NGÀY XUÂN TẢN MẠN TRUYỆN KIỀU
Truyện Kiều viết bằng chữ Nôm, được nhiều học giả
xưa nay dịch sang Quốc ngữ, hiệu đính và chú thích. Trong toàn bộ tác phẩm,
Tiên sinh đã dùng rất nhiều từ ngữ cổ và khoảng trên 500 đến gần 1.000 điển
tích
Một mùa xuân nữa lại về, mang luồn sinh khí mới
cho vạn vật, mang niềm tin và hy vọng mới cho con người. Trăm hoa đua nở khoe
sắc khoe hương, cỏ cây sung mãn, đâm chồi non, trổ lộc biếc, tạo nên một tấm
thảm xanh liền với chân trời. Thiên nhiên là vậy còn mình thì xuân đến lại già
thêm một tuổi, mái tóc có thêm nhiều cọng bạc, sức khỏe cùng niềm tin và hy
vọng vơi dần. Thời gian thật vô tình, mình không van xin cầu khẩn mà nó vẫn cứ
qua mau như đại thi hào Nguyễn Du diễn tả:
Diễn tả một năm trôi qua bằng hai câu thơ lục bát
không thừa không thiếu thì chỉ có Tiên sinh chứ không có ai tài tình như vậy.
Thông thường, khi tả một mùa Tiên sinh dùng đến hai câu như “Dưới trăng
quyên đã gọi hè. Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông” để chỉ mùa hạ
và “Long lanh đáy nước in trời. Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng” để
chỉ mùa thu. Cái tài và cái hay của Tiên sinh còn thể hiện ở chỗ mỗi lần tả đều
khác nhau, mùa hạ thì “Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua” , mùa thu
thì “Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô” .
Tôi mê truyện Kiều từ hồi còn đi học, chẳng
những thuộc lòng liên tục từ câu đầu đến vài trăm câu tiếp theo mà còn thuộc
nhiều câu hay lẻ tẻ và nhiều đoạn xuất sắc khác. Tôi cũng có thể lấy Kiều theo
từng bối cảnh trước mắt và thỉnh thoảng tổ chức cho bạn bè bói Kiều để xem
“tương lai hậu vận”. Cách làm khá đơn giản. Chúng tôi ngồi thành vòng tròn, đặt
quyển truyện Kiều chính giữa. Bạn nào bói phải nhắm mắt, chắp tay, thành tâm
khấn nguyện nàng Kiều hiển linh, cảm ứng chứng minh. Khấn nguyện xong bạn ấy tự
tay lật quyển truyện ra rồi lấy hai câu đầu hoặc hai câu cuối của trang phải
hoặc trang trái, tùy theo qui ước trước, xem “lời phán” của người cõi trên tốt
hay xấu.
Dĩ nhiên đây là trò vui chơi giải trí của tuổi
học trò cho tâm hồn khuây khỏa sau những ngày học hành miệt mài, căng thẳng. Dù
không tin tưởng vào chuyện bói toán tầm phào nhưng các bạn vẫn biểu lộ tình cảm
xúc cảm của mình khá sôi nổi, nhiệt tình, hào hứng. Gặp những câu không tốt
không xấu thì chẳng có phản ứng gì nhưng gặp những câu nói về Tú Bà, Hoạn Thư,
Thúy Kiều (đã bán mình) cùng Mã Giám Sinh, Sở Khanh…thì la oai oải, lắc đầu
nguầy nguậy, bảo “quẻ” không linh, bói lại. Còn lật trúng những câu nói về Thúy
Vân, Thúy Kiều (chưa bán mình) cùng Kim Trọng, Từ Hải thì vui mừng hớn hở và
cho đó là tương lai hậu vận của mình! Một lần, một bạn gái mắc cỡ đỏ mặt, bỏ
cuộc chơi ngay tức khắc sau khi gặp câu “Tiếc thay một đóa trà mi. Con ong
đã tỏ đường đi lối về”! Những kỷ niệm vui buồn từ thời học trò cho đến bây
giờ tôi vẫn không quên.
Niềm đam mê của tôi trải dài theo từng cung
bậc cảm xúc từ trẻ đến già. Lúc trẻ tôi mê truyện Kiều vì văn chương và tài
năng sáng tạo của cụ Nguyễn Du. Dựa vào tác phẩm văn xuôi tầm thường mà Tiên
sinh đã biến nó thành một tuyệt phẩm với 3.254 câu thơ lục bát thanh thoát, nhẹ
nhàng như sương như khói. Tài miêu tả của Tiên sinh cũng thuộc hàng tuyệt kỹ.
Từng cảnh sắc thiên nhiên, từng loại âm thanh cùng hình ảnh và tâm lý tình cảm
của từng nhân vật đã được Tiên sinh khắc họa sắc nét, sinh động đến từng chi tiết,
đào sâu đến tận cùng những góc khuất trong lòng người.
Là kẻ hậu sinh bất tài, tôi không dám bình phẩm
tuyệt tác của Tiên sinh nên mượn lời trong bài tựa truyện Kiều của cụ Nguyễn
Đăng Tuyển (Mộng Liên đường chủ nhân) nói thay: “Trong tập thỉ chung lấy
bốn chữ “Tạo vật đố tài” tóm cả một đời Thúy Kiều…Vui buồn tan hợp mười mấy năm
trời trong cuốn văn tả ra như hệt, không khác gì một bức tranh vậy…Ta lúc nhàn
đọc hết cả một lượt mới lấy làm lạ rằng: Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã
khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu
cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy”. (Trần
Trọng Kim dịch). Tôi chỉ dám so sánh Tiên sinh như người thợ kim hoàn bậc thầy,
tay nghề lão luyện đã mài giũa viên đá thô ráp rẻ tiền thành viên ngọc long
lanh quí giá.
Truyện Kiều viết bằng chữ Nôm, được nhiều học giả
xưa nay dịch sang Quốc ngữ, hiệu đính và chú thích. Trong toàn bộ tác phẩm,
Tiên sinh đã dùng rất nhiều từ ngữ cổ và khoảng trên 500 đến gần 1.000 điển
tích, điển cố xuất phát từ những bộ kinh truyện, sách sử, tình sử, văn thơ của
Trung Hoa qua nhiều triều đại. Mặc dù vay mượn nhưng Tiên sinh không hề sao y
bản chánh nguyên tác mà tinh gọn bằng những từ thuần Việt thông dụng dễ hiểu
như các từ “lá thắm”,”chỉ hồng”, “nghiêng nước nghiêng thành”
mà ai cũng biết chúng chỉ việc hôn nhân và nhan sắc của người phụ nữ đẹp lộng
lẫy.
Cái tài dịch thuật văn thơ của Tiên sinh cũng đã
đạt mức thượng thừa. Chỉ có người tinh thông Hán văn lẫn Việt văn, giàu óc
tưởng tượng, hư cấu mới sáng tạo hoặc tái tạo được những lời văn câu thơ bóng
bẩy, mượt mà, thanh thoát mà vẫn giữ được nội dung nguyên tác. Trong truyện
Kiều có nhiều câu thơ dịch từ văn thơ cổ Trung Hoa nên tôi chỉ xin trích vài
câu tiêu biểu. Tả sắc đẹp Thúy Vân thì “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở
nang”, Thúy Kiều thì “Làn thu thủy, nét xuân sơn”. So với các câu trong
Tướng thư“Diện như mãn nguyệt, mi nhược ngọa tàm” và Tình sử “Nhỡn
như thu thủy, my tự xuân sơn” thì thơ của Tiên sinh thanh bai tao
nhã và tinh tế hơn. Tả cảnh mùa xuân thì “Cỏ non xanh tận chân trời. Cành
lê trắng điểm một vài bông hoa”. So với hai câu thơ cổ “Phương thảo
liên thiên bích. Lê chi sổ điểm hoa”thì bức tranh xuân của Tiên sinh tươi đẹp
và nổi bật hơn nhờ thêm chữ “trắng” vào màu hoa lê. Tả tiếng đàn của Kiều gãy
cho Kim Trong nghe lần đầu, Tiên sinh viết “Trong như tiếng hạc bay qua.
Đục như nước suối mới sa nửa vời. Tiếng khoan như gió thoảng ngoài. Tiếng mau
sầm sập như trời đổ mưa”. So với bài Đường thi mà Tiên sinh đã dịch“Sơ
nghi táp táp lương phong động. Hựu tự tiêu tiêu mộ vũ linh. Cận nhược lưu tuyền
lai bích chướng. Viễn như huyền hạc hạ thanh minh” thì thơ của Tiên sinh
nghe nhẹ nhàng, êm ái, thấm thía, dễ đi vào lòng người hơn nhiều.
Tóm lại, việc cụ Nguyễn Du sử dụng nhiều từ ngữ
cổ cùng điển tích, điển cố và văn thơ của Trung Hoa qua nhiều triều đại khi
sáng tác truyện Kiều nói lên cái tài học cao biết rộng, kiến thức uyên bác và
cái nghệ thuật dịch văn thơ tuyệt vời của Tiên sinh. Đồng thời làm phong phú
thêm kho tàng ngôn ngữ, văn chương nước ta và nâng cao giá trị truyện Kiều, tên
tuổi cụ Nguyễn Du cùng nền văn học Việt Nam lên đến đỉnh điểm vinh quang, đỉnh
cao nghệ thuật (Cụ Nguyễn Du được Unesco công nhận “Danh nhân văn hóa thế giới”
và truyện Kiều đã được dịch ra trên 30 thứ tiếng).
Khi sức khỏe cùng niềm tin và hy vọng vào
tương lai vơi dần theo thời gian, tôi tìm nguồn vui trong giáo lý Phật giáo. Sự
chuyển đổi đó kéo theo niềm đam mê truyện Kiều của tôi về cùng một hướng.
Truyện Kiều lấy thuyết “tài mệnh tương đố” (tài
và mệnh ghét nhau) làm triết lý sống “Trăm năm trong cõi người ta. Chữ tài
chữ mệnh khéo là ghét nhau”. Kiều là nạn nhân chính của cái thuyết đó, bị hết
kiếp nạn nầy đến kiếp nạn khác phải tự kết liễu đời mình ở sông Tiền Đường. Nếu
câu chuyện kết thúc tại đây thì nó đã hoàn thành nhiệm vụ cho người ta biết
rằng: “Có tài mà cậy chi tài. Chữ tài liền với chữ tai một vần” .
Tuy nhiên, nó vẫn tiếp diễn với những tình tiết mới, Kiều được ni sư Giác Duyên
cứu sống và sau đó được đoàn tụ với gia đình, sum hợp với Kim Trọng. Một triết
thuyết mới cũng xuất hiện, đó là triết thuyết về “nghiệp” và “nhân quả” của đạo
Phật.
Kiều là người con hiếu thảo, thông minh, tài sắc
vẹn toàn, biết điều nhân nghĩa, sống trong gia đình nền nếp lễ giáo sao lại bị
nỗi đoạn trường suốt mười lăm năm, chịu nhiều đắng cay tủi nhục đến phải tự sát
ở sông Tiền Đường? Bởi vì:
Sư rằng: Phúc họa đạo trời
Cội nguồn cũng tại lòng người mà ra
Đạo trời là đạo gì? Theo quan niệm của Nho giáo
và Lão giáo thì ngoài thế giới này còn có một đấng siêu nhiên mang nhân trạng,
thống trị muôn loài gọi là ông Trời hay Ngọc hoàng. Ông Trời, cũng như Thượng
đế của các tôn giáo khác, có quyền năng tối thượng, ban phước cho người tốt,
giáng họa cho kẻ xấu. Đạo Phật là tôn giáo không có ông Trời và Thượng đế cho
nên hình ảnh của hai nhân vật này tương đương với Nghiệp trong giáo lý của Đức
Phật Thích Ca.
Nghiệp là ý nghĩ, lời nói và hành động của con
người, do con người tạo ra và chịu trách nhiệm. Xem qua cuộc đời Kiều chúng ta
thấy nàng than khóc thân phận Đạm Tiên, hẹn hò đính ước với Kim Trọng, bán mình
chuộc cha, nghe lời Sở Khanh, lấy Thúc Sinh, Từ Hải v.v…đều do nàng tự làm chứ
không có người nào, trời nào xúi biểu, bắt buộc. Nàng tự làm thì nàng tự gánh
lấy hậu quả chứ không ai gánh thay cho nàng. Cội nguồn là ở chỗ đó nên cụ
Nguyễn Du khẳng định:
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Nghiệp có tốt có xấu và là cốt lõi của nhân quả,
nó tạo ra nhân, nhân sinh ra quả. Nghiệp tốt nhân quả tốt, nghiệp xấu nhân quả
xấu. Mặc dù cụ Nguyễn Du không nói Kiều đã tạo nghiệp gì nhưng căn cứ vào câu“Dục
tri tiền thế nhân, kim sinh thụ giả thị, dục tri lai thế quả, kim sinh tác giả
thị” thì biết Kiều đã tạo ra nhiều nghiệp xấu ở kiếp trước nên kiếp này mới bị
đoạn trường. Tuy nhiên, cái hồi kết có hậu của câu chuyện là do Kiều đã tạo
nhiều nghiệp tốt trong hiện tại:
Mắc điều tình ái, khỏi điều tà dâm
Lấy tình thâm, trả tình thâm
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời
Hại một người, cứu muôn người
Biết đường khinh trọng, biết lời phải chăng
. . . . . . .
Bán mình là hiếu, cứu người là nhân
Một lòng vì nước vì dân
Kiều còn bao dung rộng lượng, tha thứ cho Thúc
Sinh, Hoạn Thư và lấy nhân nghĩa đền đáp công ơn của Mụ quản gia, ni sư Giác
Duyên khiến cho:
Âm công cất một đồng cân đã già
Đoạn trường sổ, rút tên ra
Đoạn trường thơ, phải đưa mà trả nhau
Còn nhiều hưởng thụ dài lâu
Duyên xưa đầy đặn, phúc sau dồi dào.
Luật nhân quả rất công bằng, có công thì thưởng
có tội thì trừng. Cụ Nguyễn Du đã diễn tả khá dài cảnh bọn Tú Bà, Mã Giám Sinh,
Sở Khanh…bị trừng phạt nhằm răn đe, cảnh cáo mọi người:
Những người bạc ác tinh ma
Mình làm mình chịu kêu mà ai thương.
Ngoài cái nghiệp và luật nhân quả, cụ Nguyễn Du
còn nói đến cái Tâm khi kết thúc truyện Kiều:
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Liên hệ đến triết thuyết về “nghiệp” và “nhân
quả” ở trên, lúc đầu tôi nghĩ đây là cái Tâm của nhà Phật. Hơn nữa, trong đoạn
Kiều than khóc thân phận Đạm Tiên có câu:
Kiều rằng: những đấng tài hoa
Thác là thể phách, còn là tinh anh
Giải thích theo Phật giáo thì thể phách là hình
hài, tinh anh là cái tâm. Hình hài vô thường nay còn mai mất, cái tâm bất sinh
bất diệt, thường còn. Tuy nhiên, sau khi nghĩ lại thì không phải thế mà đó là
cái tâm của Nho giáo theo quan điểm “Nhân chi sơ tính bổn thiện”. Còn cái
tâm của Phật giáo trong sáng thanh tịnh, vô ký, không thiện không ác. Mặc dù
vậy, cả hai đều tốt, đều là nơi trú ngụ, nương tựa lý tưởng, giúp con người đi
đúng hướng, không sợ lầm đường lạc lối trong cuộc sống.
Người già thường sống với quá khứ, lấy điển
xưa tích cũ làm vui. Vui đến đây đã đủ nên tôi xin mượn hai câu kết trong
truyện Kiều để kết thúc bài viết nầy “Lời quê chắp nhặt dông dài. Mua vui
cũng được một vài trống canh”./
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
- Các bài viết về
khoa Phong Thủy0
- Các bài viết về
khoa Tướng thuật0
- Các bài viết về
Kiến thức cuộc sống0
Mời nghe ca khúc MÙA XUÂN CỦA MẸ
của Trần Lâm Ngân, qua tiếng hát Chế Linh:
Nguyễn Việt giới thiệu
Tác giả: Trương Hoàng Minh - nguồn: daophatngaynay
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét