ổ xét lại”.
Đến với cha tôi có nhiều người danh tiếng: Dương Bạch Mai, Bùi Công Trừng,
Hoàng Minh Chính, Đặng Kim Giang, Phạm Ngọc Thạch, Đặng Việt Châu, Hoàng Quốc
Thịnh, Đặng Châu Tuệ… và nhiều người không danh tiếng khác. Con số vơi dần cùng
với mức độ đe doạ tăng lên từ phía chính quyền.
Hoàng Thế Dũng là một trong số những người thường xuyên lui tới nhà tôi.
Cặp kè với anh là Phạm Viết, một cán bộ trẻ hoạt động trong nội thành Hà Nội
thời Pháp chiếm đóng.
Khác với Hoàng Thế Dũng phong trần dày dạn, tính khí thâm trầm, Phạm Viết
trông như một công chức lưu dụng. Nhưng hai người khác nhau ấy lại rất tâm đắc
trong nhận định thời cuộc.
Khi cha tôi có nhà, tôi ngồi im lặng nghe người lớn nói chuyện, cho dù đó
là những câu chuyện tôi có thể tham gia. Đó là một tập tục trong gia đình Việt
Nam – khi cha mẹ nói chuyện với khách, con cái không được nói leo.
Tôi và Hoàng Thế Dũng chỉ có những cuộc trò chuyện tay đôi khi anh tới mà
cha tôi đi vắng.
Cha tôi và tôi đi tù.
Rồi cả Hoàng Thế Dũng, cả Phạm Viết, cũng đi tù nốt.
Phạm Viết chết trong tù.
Hoàng Thế Dũng sống sót.
2
Ra khỏi tù sau chín năm, tôi phải lao vào đủ thứ việc trước kia chưa từng
nghĩ tới để kiếm sống.
Tôi gặp may: Lê Sĩ Thiện, cựu giảng viên thông tin trường sĩ quan lục quân
Trần Quốc Tuấn tự tìm tôi rủ tôi hợp tác mưu sinh. Lê Sĩ Thiện là người tài ba
trong nhiều lĩnh vực. Thị trường cần gì anh làm nấy. Một trong những mặt hàng
bán chạy khi chiến tranh kết thúc là bột màu dùng cho trang trí nội thất là “ve
quét tường”. Hàng nhập được chế tạo từ oxyde chrome được ưa chuộng nhưng giá
đắt. Lê Sĩ Thiện tìm ra cách thay thế nó bằng phtalocyanine xanh dương và xanh
lam nhập cảng của Trung Quốc trộn với carbonate calcium, lấy bột sắn dây làm
chất độn. Chúng tôi kéo được mấy người có tiền bỏ vốn cùng chúng tôi sản xuất.
Ra khỏi tù Hoàng Thế Dũng gày rộc, xơ xác. Tôi bàn với Lê Sĩ Thiện kéo anh
vào làm với chúng tôi. Lê Sĩ Thiện từng nghe tiếng tăm lẫy lừng của chính uỷ
trung đoàn Một Không Hai (102).
- Hoàng Thế Dũng à? Ta biết chứ. Phải giúp anh ấy thôi - Lê Sĩ Thiện nói.
Khốn nỗi người hùng của chúng tôi chỉ giỏi đánh giặc chứ không biết gì về
hoá học. Không thể đưa anh vào nhóm nghiên cứu những mặt hàng cần đến kiến thức
khoa học, Lê Sĩ Thiện đưa anh vào làm trong tổ hợp.
Chủ vốn tổ hợp tác – một người đàn bà Tày tham lam và giảo quyệt – thấy
chúng tôi quý Hoàng Thế Dũng nên đối với anh cũng nương nhẹ, còn trả lương cao
hơn các tổ viên khác.
Viết những dòng này tôi như thấy lại gương mặt hốc hác xanh lè của Hoàng
Thế Dũng.
Cái giống bột phtalocyanine nó thế. Những hạt màu rất nhỏ, rất nhẹ, mắt
không thấy được bay lên, bám vào da, để nguyên thì không sao, nhưng quệt tay
vào đâu thì màu xanh xuất hiện ở đó, chùi không sạch, càng chùi càng xanh.
Chúng tôi có kinh nghiệm, không quệt tay lên mặt, nhưng khi mặt ra mồ hôi,
Hoàng Thế Dũng không nhịn được, cứ luôn tay quệt. Chúng tôi thường đi ăn cùng
nhau, vào hiệu nào thiên hạ cũng trợn mắt nhìn anh. Làm sao thiên hạ biết được
người công nhân lam lũ kia nếu không vì tấm lòng ngay thẳng thì đã là một ông
tướng.
Làm công nhân tổ hợp lương không tồi, nhưng khi những bạn chiến đấu cũ ở
tạp chí Lịch sử Quân sự thấy anh vất vả, và cũng tiếc tài năng của anh nữa, mời
anh cộng tác thì anh quyết định bỏ việc công việc lao động để trở về với giấy
bút, tuy tiền lương thua xa lương công nhân tổ hợp.
Trong những ngày cùng làm việc, Hoàng Thế Dũng đã kể cho tôi nghe về chiến
dịch Thập vạn đại sơn. Quân đội Việt Nam đã vượt biên giới đánh quân Tưởng Giới
Thạch trong khi Hồng quân của Mao Trạch Đông chưa xuống tới Hoa Nam.
- Tại sao phải làm thế? Tinh thần quốc tế vô sản à? – tôi hỏi anh.
- Không phải – anh nói - Ta đánh chặn quân Tưởng là nhằm không cho chúng
tràn qua biên giới khi bị thua quân Mao. Khi ấy chúng sẽ đầu quân cho Pháp vì
chẳng còn đường nào khác.
Rất ít người biết Hoàng Thế Dũng. Những chiến sĩ vô danh có rất nhiều,
nhiều hơn hẳn các chiến sĩ có danh.
Mà cũng phải thôi, quá khứ là quá khứ. Thiên hạ có quên việc này việc khác,
người này người khác âu cũng là chuyện bình thường.
Hoàng Thế Dũng mất khi tôi ở rất xa anh. Nhưng ký ức về anh còn mãi trong
tôi.
Tôi ghi lại vài dòng về số phận nghiệt ngã của anh, để những thế hệ sau
biết chuyện gì đã xảy ra với một người vô danh đã góp phần làm nên Cách mạng
Tháng Tám.
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ
VỀ ĐI EM, thơ của Đặng Xuân Xuyến:
0 comments:
Đăng nhận xét