CHIẾN
TRANH VÀ THÂN PHẬN CỦA
TUỔI
TRẺ MIỀN NAM TRONG THƠ NGUYÊN SA
Nguyên
Sa (1932-1998) là một nhà thơ nổi tiếng của thi đàn miền Nam giai đoạn
1954-1975. Đương thời, ông được xem là một “hậu Xuân Diệu” của thơ tình miền
Nam, được đông đảo tuổi trẻ học sinh, sinh viên yêu thích. Cũng vì quá nổi
tiếng ở mảng thơ tình mà người ta ít để ý đến mảng thơ mang ý thức phản chiến
của ông trong thời kỳ đó, nhất là mối quan hệ giữa tình yêu của tuổi trẻ trong
quan hệ với hiện thực chiến tranh. Đọc thơ Nguyên Sa, nhất là tập thơ Những Năm
Sáu Mươi (Tập thơ không được chính quyền miền Nam cấp phép xuất bản, phải tự in
lậu trên giấy ronéo lưu hành nội bộ).
Tuổi
trẻ miền Nam giai đoạn 1954-1975 sống trong bối cảnh đất nước cắt chia dưới gót
giày xâm lược. Sự bắt bớ tham chiến cho một cuộc chiến tranh phi nghĩa, đau
lòng, cùng sự nô dịch văn hóa của ngoại bang, sự “lai căng”, “bội tình” (chữ
dùng của Trịnh Công Sơn) của những kẻ bán nước, tiếp tay cho giặc… đã khiến
tuổi trẻ miền Nam sống trong nỗi đau thân phận trước sự bạo tàn của chiến cuộc.
Cả tuổi trẻ và tình yêu đều chao đảo, bế tắc trong vòng xoáy của thời cuộc lúc
bấy giờ. Là một trí thức, một thầy giáo có trách nhiệm cùng dân tộc và tuổi
trẻ, lại có cả một quãng đời tuổi trẻ bị bắt sung vào lính đánh thuê, thơ
Nguyên Sa thể hiện rất rõ thân phận của tuổi trẻ và tình yêu trước nỗi đau hiện
thực chiến tranh.
1. Tuổi trẻ của đời
người luôn gắn liền với mùa xuân và tình yêu. Nhưng theo Nguyên Sa, mùa xuân
thì “đã rơi mất”: Năm ngón tay có bốn mùa trái đất/ Chúng tôi cầm rơi mất một
mùa xuân” (Bây giờ). Còn tình yêu? Tình yêu thì muôn đời vẫn thế! Vẫn mang đến
cho con người những nhung nhớ, an ủi dù phải đang trằn mình trong cuộc chiến
phi nghĩa nơi “những miền núi xa”: Buổi chiều và mái tóc em/ Bắt đầu phủ xuống
những miền núi xa./ Anh nằm khi tóc bay qua/ Đám mây tình tự thịt da nhẹ nhàng/
Giống như trời lấy áo choàng/ Đắp lên thân thể võ vàng từ lâu (Buổi chiều và
mái tóc). Cảm ơn nụ cười và đôi mắt tình yêu đã giữ hộ bình minh trong đêm tối,
đã thắp xuân giữa “những cánh rừng quên mất mặt xuân” cùng “những chân nai lạc
cỏ”, “những mắt sóng vỡ”, “những đảo buồn chìm” “những thuyền sao chạy lạc”:
Hỡi mặt trời hãy cám ơn đôi mắt/ Trong đêm khuya vẫn giữ hộ bình minh/ Những
cánh rừng quên mất mặt xuân/ Những chân nai đi tìm tay cỏ biếc/ Những mắt sóng
vỡ trên thung lũng biển/ Những đảo buồn chìm trong im lặng xanh/ Những thuyền
sao chạy lạc trong đêm/ Hãy cám ơn nụ cười và đôi mắt (Cảm tạ). Nhưng rồi trong
niềm “cảm tạ” ấy, tình yêu vẫn không giấu được nỗi đắng cay trước hiện thực đau
buồn:
Dù quanh chúng mình chỉ là những hàng rào đố
kỵ
Giữa một đêm không trăng
Giữa một lòng chiều không đáy
Em đừng khóc làm gì
Cho nước mắt vu vơ
(Bài
thơ ngắn).
Tự
mình chất vấn với chính mình trước những mâu thuẫn giữa tình yêu và chiến
tranh; giữa “trời xanh và gió mát” do tình yêu mang đến và sự dịu dàng của bóng
dáng giai nhân với những “mù mịt” đạn bom, giăng giăng “đồn phòng ngự” và sự
“thô bạo của một gã lính canh đi giày đinh giẫm nát tâm hồn” ở ngay tuổi “hai
mươi”: Các em/ Những Kiều, những Thu, những Loan, những Ðạm/ Các em đã đem cho
tôi trời xanh/Và gió mát// Tại sao?/ Tôi chẳng hiểu tại sao/ Cũng chẳng cần tìm
hiểu/ Có thể đời đã để sau lưng tôi chiến tranh mù mịt/ Cuộc sống đổi màu trong
nước mắt phế binh/ Hay ở quanh tôi những đồn phòng ngự/ Ðã biến tôi thành một
gã lính canh thô bạo/ Ði giầy đinh dẫm nát tâm hồn (Hai mươi). Tình yêu của
tuổi “hai mươi” đã thế thì tình yêu của thằng lính “ba mươi tuổi” lại càng chao
đảo bởi “gió lốc”, “cuồng phong” của chiến sự: Hỡi người yêu có bàn tay anh
buông ra như tàn thuốc lá/ Hãy tha cho đốm hồng thân thể này trong ngày tháng
thành than/ Dây thép gai đã buộc vào mắt anh gió lốc/ Cuồng phong đau thương
mang tàn lụi vai buồn. Cả xót xa và tuyệt vọng khi tình yêu phải trao nhau
không phải bằng ánh mắt yêu thương và là “mắt huyệt chôn nhau”, phải hấp hối
vĩnh biệt nhau bằng những nắm đất tiễn đưa ném trên huyệt lạnh bởi những “ngón
tay sầu”:
Hỡi người yêu có bàn tay anh buông ra như tàn
thuốc lá
Vẫn nhìn nhau bằng mắt huyệt chôn nhau
Những hòn đất ném lên hòn đất
Những ngón tay vẫn gọi ngón tay sầu
(Tình
yêu đàn ông ba mươi tuổi).
Chính
vì thế, thơ tình Nguyên Sa ở giai đoạn sau khi trở về nước đối diện với hiện
thực chiến tranh đã không đơn thuần nói chuyện tình yêu mà luôn luôn đặt tình
yêu trong sự lo âu, khắc khoải của hiện thực chiến tranh trong mối quan hệ với
thân phận con người. “Bài giã biệt”, anh nói với người yêu nhưng cũng chính là
nói với cuộc đời. Nhân danh những nghĩ suy và tình yêu của người đàn ông tuổi
ba mươi cùng với “bấy nhiêu lần lũy thừa đau khổ”, Nguyên Sa tuyên bố trả lại
tất cả những kỷ niệm tình yêu, những ước mơ tuổi trẻ, những nụ hôn, những lá
thư xanh của một thời, đành chấp nhận dở dang, “chẳng còn nguyên vẹn” đúng “như
lễ vật trong ngày lại quả gửi về”:
Tuổi
ba mươi và bấy nhiêu lần luỹ thừa đau khổ./ Nhân danh cành tay mọc trái nghi
ngờ./ Nhân danh vầng trán quê hương lo ngại./ Nhân danh mái tóc chờ mưa trong
sa mạc./ Như lễ vật trong ngày lại quả gửi về chẳng còn nguyên vẹn, anh trả lại
em những mùa thu lá vàng, những xứ ước mơ, những lâu đài kỷ niệm./ Anh trả lại
em cả cặp môi trên gò má, lá thư xanh và ngón tay tuổi trẻ (Bài giã biệt).
“Giã
biệt” tất cả để hoang mang, bế tắc, mệt mỏi, chán chường lê thân “vào ngôi nhà
nguyện tâm hồn” cùng “những tiếng chuông khởi đầu Thánh lễ”: Vỗ mạn thuyền xô
động, với nếp trán phế binh, với đôi mắt dã tràng mệt mỏi, anh đi vào ngôi nhà
nguyện tâm hồn./ Gửi đến cho em âm thanh của những tiếng chuông khởi đầu Thánh
lễ (Bài giã biệt).
2. Là một tiến sĩ
Triết học tu nghiệp ở nước ngoài, một giáo sư trung học đệ nhị cấp (tức giáo
viên cấp 3, ở miền Nam gọi là Giáo sư) và giảng dạy triết ở bậc đại học, hơn ai
hết Nguyên Sa là người nhận ra rõ nhất thân phận của một trí thức trước thời
cuộc, trước dân tộc và trước học sinh. Đó là thân phận của một thế hệ tuổi trẻ
mà cặp mắt xanh không đủ để che giấu nỗi buồn, nụ cười không xóa được nỗi ưu
tư; quờ quạng, mất phương hướng với vài tiếng hát lạc lỏng: Thế kỷ chúng tôi
chót buồn trong mắt/ Dăm bảy nụ cười không đủ xóa ưu tư/ Tay quờ quạng cầm tay
vài tiếng hát/ Lúc xòe ra chẳng có một âm thừa. Là tuổi trẻ mà suốt một năm
trời, theo quy luật tự nhiên, mùa xuân lại không hiện diện; trên tay có đủ “bốn
mùa trái đất” lại tự mình đánh “rơi mất mùa xuân”, nên có “cất tiếng” kêu đòi
thì cũng tự mình kêu lấy, tự mình nghe lấy, tiếng kêu rơi rụng xuống chính lòng
mình tụ thành vết sẹo đớn đau:
Năm ngón tay có bốn mùa trái đất
Chúng tôi cầm rơi mất một mùa xuân
Có cất tiếng đòi to. Tiếng đòi rơi rụng
Những âm thanh làm sẹo ở trong hồn
(Bây
giờ).
Nam
nhi phải nặng gánh tang bồng, tuổi trẻ phải gánh trách nhiệm đất nước trên vai,
nhưng tuổi hai mươi của thanh niên miền Nam lúc bấy giờ là cả “hai mươi thế kỷ
lao tù”, đày đọa, nên “chưa đến đã bay vèo”: Tôi mang trên vai/ Tuổi hai mươi/
Như đời hai mươi thế kỷ/ Ðời để quanh tôi những lao tù cơ cực/ Tuổi hai mươi
chưa đến đã bay vèo (Hai mươi). Nguyên Sa thừa “biết rằng”, đây là giai đoạn
trộn lẫn khóc-cười, mừng-tủi, ước hẹn-phôi pha, nhưng rồi cũng đành bất lực vì
chẳng “biết nói làm sao”: Anh biết rằng:/ Có người khóc vì mừng vui ước hẹn/ Có
người cười vì tủi cực phôi pha/ Anh biết nói làm sao/ Nhưng chắc chắn ngàn thu ly
rượu quan hà/ Sẽ phải chua men vì thiếu người sưởi lạnh/ Anh biết nói làm sao/
Khi họ gặp nhau (Anh đã bảo em). Nỗi buồn đau, bất lực thấm sâu và chảy tràn
trong thơ-văn-xuôi của Nguyên Sa tưởng như không một phút nào ngừng, trùm lên
“những chuyện quê hương”:
Anh
không dám kể lể dài dòng như một người giang hồ nói với người giang hồ về những
chuyện quê hương. Anh chỉ dám dâng em chút ít đớn đau với nỗi niềm sám hối. Nỗi
niềm của một kiếp người đã nhiều tháng ngày ngồi trong ngõ tối.
Anh
đã ngồi im không nói: anh chỉ còn là gã kép già quanh năm khát nước vì suốt cả
đời người hò hét một bản xàng xê (Sám hối).
Tuổi
trẻ miền Nam cũng đã từng chờ đợi, tin yêu, nhưng rồi “từng hi vọng bay theo
từng hi vọng” để rồi ngồi đếm thời gian tự “sám hối” với chính mình: Suốt cả
đời người anh đã chờ đợi tin yêu: lửa đến từ những cửa ngõ cuộc đời đã đốt cháy
mười đầu ngón tay bằng những khối nhựa đường nóng bỏng/ Từng hy vọng đã bay
theo từng hy vọng. Không biết có phải vì nhát cuốc tháng ngày đã phạt cỏ đùa
chơi? (Sám hối). Đó là những thân phận tù đày, lao công khổ ải, tan tác, lang
thang: Thằng Chúc bây giờ nằm trong nhà tù/ Thằng Thịnh bị mang đi làm nông
trường/ Thằng Văn lang thang những bờ biển xa/ Em nó ở nhà bán báo vỉa hè… Canh
cánh bên lòng nỗi đau vì đất nước chiến tranh, thân phận tuổi trẻ bị bạc đãi,
bị vu oan, chụp mũ… sống trong muôn nỗi chán chường:
Niềm đau đất nước mỗi ngày một đau
Câu hỏi đã lớn mỗi ngày một lớn
Những đứa sát nhân, vu oan giá họa
Những đứa chụp mũ, chụp mũ, chụp mũ
Mỗi ngày một tăng theo cấp số nhân
Bạn bè dần hết theo tỷ lệ nghịch
Chán cả làm thơ, chán cả ngâm thơ
(Bao
giờ).
Kết
thúc bài thơ Bao giờ là liên tiếp những câu hỏi lớn chứa đựng tâm trạng bế tắc
tưởng chừng không lối thoát: Bao giờ, bao giờ, bao giờ, bao giờ?
Toàn
bộ bài thơ Cắt tóc ăn tết cũng nằm trong tâm trạng chán chường ấy. Đây cũng
chính là nỗi đau thân phận của tuổi trẻ miền Nam thông qua nhìn nhận của Nguyên
Sa về hiện thực xã hội miền Nam lúc ấy: Cắt cái sợi ăn gian/ Cắt cái sợi nói
dối/ Sợi ăn cắp trên đầu/ Sợi vu oan dưới gáy/ Sợi bè phái đâm ngang/ Sợi ghen
tuông đứng dọc/ Sợi xích chiến xa, sợi dây thòng lọng/ Sợi hưu chiến mỏng manh,
sợi hận thù buộc chặt/ Sợi nấp trong hầm/ Sợi ngồi trong hố/ Sợi đau xót như
dây dù chẳng mở/ Sợi treo cổ tình yêu, sợi trói tay hy vọng/ Cắt cho ta,// Cắt
cho ta, hãy cắt cho ta… Cứ liên tục như thế, từng sợi tóc trên đầu đều chứa
đựng những sầu lo của thế hệ: “Sợi mệt mỏi”, “Sợi cháy đen”, “Sợi thở dài”,
“Sợi đánh nhau”, “Sợi chia cắt non sông thành Nam Bắc”, vân vân và vân vân các thứ
sợi: Sợi mệt mỏi sau những tháng ngày hoan hô đả đảo/ Sợi cháy đen như rừng núi
Chu-prong/ Sợi thở dài trong đêm cúp điện tối om/ Sợi sát vào nhau đánh sáp lá
cà/ Sợi cắt non sông thành Bắc Nam, thành khu chiến/ Sợi lên thẳng trực thăng/
Sợi xuống ngầm địa hạ/ Sợi đặt chông/ Sợi gài mìn/ Sợi bóp cò liên thanh/ Sợi
kéo xe đại bác/ Sợi xót xa trên mặt nhăn tuổi trẻ/ Sợi trên trán thơ ngây nằm
im phục kích… Tác giả cứ mãi đồng thanh hô “Cắt” để hi vọng có một ngày nhìn rõ
mặt sự “đổi mới” của quê hương: Hãy cắt tóc/ Hãy cắt tóc và nhìn/ Mặt quê hương
đổi mới (Cắt tóc ăn tết). Dù hi vọng, nhưng nỗi chán chường, bất lực vẫn hiện
lên như một “thế giới buồn” đen kịt một màu “tống biệt” cùng những “điệp khúc
giã biệt”:
Cánh cửa ngang qua thế giới buồn
Tống biệt hồng sang tống biệt đen
Em mang điệp khúc về đâu đó
Ta tưởng chừng như giã biệt em
(A
Tỳ).
Và
những sầu đau, thương nhớ, cách chia giữa “mịt mù thế nhân” như một A tỳ địa
ngục: Chết một ngàn năm chắc phải sầu/ Nhưng này thương nhớ lúc xa nhau/ Mịt mù
nhân thế trôi biền biệt/ Giữa vị sầu nghe có vị đau (A Tỳ). Rồi như một tất
nhiên, cái chết đã hiện hình: Anh cúi mặt hôn lên lòng đất/ Sáng ngày mai
giường ngủ lạnh côn trùng/ Mười ngón tay sờ soạng giữa hư không/ Ðôi mắt đã
trũng sâu buồn ảo ảnh (Lúc chết). Đớn đau thay! Tuổi trẻ tươi đẹp lại phải đồng
hành cùng cái chết:
Nằm ở đấy, hai bàn tay thấm mệt
Ngón buông xuôi cho nhẹ bớt hình hài
Những bài thơ anh đã viết trên môi
Lửa trái đất sẽ nung thành ảo ảnh
(Lúc
chết)
Và
đau đớn nhất là tuổi trẻ miền Nam xem cái chết là một sự giải thoát khỏi hiện
thực đớn đau: Chúng tôi nhảy múa hò reo/ Thế là nó thoát, thế là nó thoát/ Thế
là nó thoát, đúng rồi, thế là nó thoát/ Thoát khỏi ngủ, thoát khỏi ăn, khỏi
thở/ Khỏi đêm, khỏi ngày, khỏi tháng, khỏi năm/ Khỏi chờ, khỏi đợi/ Khỏi nhìn
tình ái đội nón ra đi/ Khỏi hy vọng ban mai, khỏi buồn thiu buổi tối (Đám tang
Nguyễn Duy Diễn)1.
Đọc
đoạn thơ này, ta càng hiểu thêm ý nghĩa phản chiến trong “Hãy sống giùm tôi,
hãy nói giùm tôi, hãy thở giùm tôi” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng viết vào
những năm tháng ấy…
*
Chào
đời cùng với năm ra đời của Thơ Mới, năm nay cũng là kỷ niệm 90 năm sinh Nguyên
Sa (1.3.1932 – 2022), tôi xin trích một đoạn ngẫm suy của Tuy Hòa cùng khát
vọng thơ của Nguyên Sa thay cho lời kết: “Vậy là Nguyên Sa đã yên nghỉ mười năm
ở California. Mọi vui buồn và được mất cũng đã lắng dịu đi, đủ để những người
bây giờ bình tâm phác thảo một chân dung thơ Nguyên Sa. Ông đã đến với chúng
ta, đã sống với chúng ta, đã rời xa chúng ta, và đã gửi lại những câu thơ dâng
hiến cả cuộc đời. Gần nửa thế kỷ miệt mài với thơ, Nguyên Sa canh cánh “luôn
luôn làm sao để không giống mình, để trở thành một người khác mình, thì đó
chính là cách thức, cách thế để trở thành chính mình” 2.
________
1. Thơ sử dụng trong bài viết được trích
dẫn từ ba nguồn chính: Tạ Tỵ, Mười khuôn mặt văn nghệ, Nam Chi xuất bản, 1970;
Thơ Nguyên Sa, Tổ hợp gió xuất bản, 1971 (trích theo thivien.net) và Thơ Nguyên Sa, Nxb Đồng Nai, 1999
2. Tuy Hòa, “Những bài thơ cuối cùng của
Nguyên Sa”, VNExpress, 16.7.2008
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ QUÊ NGHÈO:
*
MAI
BÁ ẨN
Địa chỉ: Trường Đại học Tài chính Kế toán,
huyện
Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.
Email: thobichke@gmail.com
…………………………………………………………………………
- Cập nhật từ email tranchicuong27@yahoo.com.vn ngày
23.04.2022.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ
nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét