CÕI ÂM
*
1
Tôi
tốt nghiệp đại học tài chính đúng lúc kinh tế Pháp xuống dốc. Kiếm việc lúc bấy
giờ khó ơi là khó, nhớ lại mà rùng mình. Đã tưởng một khi cầm được mảnh bằng
trong tay ắt đời phải phơi phới lên hương, thế mà rốt cuộc lũ sinh viên vừa ra
trường vẫn phải chạy đôn chạy đáo để xin một việc làm bất kỳ mà không được,
khốn nạn là thế. Rốt cuộc, tôi nhắm mắt nộp đơn vào ngành bưu điện là ngành
tréo cẳng ngỗng đối với chuyên môn của mình vì chẳng còn đường nào khác. Những
người trên thông thiên văn dưới thông địa lý bảo: đó chính là nơi duy nhất tôi
có cơ may được nhận. (Tác giả Vũ Thư Hiên)
Đơn
gửi đi rồi, tôi dài cổ chờ. Một tháng. Rồi hai tháng. Đùng một cái, giữa tháng
thứ ba, đang lui cui rửa chén ăn lương giờ cho một quán ăn Tàu, tôi nhận được
giấy làm việc ở Sermages thuộc vùng Basse Normandie. Mừng khôn tả. Thiếu nỗi
phát điên.
Sermages
là một thị trấn nghèo, với hơn trăm ngàn dân, bé tẹo và già lão. Ở ven đô còn
sót lại một cổng đá hộc đầy hoa phong lữ, một cái hào sâu tối om dưới bóng
những gốc tiêu huyền rậm rạp, một pháo đài đổ nát không biết từ thế kỷ nào… Một
thị trấn thích hợp với những ông già chờ chết, nhưng không phải với tôi.
Đồng
nghiệp trong sở ăn vận chững chạc, nói năng điềm đạm, có điều họ tỏ ra rất hờ
hững với thằng lính mới tò te, cứ như thể tôi đã ở bên họ từ khươm mươi niên.
Nói tóm lại, đó là dân Ăng Lê bên này biển Manche, những robots cổ cồn chính
hiệu. Thôi thì đành tự thân vận động, đến đâu hay đến đó, trời sinh voi trời
sinh cỏ. Tôi thuê tạm một phòng hẹp gần sở, trong một nhà trọ tồi tàn, có rệp,
trả theo tuần, được mỗn cái giá cũng phải chăng. Từ từ rồi sẽ kiếm cho mình một
căn hộ, hoặc một ngôi nhà nhỏ, tôi tính thế. Đã đến lúc phải sống cho ra sống.
Chẳng gì bây giờ mình cũng là một viên chức, dù là viên chức quèn. Sermages đâu
phải nơi phồn hoa đô hội, giá nhà thuê không thể quá đắt. Vĩnh biệt những
chambres de bonnes áp mái ở Paris, mùa hè như trong lò bánh mì, mùa đông tha hồ
diện áo ấm trong nhà, nơi trú ngụ của bộ lạc sinh viên nghèo. Những căn phòng
như thế, dịch đúng nghĩa là “phòng con sen”.
Tìm
nhà ở Sermages tưởng dễ, hoá không phải. Lang thang đến vẹt gót giày trong cái
tỉnh con con bằng cái giạng đái, nói theo cách người xưa, vậy mà mất toi hai
tháng không kiếm nổi một chỗ nào ưng ý. Nhà ở cũng như đàn bà, người mình ưng
thì không ưng mình, người ưng mình thì mình lại không ưng.
May
cho tôi gặp được Ngoạn.
Ngoạn
cho biết: ngoài anh và tôi ra, ở chốn đèo heo hút gió này không có người Việt
nào khác. Giúp tôi là nghĩa vụ người đến trước, anh vỗ vai tôi đồm độp, nói
bằng giọng đàn anh che chở. Được ăn nhiều thịt hươu thịt vượn từ tấm bé, tôi
nghe vậy biết vậy, chứ chẳng mấy tin.
Thấp,
đen, cục mịch, với một sợi lông dài mọc ra từ một nốt ruồi trên má trái, Ngoạn
giữ nguyên dáng dấp một ông phó cối vùng đồng bằng Bắc bộ ngày xưa, mặc dầu anh
đã ở Pháp trên hai mươi năm. Ngoạn làm nghề sửa chữa vặt trong nhà, người Pháp
gọi là plombier. Một thằng không bằng cấp, lại vợ đầm (tốn hơn vợ ta nhiều),
hai con nhỏ (tốn hơn con ta nhiều), làm plombier là tốt nhất, anh bảo thế.
Plombier là thợ đặt đường ống, theo nghĩa nguyên thuỷ, nhưng plombier làm tất
tần tật mọi việc linh tinh lang tang như mở khoá hóc, lắp đặt hố xí, sửa chữa
cửa rả, chạy dây điện ngầm…
-
Giờ làm ăn oải lắm, cậu ơi. Kinh tế xuống thì kiếm tiền bằng nghề chó nào cũng
khổ.
Chúng
tôi ngồi trong quán cà phê vỉa hè, quay mặt ra đường, rất Paris.
-
Cậu ngồi bàn giấy, trông thì bảnh, cơ mà chông chênh lắm… - anh thở dài - Mất
việc lúc nào không biết.
Tôi
buồn rầu hình dung viễn cảnh xám xịt. Dễ như Ngoạn nói lắm.
-
Mất việc thì đi làm với tớ – Ngoạn an ủi - Nghề tớ không sang, khó thì khó, vẫn
còn có đồng ra đồng vào…
-
Anh Ngoạn ạ, gặp anh tôi thật may.
-
May cái con khỉ. Này, đừng gọi tớ là Ngoạn, phải gọi là Nô Ăng, theo cách bọn
Tây, không thì đến con vợ tớ cũng không hiểu. Tây không phát âm được vần ng,
chúng nó đổi béng cái tên của tớ thành Noan. Cho nó tiện. Được nghe cậu gọi tớ
bằng tên cúng cơm, thấy đã con ráy.
Tôi
kể nông nỗi đi tìm nhà. Anh gật gù, anh gãi đầu suy nghĩ.
Một
tuần sau anh gọi điện cho tôi biết đã tìm được cho tôi một căn nhà ngoại ô.
-
Mình xem mấy cái, ưng được cái này. Một mình thì quá rộng. Một đôi thì vừa
xinh. Ở lâu cũng được, không phải kiếm chỗ khác.
-
Nhà nhiều phòng?
-
Nhiều. Nhà to đùng.
-
Tôi chưa định lấy vợ. Nhà to thì tiền to, hãi lắm.
-
Đã biết là bao nhiêu mà rộn. Rẻ rề hà.
Tôi
chờ Ngoạn cho tôi biết tiền nhà, nhưng anh không vội nói ra.
Anh
bảo:
-
Nhà này cổ. Không sang, chỉ được cái rẻ.
Anh
xướng giá thuê. Tôi trợn mắt.
Làm
sao Ngoạn có thể tìm được ngôi nhà với giá hời đến thế?
-
Làm plombier chẳng khác gì làm anh cắt tóc, tha hồ nghe, đủ chuyện tào lao
thiên tôn. - Ngoạn nhẩn nha giải thích - Chủ nhà nào cũng thế, cũng hay tâm sự
vụn trong lúc ngó nghiêng mình làm việc. Nhất là các ông bà già. Mình nói có
ông bạn cần nhà, thế là người nọ mách, người kia mách, chỉ việc nhấc điện thoại
mà hỏi. Giỏi gì đâu.
Những
ngôi nhà tôi ưng cái nào cũng đắt. Có điều đi bộ từ nhà đến sở tính ra mất gần
một tiếng. Có xe buýt, nhưng rất thưa, nửa giờ một chuyến, lại hay đỗ vặt.
Nhà
Ngoạn mách sẵn đồ đạc, nhiều là đàng khác. Đến nỗi Ngoạn định sẻ cho tôi một ít
đồ dùng nhà anh, rốt cuộc chẳng phải mang đến thứ gì.
Đưa
cho tôi chìa khoá, chủ nhà, một ông lão mặt vỏ bao xi măng rúm ró, dặn:
-
Mọi thứ có đủ, ông cứ việc dùng. Điều kiện duy nhất là đồ đạc trong nhà xin ông
đâu để nguyên đó, đừng xê dịch. Nếu ông không chịu thì coi như vụ này không
thành.
Tôi
chấp nhận điều kiện ấy ngay lập tức, như bất cứ người thuê nhà gặp giá rẻ nào.
Thế là khỏi phải lang thang tha trăm thứ bà rằn về nhà.
2
Tôi
quên bẵng lời hứa.
Ở
được vài hôm, thấy cái giường đặt ở vị trí đối diện lò sưởi là không phải lối,
tôi quyết định dịch nó ra bên cửa sổ, vừa có nhiều khí trời, vừa nhiều ánh
sáng, đi làm về có thể nằm ườn ra đọc sách mà không cần phải bật điện. Cái tivi
cổ lỗ, thuộc thế hệ tivi màu đầu tiên, to như một tủ lạnh, cũng phải đẩy qua
bên trái một chút, xoay lại vị trí để cái màn hình bạc phếch không bị phản
quang do ánh sáng từ cửa sổ chiếu vào.
Một
đêm, chợt thức giấc, tôi thấy có bóng người ngồi thu lu trong chiếc ghế bành
đặt bên lò sưởi. Nửa tỉnh nửa mê, tôi nhận ra đó là một người đàn ông đứng tuổi
vận áo choàng đen, đội mũ phớt. Tôi nổi da gà. Tôi ở một mình, cửa đóng then
cài, làm sao có người vào được?
Trong
ánh sáng mờ mờ của sao trời chiếu qua cửa sổ tôi thấy người đó không có vẻ một
tên trộm. Trộm gì mà bình thản như thế trong căn nhà nó đột nhập?
Căn
cứ những gì tôi đọc được thì trong tình huống này cách xử sự khôn ngoan nhất là
vờ ngủ say. Người vờ ngủ say, cả trong nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, trong mọi mối
quan hệ cá nhân cũng như quan hệ xã hội, người sống theo nguyên tắc ba không -
không biết, không nghe, không thấy – bao giờ cũng tìm được lối thoát an toàn.
Mắt
hé mở, tôi nhìn thấy tên trộm yên vị một lúc lâu trong bóng tối. Ngồi chán, hắn
đứng lên, đi đi lại lại, dáng suy nghĩ, đầu hơi cúi, bàn tay phải đưa lên gãi
cằm. Rồi đến bên lò sưởi, hắn nhấc từng thứ trên đó lên mà ngắm nghía. Đầu
tiên, hắn ngó nghiêng quan sát kỹ tượng cô vũ nữ pha lê với cánh tay trần bị
gãy đã được gắn lại bằng keo trong, rồi đến cái bloc lịch bằng gỗ mà thời gian
chết cứng với ngày tháng không đổi, thứ lịch không có năm nên không thể biết
được nó dừng lại từ năm nào...
Trên
bệ lò sưởi là cả một lô một lốc đồ không tên, không biết có tự bao giờ, không
hiểu được dùng vào việc gì, tất cả chen chúc nhau trên một diện tích bé nhỏ.
Cái nào cũng được tên trộm nhấc lên xem xét với vẻ trìu mến. Đáng ngạc nhiên là
hắn không bỏ bất cứ thứ gì vào túi. Xem xong cái nào hắn lại thận trọng và nhẹ
nhàng đặt vào chỗ cũ. Cái đáng giá nhất trong số những đồ vật ấy là cái ví của
tôi, thì hắn thậm chí không thèm cầm lên.
Sau
đó tên trộm đi một vòng căn nhà. Rồi lặng lẽ nhìn về phía giường tôi bằng cái
nhìn không mấy thiện cảm, tôi không nhìn thấy, nhưng cảm thấy điệu bộ lầm lì
của hắn.
-
Hừ.
Hắn
phát ra một tiếng duy nhất kể từ lúc hắn xuất hiện.
Thế
rồi hắn bắt đầu cúi xuống, đẩy cái tivi trở lại chỗ cũ. Sau cái tivi là cái ghế
bành. Công việc rõ ràng nặng nhọc, tôi nghe hắn thở phì phò. Xong cái ghế, hắn
tiến về phía chỗ tôi nằm. Một bầu không khí lạnh lẽo trùm lên tôi, càng lúc
càng lạnh hơn, cùng với bước chân nhẹ như bước chân mèo của hắn. Trong khi hắn
cố gắng đẩy, tôi có cảm giác thân hình hắn phình to dần, to mãi, trùm lên cả
cái giường đang nhích đi từng chút một. Trong bóng đêm dày đặc ở chỗ tôi nằm,
cặp mắt hắn gắn chặt vào mặt tôi.
Tôi
hét lên, chồm dậy, giơ tay vớ công tắc đầu giường.
Đèn
bật sáng. Tên trộm biến mất. Tôi run rẩy, mãi mới xỏ chân được vào dép, nhìn
quanh căn phòng trống rỗng. Thở hổn hển, người lạnh toát vì sợ, tôi quỳ xuống,
ngó vào gầm giường. Chẳng có quái gì hết.
Tôi
đi sang phòng ăn, vào bếp, vào phòng ngủ vẫn để trống từ khi tôi dọn đến. Không
có gì hết. Kiểm tra lại mọi khoá cửa thấy vẫn y nguyên.
Tôi
ngồi phịch xuống giường, toàn thân ướt đẫm mồ hôi lạnh.
3
Tôi
không kể cho Ngoạn nghe chuyện xảy ra. Tôi ngượng. Khi người đàn ông sợ ma,
thiên hạ sẽ nhìn hắn như con nít.
Câu
chuyện ban đêm tôi vừa kể không phải đến đấy là hết. Sau lần ấy là những lần
khác.
Bây
giờ tôi đã biết đích xác tên trộm là ai - một hồn ma. Ma thật sự. Ma chính
cống. Ma một trăm phần trăm. Các nhà bác học đeo kính trắng trong các phòng thí
nghiệm giải thích hiện tượng hồn ma theo đủ mọi cách, thậm chí với những sở cứ
có vẻ rất khoa học, tôi đã đọc. Nhưng tôi là thằng thực tiễn – tôi thừa nhận
cái tôi thấy, giải thích cách gì đối với tôi cũng bằng thừa.
Khốn
nạn cho tôi là ở chỗ, sau khi thừa nhận sự hiện hữu của con ma nọ, tôi chẳng
biết phải làm gì với nó? Đánh nhau với nó thì không được rồi – ai cũng biết ma
chỉ là cái bóng. Chỉ còn nước bỏ ngôi nhà này mà đi? Để rồi bắt đầu lại, một
lần nữa, cuộc lùng kiếm chỗ ở mới, rất mất thời giờ, nghĩ đến đã phát ớn?
Hồn
ma nọ sau đó còn hiện về vài lần, lần nào cũng như lần nào, với những cử chỉ
lặp lại. Hắn rõ ràng chẳng có ý làm khó tôi. Hắn lẳng lặng làm công việc hắn
muốn, và chỉ có thế. Như tôi đã kể, hắn hiền lành cầm các đồ vật lên ngắm
nghía, hì hục đẩy các đồ bị xê dịch về chỗ cũ, một cách bực dọc và hoàn toàn vô
tích sự – hôm sau tôi vẫn thấy chúng ở nguyên chỗ. Hắn có vẻ một hồn ma đứng
đắn, với một chút dở hơi. Tuy nhiên, mọi cử chỉ của hắn đều có suy nghĩ, có
tính toán, làm với vẻ khoan thai, chững chạc.
Thôi
thì thây kệ, tôi nghĩ, mặc cho hắn làm những việc hắn muốn. Xét cho cùng, sự
hiện diện của hắn đâu có gây ra điều gì tệ hại cho tôi? Nếu hồn ma không đủ sức
đẩy đồ vật thì hắn có thể làm được gì với tôi, một thằng người trên sáu chục kí
lô?
Có
điều sau mấy lần quan sát hắn đánh vật với mấy thứ bị tôi dịch chuyển, tôi đâm
ra ái ngại cho hắn. Hắn quá vất vả. Mà hoài công. Nếu là tôi, tôi sẽ vứt ngay
cái công việc vô tích sự và mất sức ấy. Hì hục thế để làm gì cơ chứ?
Còn
tôi, tại sao tôi không thể giúp hắn một chút? Gì thì gì, để hắn khốn khổ thế là
không nên. Làm người phải có lương tâm. Nghĩ rồi, tôi làm liền, tức là đẩy trả
lại mấy đồ vật về chỗ mà hắn muốn.
Đêm
đến, hồn ma nghiêng ngó ngắm nghía cái tivi, cái ghế bành, cái giường. Hắn phát
hiện ra sự thay đổi vị trí. Hắn tỏ vẻ hài lòng. Thay vì kiểm lại những đồ vật
trên lò sưởi, hắn đi bách bộ trong phòng. Trông dáng đi của hắn, nhẹ nhàng chứ
không uể oải, hơi nhún nhẩy nữa là khác, tôi biết hắn vui. Hình như hắn còn
huýt sáo miệng nữa.
Cuối
cùng, xoa hai tay vào nhau, hắn quyết định đi về phía tôi nằm.
-
Này ông bạn!
Tôi
nghe hắn dừng lại ở chân giường.
-
Đừng có giả vờ, tôi biết thừa…
-
Hừm, - tôi ọ ẹ - Tôi ngủ hay tôi thức mắc mớ gì tới ông?
-
Ông bạn này – hắn định đặt tay lên vai tôi, nhưng nghĩ sao, hắn rụt tay lại -
Dậy đi!
-
Hừm - tôi lại nói.
Lạ
một cái là tôi không cảm thấy sợ như lần đầu thấy hắn. Nhìn vóc dáng hắn thì
thấy hắn đã ở tuổi về già. Hắn có vẻ hiền lành, không phải là loại trẻ thích
giở trò nghịch ngợm.
-
Ông bạn tốt hơn là tôi nghĩ đấy.
-
Hừm – tôi đáp, vẫn nằm yên chỗ.
-
Này - hắn gọi tôi – nhà có cà phê không?
-
Cà phê hử? Có – tôi che miệng ngáp, vẫn giả giọng ngái ngủ.
-
Tuyệt! – hắn nói, lại xoa hai tay vào nhau, vẻ hài lòng.
-
Capuccino, được không? – tôi hỏi hắn một cách không nhiệt tình.
-
Capuccino? – hắn hỏi lại.
-
Có hộp capuccino đấy. Ở trong tủ…
Hắn
nhún vai:
-
Capuccino hoà tan à? Ồ, không, tôi không bao giờ xài loại đồ uống vô duyên ấy.
-
Rất tiếc, tôi không còn thứ nào khác.
-
Cả đời tôi chỉ uống expresso. Không dễ gì bỏ được một thói quen lâu ngày.
Đúng
là một hồn ma Pháp. Hồn ma Anh chắc chắn sẽ không đòi cà phê, mà trà sữa.
-
Ờ, thói quen là thứ không dễ bỏ - tôi lầu bầu - Nhưng đào đâu ra expresso bây
giờ? Phải ra tận ga mới có một quán cà phê đêm, ông ơi. Mà là cà phê Thổ, loãng
toẹt.
-
Đi uống cà phê vào giờ này ấy à? Có mà điên. Nhà có cà phê bột không?
-
Có. Tôi mới mua, hàng hạ giá. Pha kiểu Thổ ư?
Hắn
lắc đầu:
-
Không. Tôi không thích. Trong nhà có máy expresso, ông không biết à?
-
Không.
-
Có đấy. Để tôi chỉ cho ông bạn. Hoá ra ông là một thằng lười - hắn càu nhàu - Ở
trong nhà ngần ấy thời gian mà không thèm biết có thứ gì, ở đâu…
-
Cái đó đúng, tôi vốn lười.
-
Dậy đi!
Tôi
uể oải ngồi dậy. Trong phòng tối om. Tôi sờ soạng tìm công tắc điện. Hồn ma giơ
tay ngăn:
-
Đừng bật đèn. Tôi không thích ánh sáng. Thắp nến đi, nếu ông muốn. Ông biết nến
ở đâu chứ?
-
Không.
Hắn
cười hí hí, hoặc tôi có cảm giác như thế. Tôi nghe thấy tiếng của tôi phát ra,
chứ tiếng của hắn thì không. Tưởng chừng nghĩa của câu nói phát ra từ miệng hắn
đi thẳng vào nhận thức của tôi, thứ lời nói không mảy may làm rung động không
khí.
Hắn
dẫn tôi vào căn phòng nhỏ, thứ phòng chứa đồ, mà tôi chưa hề ngó tới vì sự ngổn
ngang trăm thứ bà rằn trong đó. Hắn chỉ cho tôi chỗ để mấy hộp nến. Rồi hắn chỉ
tiếp cho tôi lấy ra trong hộc một cái tủ xiêu vẹo, một cái máy pha cà phê Krups
nằm bên dưới đủ thứ đồ tập tàng. Thứ máy cổ lỗ sĩ này chẳng còn ai dùng, áp
suất hơi của nó quá thấp.
Tôi
vào bếp, bật ga, đun nước. Hắn uống cà phê, còn tôi sẽ uống trà đen. Uống cà
phê lúc này có mà thức đến sáng.
Hắn
đứng gần tôi, ngay bên cạnh. Tôi rất muốn nhìn xem mặt hắn thế nào, mà ngại.
Biết chỗ để nến rồi tôi cũng không muốn thắp lên là vì thế. Tôi sợ nhìn thấy
một cái đầu lâu với hai hố mắt sâu hoắm như những hồn ma trong phim kinh dị của
Mỹ. Những hồn ma Mỹ thường giống nhau, chắc hẳn do người Mỹ tiết kiệm, phim nọ
dùng lẫn chế vật của phim kia. Một cái đầu lâu dưới vành mũ sùm sụp chắc hẳn
rất gớm ghiếc. Hình như hắn dễ coi hơn, dưới vành mũ là một cái mặt chứ không
phải một cái đầu lâu, tôi nhác thấy nó trong một thoáng, do vô tình, lúc chúng
tôi đi song hàng.
Hắn
hài lòng thưởng thức ly expresso. Hắn uống chậm, từng hớp nhỏ. Với tư cách chủ
nhà, tôi hài lòng thấy khách hài lòng. Chúng tôi ngồi cách nhau mấy bước, hắn –
trong ghế bành, tôi – trên ghế tựa.
-
Ông bạn, e hèm, biết nói thế nào nhỉ, ừm…
-
Sao?
Hắn
gãi đầu:
-
Tức là, tôi muốn nói, ông là người, hì hì … kể ra… cũng được đấy!
-
Ông quá khen.
Hồn
ma gật gù:
-
Trước hết, tôi phải cảm ơn ông.
-
Ơn huệ gì!
-
Ơn chứ. Rốt cuộc, rồi ông đã chiều theo ý tôi trong việc trả lại mấy thứ nọ về
chỗ cũ. Tính tôi thế: tôi không thể nào chịu được khi thấy đồ đạc bị di chuyển
khỏi chỗ mà tôi đã chọn cho chúng.
-
Có thể đó là một tính tốt. Ít nhất thì nó cũng là một cái quyền mà người ngoài
không nên xâm phạm.
Hắn
cười.
-
Tôi không nghĩ rằng ông làm việc tốt cho tôi nhờ lý trí mách bảo. Ông hiểu chứ?
Hừm, biết nói thế nào nhỉ, ở ông ấy, trong việc làm tốt đối với tôi có sự dự
phần của tấm lòng, nhờ vào khả năng biết cảm thông với tha nhân, hay nói cách
khác, khả năng tìm ra cách hành xử phải đạo do biết đặt mình vào vị trí kẻ
khác….
Lời
khen của hắn làm tôi bối rối. Tôi ngượng.
-
Đó chẳng qua là sự lui bước của tôi trước sự kiên trì đáng nể của ông thôi.
Hoặc là sự thoả hiệp với tình thế bất khả kháng…
Hắn
nhún vai:
-
Ông khiêm tốn. Điều đó có lợi cho ông. Nhờ khả năng đáng quý ấy ông vượt qua
được cảm giác sợ…
-
Tôi chưa hiểu ý ông.
-
Có gì mà không hiểu. Ông thú nhận đi, lần đầu ông thấy tôi ông đã sợ tôi, sợ
muốn chết…
Hắn
dùng thời quá khứ khi nói rằng tôi đã sợ hắn. Quả thật bây giờ, không hiểu sao,
cảm giác ấy không còn. Tự nhiên, tôi không thấy sợ hắn nữa.
Nghĩ
cũng lạ, thoạt đầu tôi còn hơi sợ một tí, giờ thì không sợ chút nào. Tôi lý
luận: nếu không phải một vật thể, cái bóng ngồi trước mặt tôi kia chỉ là một
khái niệm. Sợ một khái niệm là dở hơi. Ma, với tôi, và với rất nhiều người, chỉ
là một khái niệm. Còn hơn thế, một khái niệm rất đỗi mù mờ.
-
Vâng, tôi đã sợ ông. – tôi gật đầu - Đúng thế. Nhưng khi thấy ông quá vất vả xử
lý mối mâu thuẫn giữa hai ý muốn của tôi và của ông, thì tôi đâm ra ái ngại.
-
Hay thật!
-
Khi tôi ái ngại thì cảm giác sợ hãi biến dần. Rồi hết. Ở đời, ông ạ, xét cho
cùng, có lắm cái đáng sợ hơn nhiều…
-
Chính xác - hắn gật gù.
-
Có thể còn có một nguyên do khác. Ông không biết chứ tôi đã từng sợ, sợ nhiều
thứ, sợ bóng sợ gió, sợ tất cả, sợ lắm lắm.
-
Mon Dieu, Trời ạ.
-
Không phải mình tôi, cả thế hệ chúng tôi sợ, còn hơn thế, cả một giống nòi tôi
sợ, ông hình dung nổi không: cả-một-giống-nòi? Không hả? Chúng tôi được huấn
luyện từ tấm bé để mà sợ.
-
Có chuyện ấy à?
-
Kết cục là chúng tôi không phải chỉ sợ cái đáng sợ, chúng tôi còn sợ cả những
cái chẳng có gì đáng sợ nữa. Trong ngôi nhà của mình, chúng tôi đi lại len lén.
Trong thành phố của mình, trong nhà của mình chúng tôi nói chuyện với nhau bằng
giọng thì thào, nhìn trước nhìn sau, chúng tôi theo dõi những câu nói của chính
mình, lúc nào cũng e phạm phải điều gì cấm kỵ, và lo lắng nhỡ điều đó bị phát
giác, bị bẩm báo...
-
Khiếp. Đến thế kia ư?
-
Hì hì, tôi biết mà, ông mù tịt về cái đó, ai không nếm trải nỗi sợ ấy người đó
chắc chắn không hiểu nổi. Cả ông nữa, ông cũng không phải ngoại lệ, cho dù ông
có là… - tôi định nói “cho dù ông có là ma”, nhưng kịp kìm lại - Tuy nhiên, cái
gì cũng có giới hạn. Khi sợ quá nhiều và quá lâu, người ta ắt trở thành dạn dĩ,
chẳng sớm thì muộn…
Nhìn
hơi nước lởn vởn trên miệng tách cà phê của hắn, tôi nhắc:
-
Ông uống đi kẻo nguội.
-
Tôi đang uống đây – hắn nói và cúi xuống nhắp một ngụm – Phải thú thực với ông:
khi thấy ông sợ tôi, tôi cũng khoái đấy. Đến khi ông không sợ nữa, thì, ông
biết không, tôi hơi buồn một chút. Con người ta bao giờ cũng khoái được thấy
người khác sợ mình. Ông nói tiếp về cái sợ của ông đi.
Hắn
nói “con người ta” ngon lành, như thể hắn không phải là ma.
-
À, cái sợ… Nó khủng khiếp một cách âm thầm. Tức là, người ta sợ đấy, mà bề
ngoài thì như không. Tôi biết có người chỉ lỡ lời nói hớ một câu xét cho cùng
là vô thưởng vô phạt, vậy mà anh ta sợ đến phát khùng, anh ta cứ đinh ninh rồi
sẽ phải trả giá đắt cho câu nói ấy, anh ta dỏng tai nghe ngóng mọi phản ứng,
cho đến khi biết chắc rằng chẳng ai nghe thấy nó hết…
-
Sợ là một xúc cảm tồi tệ. Tệ hơn bất cứ cảm xúc nào - hắn trầm ngâm - Nó hạ
thấp con người.
-
Đúng thế. Điều khả dĩ có thể an ủi ta là kẻ bắt người sợ mình xét cho cùng lại
chính là kẻ cũng sợ… một kẻ khác chẳng hạn. Thật vớ vẩn, phải không ông?
Tôi
triết lý vụn, rồi cười cái triết lý của mình. Hắn gật gù cười theo.
-
Ông có thể kể cho tôi nghe đôi điều về cái mà chúng tôi gọi là cõi âm của ông
không? – cà phê kích thích tôi, hay là cái gì khác, tôi không rõ - nỗi buồn man
mác chợt đến trong đêm, hay nỗi chán ngán một cái gì không biết và còn hơn thế,
không hiểu.
Hắn
im lặng. Tôi phải giục:
–
Tôi chờ đấy. Với tôi, câu trả lời của ông hẳn sẽ rất thú vị.
-
Ông nói ông lười cả tò mò cơ mà.
-
Tôi vẫn lười, cả trong sự tò mò này. Nếu ông không muốn kể, tôi sẽ chẳng vật
nài. Tôi không tò mò đến cùng. Tôi chỉ tò mò nhân tiện mà thôi.
Hắn
có vẻ suy nghĩ. Trong bóng tối tôi vẫn chưa thấy mặt hắn. Nửa trên bị vành mũ
che khuất, còn nửa dưới thì lẫn vào màu đêm.
-
Chẳng có gì đặc biệt đâu ông ơi. – hắn nói sau một ngụm cà phê – Nó, cõi âm,
chỉ là cái âm bản của sự sống mà ông biết. Các ông sống, còn chúng tôi sống lại
cái sự sống đã qua. Những cư dân của cõi âm không bao giờ biết đến cái gọi là
tương lai. Đối với chúng tôi tất cả đều là quá khứ. Chúng tôi sống trong cái
khuôn của thời hiện tại-quá khứ nơi mỗi người.
-
Tại sao lại như thế?
Hắn
cười hích hích:
-
Tại sao, tại sao? Ông cứ như một đứa trẻ vậy.
-
Nhưng mà tại sao chứ?
-
Tại vì chúng tôi đã có tất cả những gì chúng tôi từng có, từ điểm khởi đầu cho
tới chỗ kết thúc. Chúng tôi chỉ tồn tại bên trong biên cương của cái khoảng ấy
mà thôi.
-
Thế thì chán quá nhỉ?
Hắn
có vẻ phật ý:
-
Không chán hơn nơi người sống đâu. Ông không gặp những người còn sống phây phây
mà cuộc đời lại gắn chặt với quá khứ đến nỗi gỡ không ra à?
-
Ờ, cái đó có thật. Chẳng hạn như lão tổng thống quá cố của chúng tôi, những năm
cuối đời lão ta chẳng biết làm gì khác ngoài việc vỗ ngực khoe những việc lão
đã làm… Mà có tốt đẹp gì cho cam.
-
Tôi biết lão - hắn ngắt lời – Ở cõi âm chúng tôi di chuyển nhanh lắm, như chớp
ấy, hoặc nói theo cách bây giờ, nhanh hơn ánh sáng, ông không tưởng tượng nổi
đâu. Nhưng tôi không khoái chơi với lũ ngợm ấy. Tôi tởm. Có một thằng cha lúc
nào cũng lảm nhảm “Bóp chết từ trong trứng! Cho tuốt vào nhà đá! Bắn bỏ!”, hắn
la hét suốt. Khốn nạn, có hồn ma nào buồn nghe hắn đâu. Hắn nào còn làm gì được
như khi hắn còn sống. Tuy nhiên, về một mặt nào đó, hắn và tôi, tất cả chúng
tôi, đều giống nhau, đáng chán là thế … Tuy chúng tôi không sống bằng-quá-khứ
như hắn, nhưng tựu trung mọi hồn ma, tất tần tật, đều là những kẻ sống
trong-quá-khứ…
-
Thế còn cháo lú? – tôi rụt rè hỏi - Chuyện đó thế nào?
-
Cháo lú? – hắn hỏi lại – À, tôi hiểu rồi. Ông muốn nói cái món súp miễn phí ở
đầu đường vào cõi âm.
Tôi
ngạc nhiên:
-
Vào cõi âm cũng phải đi qua một cái ngưỡng, tựa hồ biên giới giữa các quốc gia
sao?
Hắn
nhìn tôi, tủm tỉm:
-
Đại khái vậy. Nhưng cõi âm là một quốc gia đặc biệt, ở đấy không có bất cứ sự
phân biệt nào trong mọi nhóm dân cư của nó, không màu da, không chủng tộc,
không giàu nghèo, không có sự phân biệt giữa VIP và dân thường. Đi vào đó không
phải trình hộ chiếu có visa…
-
Có phải ăn cháo lú xong thì linh hồn sẽ quên sạch mọi sự đời?
-
Không một thứ thuốc an thần nào có thể sánh với nó, cái cháo lú ấy - hắn nói
với giọng pha chút khoe khoang - Ông tưởng chỉ ở cõi âm mới có cháo lú sao? Ở
cõi dương cũng có đấy. Nó được trộn lẫn vào các bài báo, các làn sóng phát
thanh, các chương trình truyền hình, các cuốn sách…
-
Ồ, cái đó thì tôi biết quá đi chứ!
-
Ở cõi dương cháo lú còn có một chút lừa mà người tỉnh táo biết được, ở cõi âm
người ta không lừa ai. Ai chả biết rằng cuộc đời nào cũng vậy, chẳng nhiều vui
thú, húp một đĩa cháo lú là sẽ quên sạch mọi ưu sầu. Nó chẳng qua là thứ cháo
thí cho những linh hồn đau khổ. Chao ôi, ông không tưởng tượng nổi đâu. Các
linh hồn xô đẩy, chen lấn, tranh nhau thứ cháo miễn phí ấy. Cảnh tượng phải nói
là khủng khiếp. Thậm chí họ còn xô đẩy nhau để được nhận suất cháo phát chẩn,
nhà bếp luôn tay múc không kịp…
-
Còn ông?
-
Không. Tôi không húp.
-
Tức là, không bắt buộc?
-
Đâu có. Bắt buộc chứ. Nó là cái lệ cho tất cả.
-
Nhưng bằng cách nào ông không…
-
Dương sao âm vậy, ông ơi, đã không muốn thì cũng có cách để tránh. Mấy anh
chàng trông coi vụ phát chẩn cũng như những công chức, họ chắp tay sau lưng
đứng nhìn, thỉnh thoảng la hét vài tiếng lấy lệ. Chỉ cần láu cá một chút, lăng
xăng thay đổi chỗ xếp hàng, làm ra vẻ mình đã húp rồi... Bọn lãnh tụ, vua quan
mà tôi nói ấy, sở dĩ còn nhớ quá khứ là vì chúng vẫn giữ nguyên thói trí trá
khi còn sống.
-
Hay nhỉ? Tôi hiểu. Vì không ăn, ông nhớ được tất cả?
Hắn
gật. - Ờ… Tôi giả vờ húp vội húp vàng cho xong - im lặng một lát, hắn tiếp -Lừa
lúc thiên hạ không để ý thì quay mặt đi mà nhổ ra.
-
Nhưng ông vừa nói: thứ cháo đó tốt. Nó có mục đích nhân đạo.
-
Ông nói “nhân đạo”? Những kẻ chế ra cháo lú, ở cõi dương cũng như ở cõi âm đều
muốn mọi người nghĩ chúng nhân đạo, chúng làm tốt cho mọi người. Ông hãy hình
dung một con người không nhớ gì hết, không còn phân biệt tốt xấu hay dở, không
biết mình là ai…
-
Ờ nhỉ, thế thì chán thật.
-
Tôi không húp vì tôi còn mấy việc dang dở. Tính tôi thế, làm cái gì chưa xong
thì trong lòng bứt rứt. Chẳng hạn như cái tượng vũ nữ ba lê này. Tôi rất thích
nó. Đặt nó lên đĩa hát đang quay, trông nó sống lắm, cứ như nó đang múa thật.
Một hôm tôi vô ý đánh rơi, làm nó gãy một tay. Tôi đã thử gắn lại bằng mọi thứ
keo, chẳng cái nào cho hiệu quả ưng ý. Ông nhìn kỹ thì thấy cái tay gãy tôi gắn
hơi lệch.
-
Ông muốn làm nốt những việc ấy?
-
Phải. Nhưng tôi nhầm.
-
Ông không gắn lại được?
Hắn
buồn bã thở dài:
-
Nhầm là nhầm thế này. Đã vào trong cõi âm rồi thì mọi việc trần thế là xong
tuốt, chẳng còn cái gì làm tiếp, làm thêm, được nữa. Chỉ có thể nhớ lại thôi.
Nhưng nhớ tuốt tuồn tuột quá khứ, cái gì cũng nhớ, thì ngán lắm. Những bước
gian truân mình đã nếm trải nay lại trở về với nó lần nữa, rồi lần nữa, như một
cuốn phim phải xem đi xem lại… Hay một cuộc tình đã xa, nay tự nhiên phải nhớ
lại, chẳng cần ai nhắc cũng nhớ, với đầy đủ chi tiết, và hàng trăm lần y như
nhau… Ối giời, mệt vô cùng. Người tình của mình thì đã húp sạch sành sanh đĩa
súp lú, gặp mình, nàng ngơ ngác: “Ủa, ông là ai”?
Một
đêm khác, tôi hỏi hắn:
-
Ông bạn này, một con ma, xin lỗi, tôi muốn nói một linh hồn, có thể phù hộ cho
một con người không?
-
Ông định lợi dụng tôi đấy hử? - hắn chặn ngang, cười hích hích - Ông định nhờ
tôi cái gì đây? Một dãy số loto độc đắc? Một áp phe có lợi?
-
Không, ông hiểu nhầm rồi – tôi vội vã cải chính - Tôi không có ý ấy. Tôi chỉ tò
mò thôi.
-
Ông tò mò hơi nhiều – hắn hấm hứ.
-
Chả là tôi muốn kiểm chứng điều thiên hạ tin - đành phải phân trần với hắn -
Ông không thấy những người đến với Chúa, với Phật cùng mọi thứ thần thánh trong
mọi thứ đền thờ không phải chỉ để tỏ lòng ngưỡng mộ, sùng kính hay sao? Ông
không biết rằng họ đến đấy chỉ để mua bán sao? Họ mặc cả với tất tần tật các
thứ đấng thiêng liêng: nếu tôi được hưởng ân huệ của các vị, tôi hứa sẽ cúng
các vị cái này cái kia. Cái này hay cái kia ấy bao giờ cũng phải lớn tương
xứng, hoặc nhiều hơn, so với ân huệ mà họ chờ đợi được hưởng… Ân huệ to thì vật
hiến tế phải to.
-
Tôi biết chứ – hắn nhún vai - Nói đến cái lũ khốn nạn ấy làm gì!… Bậy! Bậy hết.
Lũ ấy nghĩ về thần thánh của chúng, hệt như thần thánh là những chủ tiệm ở chợ
trời, có thể mặc cả thoải mái.
-
Cũng có người nhờ cầu khẩn mà được đấy.
-
Đó là sự trùng hợp của những ngẫu nhiên. Người chết rồi, linh hồn, hay là ma,
không trừ cả thần thánh, cũng y như tôi đây này, chẳng có sức lực gì hết, chẳng
làm nổi cái gì hết. Ông thấy rồi đấy, chỉ đẩy một cái ghế dịch đi một li mà tôi
cũng không làm nổi…
Lời
thú nhận thực thà của con ma na ná một dạng báng bổ.
-
Tôi hiểu rồi, vì thế ông chỉ còn cách ngắm nghía các đồ vật xưa cũ cho hết
ngày, à quên, hết đêm, phải không?
-
Tôi còn biết làm cái gì khác hở ông bạn thân mến? - hắn nhún vai trước câu hỏi,
theo hắn là dớ dẩn – Nó là cái nghiệp của tôi. Đồng thời, khốn nạn cho tôi,
cũng lại là thú vui của tôi.
Nghe
giọng hắn thì biết hắn lại bực mình. Lý luận gì mà lăng nhăng, cù nhầy, chắc
hắn nghĩ thế.
-
Ông không thấy những người sống cũng có cái thú vui ấy ư? – hắn nói tiếp, không
phải hắn hỏi - Có một thằng cha ở gần đây này, tôi không quen hắn, nhưng tôi
quen bố hắn. Hắn viết được độc một cuốn sách, đưa ra những ý tưởng điên rồ, lạ
tai lạ mắt, bằng cách chửi khắp thiên hạ, gây ra được một sự ồn ào khá lớn ở
những kẻ đần độn, hắn khoái lắm. Nói cho đúng, người khen thì ít, người chê thì
nhiều. Thiên hạ bình phẩm thế nào hắn tuyệt nhiên không biết, không thèm biết.
Thấy người ta chửi nhiều, hắn càng đinh ninh hắn là nhà tư tưởng lớn. Là nhà tư
tưởng lớn thì tất nhiên không phải ai cũng hiểu. Thiên hạ càng chửi nhiều hắn
càng thích. Hắn cần cái đó – càng bị chửi nhiều thì càng nổi tiếng, một thứ
quảng cáo không công mà. Lâu không thấy có ai chửi thì hắn buồn xo. Cả ngày hắn
bận bịu với việc cắt những dòng tán dương hắn trong những bức thư độc giả gửi
cho hắn để dán vào một cuốn vở dày cộp, ký tên vào những cuốn sách, bìa cứng
hẳn hoi, để gửi cho những người hắn có thể gửi mà không bị trả lại. Hoặc kỳ
cạch gõ những lời giáo huấn cho những độc giả còn ngưỡng mộ hắn.
-
Hay nhỉ?
-
Đêm nào hắn cũng hí hoáy làm công việc đó, đến nỗi một ông bạn tôi nhầm, tưởng
hắn cũng là ma như mình, mới hiện ra bắt quen. Chỉ đến khi thấy hắn hét lên,
lăn đùng ra bất tỉnh nhân sự, ông bạn tôi mới biết hắn là người sống…
Con
ma cười ha hả, tay liên tục vỗ đùi, nhưng không thành tiếng.
4
Rốt
cuộc rồi tôi cũng phải thú thật với Ngoạn về hồn ma nọ sau mấy lần anh nhận xét
về sức khoẻ sa sút của tôi.
-
Sắc mặt cậu xấu lắm. Xanh, má hóp. Sao vậy?
-
Dạo này tôi kém ngủ.
-
Phải tìm ra nguyên nhân mà giải quyết.
Chúng
tôi đã trở thành thân tình hơn kể từ sau khi anh kiếm chỗ ở cho tôi. Mỗi khi có
công việc nặng, cần người phụ, vào những ngày nghỉ cuối tuần anh gọi tôi giúp
anh. Gọi là giúp chứ công việc xong anh thanh toán đàng hoàng. Anh hơn tuổi
tôi, anh tự cho phép anh gọi tôi bằng “cậu”. Chị Jeanette, vợ anh, và hai cháu
thì toa moa với tôi, như người trong nhà.
Đúng
là tôi có ít ngủ thật. Những buổi trò chuyện với hồn ma thường kéo dài. Chứ âm
khí âm khiếc quái gì đâu. Ngủ ít thì má hóp. Không thể đổ lỗi cho hồn ma. Hắn
đâu có đòi nói chuyện với tôi. Những hôm bận công việc ở sở, về đến nhà, tôi ăn
xong là lăn ra ngủ, hắn cũng chẳng đánh thức. Nửa đêm tỉnh dậy, thấy hắn thì
chúng tôi cũng chỉ chào nhau một tiếng như hai người láng giềng lịch sự. Tôi
mới là kẻ chủ động gợi chuyện, trong khi hắn lại là kẻ kiệm lời. Những câu
chuyện với hắn, mỗi khi có, đều thú vị.
Nghe
tôi kể, anh hỏi:
-
Hắn không làm gì cậu thật?
-
Không.
Ngoạn
mở to mắt.
-
Không doạ nạt?
Tôi
lắc.
-
Không.
-
Hắn có làm gì khác không?
Câu
hỏi làm tôi phải suy nghĩ. Hắn còn làm gì nữa nhỉ? Không, hắn chỉ chuyện vãn,
thế thôi.
-
Hoàn toàn không!
-
Hoàn toàn không?
Tôi
lại lắc.
-
Vô lý.
Ngoạn
ra chiều suy nghĩ.
-
Cậu phải tìm một cái nhà khác - anh bảo - Ở đấy nguy hiểm. Âm dương cách biệt,
người là người, ma là ma, ở lẫn với nhau không được.
-
Tôi nghĩ không cần thiết - tôi nói - Hắn chẳng làm gì hại tôi.
-
Cẩn tắc vô áy náy. Không sao, tôi lại tìm nhà cho cậu lần nữa.
Anh
quyết định ngủ lại nhà tôi một đêm xem hư thực ra sao.
Nửa
đêm, con ma đến, chẳng tỏ vẻ ngạc nhiên thấy có người lạ mặt ở trên giường tôi.
Ngoạn nằm im thin thít.
Sáng
ngày ra anh bảo tôi:
-
Nói không biết cậu có tin không, hoá ra tôi đã gặp con ma này.
-
Bao giờ?
-
Lâu rồi. Dễ trên chục năm trước. Hồi mới lập gia đình, tụi tôi nghèo lắm. Đêm
đến tôi luôn lượn lờ trong khu nhà giàu - họ thường vứt đồ cũ ra hè. Để kiếm
cái dùng, vậy đấy. Có nhiều thứ người ta vứt không phải cũ hẳn, nhưng ở đây
thế, cứ dọn đến nhà mới là người ta thay tất tật. Cũng có khi là đồ dùng của
người vừa chết, thân nhân không muốn giữ lại, không phải họ tin nhảm, mà vì
không thích để những nhìn thấy những đồ vật của người thân đã qua đời, nhiều
thứ còn mới nguyên, mà có cũ đôi chút thì cũng còn tốt chán với mình. Đi nhặt
mấy thứ đồ bỏ ấy không ai đi ban ngày, xấu hổ chết được…
-
Anh đã gặp con ma này trong những lần đi kiếm đồ Tây quăng?
-
Đúng hắn, với cái mũ phớt sùm sụp, với dáng dấp ấy, như đêm qua tôi thấy. Không
lẫn được. Tôi không nghĩ hắn là ma.
-
Hồi đó hắn còn là người sống.
-
Có thể lắm.
-
Hắn chắc cũng đã nhận ra anh, nếu gặp?
-
Hừm, biết đâu đấy, chúng tôi chạm trán luôn, nhưng cố tránh không nhìn mặt
nhau. Dân đi nhặt đồ đều thế. Họ không bao giờ chào nhau, gặp vài lần cũng cứ
lờ đi, không coi nhau là đã quen… Thậm chí vớ được thứ đồ tốt một mình không
khuân nổi cũng không dám nhờ nhau, cứ đứng canh đấy cho tới khi vắng người mới
chạy đi tìm cabin điện thoại báo cho người nhà biết để ra khiêng cùng…
-
Anh có thấy hắn nhặt gì không?
-
Không. Hắn cứ lượn lờ quanh đám đồ bỏ, tôi chưa thấy hắn nhặt thứ gì. Con ma
này phải trị mới được.
5
Con
ma cũng nhận ra Ngoạn.
Hắn
bảo tôi, cười hì hì:
-
Ông Nô Ăng. Tôi biết ông ấy quá mà. Tôi giả vờ không nhận ra ông ấy thôi. Chúng
tôi gặp nhau luôn. Tôi hồi ấy là một anh ký quèn ở sở hoả xa. Ông biết cái ga
Sermages rồi. Gọi là ga cho nó oách, chứ ga ghiếc cái quái gì một khối bê tông
xám xịt chỉ nhỉnh hơn trạm biến thế một chút. Ông Nô Ăng bạo gan đấy. Có điều
ông kể cho ông ta nghe về tôi làm gì?
-
Có cần phải giữ bí mật về ông không?
Hắn
lắc đầu:
-
Không. Không cần. Tôi là cái có đấy mà không đấy. Nói cách khác, tôi là cái vừa
hiện hữu vừa không hiện hữu. Nói về tôi hay không nói về tôi thì cũng thế mà
thôi. Chỉ người sống mới có bí mật. Ở chỗ chúng tôi mọi linh hồn đều như cởi
truồng trong một cái lồng kính, linh hồn này biết hết về linh hồn kia…
-
Chán quá nhỉ?!
Hắn
cười hích hích.
-
Nhưng các linh hồn thường chỉ biết về những gì linh hồn khác đã làm khi họ còn
ở cõi dương… Và chỉ ở những linh hồn không húp hết đĩa cháo vô vị.
-
Ông bảo: các linh hồn chỉ lặp lại những gì họ làm khi còn sống?
-
Ý tôi là: linh hồn chỉ lặp lại thói quen. Những gì họ làm trong cõi âm các linh
hồn có thể biết mà cũng có thể không biết, tựa như ở cõi dương vậy - người này
không thể biết tất tần tật về người kia. Đôi khi linh hồn cũng làm một cái gì
đó chứ, nhưng nó chỉ làm được cái ấy nếu như khi còn sống nó từng làm. Linh
hồn, ông bạn ạ, chỉ là cái bóng mờ của quá khứ. Nó khoái lắm nếu có ai tưởng nó
có khả năng hành động. May cho các ông, những người sống. Chứ không à? Cứ thử
nghĩ mà xem, nếu những thằng đểu chết rồi vẫn tiếp tục đểu được với người sống,
thì sao?
Tôi
hoàn toàn đồng ý với hắn:
-
May thật!
-
Ông không nên kể về tôi với ông Nô Ăng.
-
Ông đã nhắc tôi rồi.
-
Ông ấy là người tốt, nhưng ông ấy không vượt qua được định kiến: một con ma là
một con ma. Ma là cái người ta không hiểu được. Khi không hiểu được thì người
ta nghĩ nó xấu xa, nó không tốt.
-
Tôi không nghĩ ông bạn tôi tồi đến thế. Ông ấy chỉ lo cho tôi thôi…
-
Ông ấy hiểu lầm do không hiểu biết. Nhưng lại tưởng mình biết hết. Trong thực
tế, cái ông ấy tưởng mình biết lại là cái hiểu lầm mượn của người khác…
-
Ông có những ý nghĩ hay đáo để.
Hắn
cười khà khà. Cảm giác là thế, chứ không có tiếng.
-
Ông khác, ông không có định kiến. Một ưu điểm đấy. Ông lại còn biết thông cảm
nữa…
Hắn
nói tiếp, đượm chút buồn rầu:
-…
dù là thông cảm với một con ma…
6
Ngoạn
nói anh sẽ mời một đội bắt ma thiện nguyện để tống con ma khỏi nhà tôi.
Tôi
phản đối kịch liệt.
Tôi
phản đối vì, xét cho cùng, con ma chẳng làm điều gì xấu cho tôi. Ngược lại, nó
còn là một bạn chuyện thú vị. Hà cớ tôi lại xử xấu với nó? Nhưng Ngoạn khăng
khăng: phải diệt nó. Đó là một người cứng đầu, đã nghĩ ra cái gì là phải làm
cho bằng được.
Đội
bắt ma thiện nguyện tha các thứ đồ đạc lỉnh kỉnh của họ đến nhà tôi vào một chủ
nhật. Họ lăng xăng đi lại, còn tôi thì ngồi yên trong ghế bành, nơi con ma
thường ngồi, với bộ mặt nặng chịch. Ba người trong đội bắt ma – một mục sư về
hưu, hai sinh viên trẻ gày nhẳng, cả ba đeo kính cận loại nặng. Với các máy móc
đo từ trường, đo nhiệt độ, mọi cái đều là loại cực nhạy. Họ rà soát mọi ngóc
ngách - gầm giường, gầm bàn, gầm ghế, gầm tủ, với vẻ mặt nghiêm trang của sứ
giả nhà trời đi xuống địa ngục. Kim trên những mặt đồng hồ đặt giữa nhà lắc lư
lờ đờ.
-
Con ma này ban ngày không ở đây. – ông mục sư trầm ngâm – Ta sẽ túm được nó ban
đêm.
Tôi
giật mình. Đúng là tôi chỉ gặp con ma vào ban đêm.
Đội
bắt ma rất mẫn cán. Hôm sau cả ba lại đến cùng một lúc , lập tức bắt tay vào
việc. Mấy người đàn ông đứng tuổi, mặt mũi nghiêm trang ngồi trầm ngâm trước
những mặt đồng hồ, mắt dán chặt vào những cái kim. Tôi để mặc họ muốn làm gì
thì làm.
Đúng
12 giờ đêm, nhưng cái kim bắt đầu chuyển động, lúc đầu chậm, sau nhanh dần, rồi
lắc loạn xạ. Ông mục sư phán:
-
Nó đến đấy.
Trống
ngực đánh thình thịch, tôi thầm lo cho ông bạn ma của tôi.
Ngoạn
ngồi bên tôi, theo dõi nét mặt tôi bằng cái nhìn dò xét.
Nhưng
khi ông mục sư giơ cao thánh giá đi về góc, theo kim chỉ của một cái máy đặt
nằm, thì những cái kim đồng hồ lại lờ đờ trở về chỗ cũ. Ông mục sư lắc đầu:
-
Con ma này khôn phết.
-
Nó lẩn tài lắm. – anh sinh viên cao kều cúi xuống thì thào với anh bạn thấp
hơn.
-
Khôn mấy thì khôn, rồi ta cũng sẽ tóm được nó. – mục sư nói to, giọng quả
quyết.
Đúng
vào lúc ấy tôi nghe thấy giọng con ma bên tai:
-
Ông bạn ông tệ thật, ông ta dẫn mấy tay này đến đây làm gì cơ chứ?
-
Tôi xin lỗi, tôi đâu có muốn thế - tôi lẩm bẩm trả lời, cốt để Ngoạn khỏi nghe
tiếng.
-
Ông có thấy ông Nô Ăng nhà ông là đa sự không?
Tôi
gật đầu.
-
Có điều họ chẳng làm gì được tôi đâu – con ma nói.
-
Thật không?
-
Ông đừng lo cho tôi.
-
Tôi vẫn lo đấy – tôi thì thào - Thật không sao chứ?
-
Thật. Không ai có thể bắt được cái không có.
Tôi
thở ra.
Ngoạn
ngờ vực nhìn vào mặt tôi. Anh kêu lên với ông mục sư đang cảnh giác nhìn quanh
trong phòng:
-
Con ma đang ở đây này.
-
Đâu? Nó đâu?
Ông
mục sư quên bẵng mình là người bắt ma, nghĩa là mình phải thấy được con ma
trước những người khác.
Ngoạn
chỉ vào tôi:
-
Nó ở bên ông bạn tôi đây này.
Tôi
cãi:
-
Tôi đây, chứ ma nào.
Ba
nhân vật bắt ma xô lại phía tôi. Họ quăng một cái lưới bằng sợi gai hôi hám lên
người tôi. Ông mục sư đổ cả bình nước thánh lên đầu tôi. Hẳn ông ta nghĩ nước
thánh với liều lượng càng lớn thì hiệu quả càng cao. Rốt cuộc tôi bị ướt như
chuột lột, toàn thân bị trói chặt trong tấm lưới gai, còn con ma thì chẳng thấy
đâu.
7
Sau
cái lần bắt ma bất thành, đội bắt ma đi thẳng. Trong những trường hợp như thế
bao giờ cũng có những lý do được đưa ra để bào chữa, kiểu như “trên chủ trương
đúng, dưới thực hiện sai”; “trên bảo, dưới không nghe”, theo cách nói quen
thuộc ở nước tôi.
Con
ma sau đó xuất hiện ít hơn, không phải vì sợ cái gì, mà vì hắn bận bịu chuyện
gì đó. Cuối cùng rồi hắn cũng bật mí điều bí mật của hắn:
-
Ông có tin ở thuyết luân hồi không?
-
Tôi chẳng có bằng cớ gì để tin. Một expresso nhá?
-
Không, cảm ơn. Giờ tôi phải đi ngay.
-
Hồn ma cũng biết bận?
-
Không. Hồn ma không bao giờ bận. Nhưng nó cũng có việc phải làm. Ông có muốn đi
chơi một lần với tôi không?
Tôi
ngần ngừ.
-
Ông sợ?
-
Không. Nhưng đi đâu?
-
Cứ đi với tôi. Ông sẽ không hối tiếc đâu.
Chúng
tôi đi.
Về
sau này, nhớ lại chuyến đi chơi ban đêm với ông bạn ma, tôi thấy ông ta chẳng
hề có ý lừa tôi – chuyến đi thực thú vị.
Dắt
tôi vùn vụt đi qua biên giới hai cõi âm dương không có lính biên phòng mặt
lạnh, không có cửa hải quan với những cái nhìn soi mói, qua chỗ các âm hồn bách
tính tụ tập húp cháo lú, tây ta lẫn lộn, đen trắng không phân biệt, ông ta đưa
tôi tới một thành phố lúc nhúc những hồn ma là hồn ma. Tôi không nhớ là ở đó có
cửa hàng cửa hiệu gì không, nhưng tôi gặp khá nhiều hồn ma quen. Có người chết
đã lâu, có người mới chết. Họ hoàn toàn không nhận ra tôi. Thậm chí viên cai
ngục nổi tiếng ác độc thời tôi ở tù dưới quyền hắn còn nhoẻn cười thân thiện
với tôi. Trong tay hắn vẫn có cây roi bằng da xoắn, cũng nổi tiếng không kém gì
hắn. Cây roi da ấy, những người tù lưu niên kể, đã lập công xuất sắc - ít nhất
đã có ba người tù chết vì nó. Nhưng hắn vẫn giữ nguyên dáng đi ngày trước, cái
đầu hơi cúi, cặp mắt láo liên soi mói, cái roi trong tay đập đập vào cẳng chân,
sẵn sàng vung lên để quất vào ai đó. Ở một chỗ khác, tôi gặp tên lừa đảo có
hạng đã từng lừa không ít người, trong đó có tôi, bằng những lời đường mật về
những món lãi kếch xù, nếu chung vốn với hắn. Hắn bị một ông quan mà hắn lừa
bắn chết, nghe nói là chết oan, đúng vào lúc hắn mang tiền lãi đến nộp cho ông
ta. Hắn cũng không nhận ra tôi, chực sán lại để rỉ tai tôi về một kế hoạch thu
lợi cực lớn. Thấy tôi lờ, hắn cũng chẳng giận, lại sán đến người khác, xin lỗi,
tôi muốn nói: một hồn ma khác.
Ông
bạn ma của tôi dẫn tôi tới một chỗ có mấy vị lãnh tụ mà tôi quen mặt nhờ những
bức chân dung được treo trên tường mọi nhà ở quê tôi. Tôi đồ rằng những vị này
cũng gian như ông bạn tôi, không chịu húp cháo lú, hoặc húp rất ít, vì thế họ
mới có thể quần tam tụ ngũ bên nhau. Nhưng cái giống lãnh tụ nọ là để sống
trong thế giới của những kẻ tuân phục, những kẻ rạp mình trước họ, chứ cả một
đống lãnh tụ ở cùng một chỗ với nhau thì ngán lắm. Tất cả bọn họ đều ra lệnh
cùng một lúc, mà không biết ra lệnh gì, ra lệnh cho ai, chẳng anh nào chịu nghe
anh nào, kể cả anh lãnh tụ bị bắn chết cùng với bà vợ, ngực còn toác hoác vết
đạn, vẫn tiếp tục vung tay về phía trước, trong dáng điệu của nhà hùng biện
trước đám đông há hốc mồm nghe huấn thị.
-
Ê, anh kia, lại đây!
Vị
lãnh tụ quen thuộc của tôi ngồi ủ rũ trên một bệ đá hoa cương thời cổ La Mã,
giữa một đám đông chính khách com lê com táo chỉnh tề lăng xăng đi lại. Ông vẫn
trong bộ quần áo bình dân cố hữu, y như một lão nông. Hồi còn sống, ông nổi bật
trong các chính khách quốc tế nhờ bộ quần áo này. Trong những cuộc họp long
trọng ông là ngôi sao sáng. Tiên phong đạo cốt, ông đi những bước nhẹ nhàng
trên trần thế, ban phát bên phải bên trái đủ thứ lộc lớn lộc bé, bằng hiện vật
cũng như bằng khen, giấy khen. Bây giờ trông ông giống một anh nhà quê ra tỉnh.
Trong đống lãnh tụ xênh xang, ông có một vị trí kém cỏi mà giờ đây người ta ưa
dùng chữ khiêm tốn thay vào. Chợt nhận ra tôi là đồng hương, ông vồ lấy tôi,
nắm tay tôi kéo lại gần để ân cần hỏi han về đời sống của nhân dân. Cứ như thể
thiếu ông trên đời mọi người sẽ khốn khổ lắm, côi cút lắm. Không hiểu sao, lúc
ấy tôi lại xúc động đến luống cuống, lễ phép chắp tay trả lời ông như một thần
dân ngoan ngoãn. Tôi thưa rằng tôi xa nước lâu rồi, lại chưa về thăm nhà lần
nào, tôi không thể báo cáo với ông điều gì.
Ông
bạn ma lập tức túm lấy tôi, lôi xềnh xệch đi chỗ khác:
-
Sao ông lại làm thế?
-
Làm thế là thế nào?
Ông
bạn ma cằn nhằn:
-
Thằng cha ấy là cái quái gì mà trước mặt hắn, nói ông tha lỗi, ông lại phải
khúm núm? Ông không thấy rằng hắn chẳng hề quan tâm tới nhân dân nhân diếc gì
hết sao? Hắn chẳng cần biết ông là ai, đang ở đâu, làm gì, hắn chỉ lặp lại một
thói quen thâm căn cố đế mà thôi. Ố là là, ông này hay thật đấy! Rõ vớ vẩn.
Tôi
ngượng ngùng:
-
Hề hề, tôi cũng không ngờ những thói quen lại sống lâu đến thế.
-
Thế thì khi xuống đây ông đừng có theo gương tôi, nhớ mà húp hết khẩu phần cháo
lú của mình. Xem ra nó có ích cho ông đấy.
Giọng
ông ta nửa giận dỗi, nửa khinh miệt.
Ông
ta còn dẫn tôi đi nhiều nơi, cho tôi thấy nhiều điều thú vị khác, viết ra phải
một cuốn sách. Tôi thì lại không biết viết văn, tôi viết thì sẽ rất dây cà ra
dây muống, toàn những “thì” “là” “mà”, làm khổ người đọc. Điều đáng tiếc là ông
ta không đưa tôi đến nơi tôi có thể gặp những người thân trong gia đình. Ông ta
bảo cái đó không phải mục đích của chuyến đi.
-
Ông nói đến thuyết luân hồi là có ý nghĩa gì? – trên đường về tôi hỏi ông ta.
-
Là tôi sẽ chia tay với ông, để sống một kiếp khác.
-
Tức là luân hồi là có thật?
Ông
ta nhún vai:
-
Tôi cũng không biết nữa. Tôi chỉ biết lần này tôi phải xực hết một khẩu phần
cháo lú. Lầnnày khó mà tránh được. Nghe nói chẳng ai thoát. Tôi sẽ đi khỏi cõi
này. Đi đâu, tôi không biết. Có lẽ là để sống kiếp khác. Ăn cháo lú rồi, tôi sẽ
không biết ông là ai, người ta bảo vậy, ông cũng không thể nhận ra tôi…
-
Nhưng những vị Lạt Ma ở Tây Tạng đầu thai trong kiếp sau vẫn nhớ chuyện kiếp
trước đấy thôi. Người ta thuật lại chuyện đó không phải một lần trong những
cuốn sách đứng đắn.
-
Ồ, cái đó thì tôi chịu, thật thế hay không, tôi không biết. Có thể, đó là vì
những vị Lạt Ma là những người đặc biệt. Những bậc chân tu. Những vị thánh. Tôi
không dám nói họ có thể là những tay đại láu cá.
Tôi
tỉnh dậy trên giường. Vạt nắng sớm lọt qua cửa sổ chảy lênh láng trên sàn.
Có
nghĩa là suốt đêm qua tôi chẳng hề đi đâu. Nhưng cảm giác thực của cuộc du hành
với ông bạn ma còn nguyên, hệt như trong sách của Bồ Tùng Linh.
Khác
ở chỗ hồn ma của Pháp không giống hồn ma của Tàu, nó chẳng làm hại gì tôi. Mà
cũng có thể những hồn ma Tàu trong Liêu Trai đều là đàn bà, còn đây là một hồn
ma đàn ông.
Tôi
thì lại không phải một tên đồng ái.
8
Từ
đó tôi không bao giờ gặp lại ông bạn ma nữa. Chắc hẳn ông ta đã đầu thai vào
một nhà nào đó và đang bĩnh ra tã.
Tôi
cũng hơi ân hận một tí. Chơi với nhau bằng ấy thời gian mà chẳng biết tên họ
ông bạn là gì. Hình như ông ta mang cái họ rất phổ biến là Dupont mà tôi thấy
được ghi trên một món đồ. Chiết tự ra, Dupont có nghĩa là từ chỗ cây cầu, ở nơi
gần cầu. Dòng họ Dupont có từ những thế kỷ xa xưa, cũng như dòng họ Dubois với
nghĩa từ khu rừng, ở miền rừng. Nước Pháp có vô số cầu, cầu qua sông, cầu qua
suối, ai biết được những người thuộc dòng họ này đến từ cái cầu nào. Trên lò
sưởi không có cái ảnh nào của ông ta, mà tôi thì vì sợ nên không dám nhìn vào
mặt hồn ma, thế là chẳng biết mặt ngang mũi dọc ông bạn mình ra sao.
Ngoạn
rồi cũng ít đến tôi. Anh bận nhiều việc, tôi đồ thế.
-
Này, cậu phải cẩn thận mà giữ lấy chỗ làm – anh dặn tôi – Cái nghề khốn nạn của
tôi vậy mà bây giờ thiên hạ cũng tranh nhau xông vào. Tôi phải liên tục hạ giá
để giữ khách. May mà họ đã quen mình. Hai đứa con càng lớn càng phải chi nhiều,
đủ thứ. Sống như thế này vất vả quá. Chết có khi còn sướng hơn…
Những
lời than thở về cuộc sống không thể gọi là chuyện giữa hai kẻ tha hương. Ở với
bà vợ đầm lâu ngày, anh dường như không nhớ gì tới đất nước. Nó xa xôi.
-
Tôi bây giờ có muốn giúp cậu cũng chẳng được – anh nói.
Tôi
rất biết ơn Ngoạn đã giúp tôi nhiều khi còn chân ướt chân ráo đến Sermages,
nhưng đúng là chúng tôi không biết nói gì với nhau nữa – chúng tôi không còn
những đề tài chung để mà trò chuyện. Cũng phải thôi. Ngoạn là một con người
bình thường đúng nghĩa, tức là người chẳng quan tâm tới cái gì khác ngoài cuộc
sống hằng ngày của gia đình mình. Những vấn đề chính trị xa lạ với anh. Đối với
Ngoạn thế giới nào cũng cũ, tức là thế giới nào cũng thế mà thôi cho một kiếp
người với tất cả những lo toan tầm thường của nó. Còn tôi thì dù muốn dù không
vẫn cứ vướng vào ba cái chuyện chính trị, như nhiều đồng hương đa sự.
Khi
nghe tôi nói chuyện về tình hình đất nước, hoặc tình hình thế giới, Ngoạn
thường ngáp vặt, lúc đầu còn lịch sự giấu giếm, sau thì cố ý cho tôi biết mà
chuyển sang chuyện khác. Khi không còn đề tài chung để nói chuyện, người ta rất
dễ xa nhau. Có người nói anh dạo này hay ốm vặt, nhưng tôi cũng ngại gọi điện
hỏi thăm. Tôi ngại những cuộc điện đàm theo phận sự.
Một
đêm tôi đi dự sinh nhật một bạn đồng nghiệp về, thấy ở bên đường gần nhà tôi
người ta vứt lỏng chỏng đồ bỏ có nhiều thứ còn tốt, mới dừng lại xem. Ở đây
người ta vứt đồ theo ngày, khu này thứ bảy, khu kia chủ nhật. Tôi chọn được một
cây đèn bàn có chân bằng đồng, một thứ đồ cổ, kiểu cây đèn thần trong Nghìn Lẻ
Một Đêm. Đã toan kẹp nó vào nách mang về, thì chợt thấy một dáng quen quen đang
lúi húi gần đấy.
Trong
ánh đèn đường mờ mờ tôi nhận ra cái bóng ấy: Ngoạn. Dễ là anh lắm, với cái áo
khoác tàng tàng, dáng đứng hơi gù. Nhưng tôi không dám chắc trăm phần trăm là
anh. Thoáng bắt gặp ánh mắt của tôi, người ấy quay ngoắt.
“Dân
đi nhặt đồ đều thế. Do ngượng ngùng, họ không bao giờ chào nhau, gặp vài lần
rồi cũng cứ lờ đi, không coi nhau là đã quen…”
Ngoạn
có lần nói với tôi như thế. Nhưng đó là những người gặp nhau lần này lần khác
trong những chuyến đi nhặt đồ, chứ không phải là những người quen nhau như tôi
với anh.
Khi
thấy tôi chăm chú nhìn, cái bóng càng lúng túng.
-
Anh Ngoạn hử? – tôi gọi khẽ.
Cái
bóng đứng sững khi nghe tiếng gọi. Nhưng không đáp lại, dù bằng một cái gật
đầu.
-
Tôi đây mà – tôi nói.
Cái
bóng vẫn nín lặng.
Tôi
rùng mình vì một ý nghĩ chợt đến. Hay là, nói dại, Ngoạn không còn nữa, mà chưa
ai kịp báo tin cho tôi? Anh đã trở thành một con ma. Như Dupont.
Tôi
dụi mắt để nhìn cho kỹ hơn. Chẳng lẽ tôi nhầm?
Đến
lúc ấy thì cái bóng mà tôi ngờ là Ngoạn liếc trộm tôi rất nhanh, rồi quầy quả
bỏ đi. Nói nó lướt đi thì đúng hơn, bởi vì vừa thấy nó đấy đã chẳng thấy đâu.
Nó tan biến. Trong màn đêm mờ mờ ánh đèn đường và khói sương.
Ngày
mai thể nào tôi cũng phải gọi điện cho Ngoạn. Không, tôi chắc mình nhìn nhầm.
Cũng có thể không phải là Ngoạn. Dám thế lắm. Nếu là anh, chắc chắn anh sẽ gọi
tôi. Chúng tôi đâu có phải là những người xa lạ đến nỗi phải tránh mặt nhau khi
làm cái chuyện có vẻ đáng xấu hổ này. Rất có thể không phải Ngoạn. Nếu anh
chết, chị Jeanette ắt đã gọi điện cho tôi – ít nhất thì vào lúc anh qua đời ắt
chị phải nhớ rằng anh từ đâu đến và ở Sermages có một người cũng đến từ quê
hương anh. Nhưng cũng có thể Jeanette đã quên không báo cho tôi biết trong cơn
bối rối. Hoặc ngày mai chị mới báo. Hoặc chị không tìm ra sổ địa chỉ.
Tôi
xua đuổi ý nghĩ rằng Ngoạn đã chết. Nhưng ý nghĩ ấy cứ bám chặt lấy tôi. Sinh
hữu hạn tử bất kỳ mà. Ai nói trước được? Anh xuất hiện trước mắt tôi lờ mờ như
một bóng ma, nhất định không nhận tôi, nói với tôi một câu. Hoặc giả tôi nhầm,
bóng ma ấy lại là Ngoạn thật, còn sống? Mừng rồi lại buồn – sao mà mình tệ thế,
đến nỗi không phân biệt nổi người sống với hồn ma?
Tôi
bùi ngùi nhìn vào bóng đêm đã mất dấu bạn mình mà thở dài. Tôi hình dung ra anh
trong cái cõi âm đáng ngán – hẳn từ nay anh sẽ phải sống, như cái ông Dupont
nọ, quẩn quanh trong giới hạn chật hẹp của một kiếp người từ sinh tới tử, để
rồi lặp lại trong suốt đời âm của mình những thói quen cố hữu của đời dương?
Tôi
cầm lấy cây đèn, không nhìn về phía cái bóng vừa biến mất, quay gót về nhà.
Mời nghe Khề Khà Truyện diễn đọc truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ, truyện ngắn của Đặng Xuân Xuyến:
0 comments:
Đăng nhận xét