ĐẤT GHỀNH RÁNG
Chiếc xe nhà binh chở chúng tôi từ Phù Cát về thị xã Quy Nhơn. Sau
đó, xe chạy dọc theo con đường ven biển xuống xóm Gành Ráng. Cuối cùng nó đỗ
xịch ở làng chài, trước một khoảng sân rộng, hai bên là hai dãy nhà gạch. Chúng
tôi được đưa vào dãy bên trái.
Lính biên phòng là một đơn vị khá đặc biệt của tỉnh, chỉ đóng quân
ở các đồn ven biển, được coi là lính kiểng; không bị quản chế nghiêm ngặt như
bộ đội chính quy. Cuối tuần tân binh chịu sự huấn luyện ở Gành Ráng được tự do
ra vào doanh trại, muốn đi đâu thì đi. Tuy dễ dãi là thế nhưng cũng không mấy
ai đào ngũ. Bởi họ thừa biết học tập xong sẽ được đưa về các cửa biển trong
tỉnh để công tác. Mặc sức ăn cá tươi và hạch sách ngư dân. Đời sẽ đẹp như mơ.
Những ngày ở Gành Ráng chúng tôi có một mớ kỷ niệm thú vị. Chuyện
đầu tiên là thằng T. và tôi gặp lại cô giáo cũ. Chiều thứ bảy hôm đó, hai đứa
đi dạo biển Quy Nhơn để thư giản, ngắm cảnh đẹp. Trời mùa đông, mặt biển xám
ngắt, gió nhẹ nhưng không mưa. Lúc chúng tôi đi ngang qua một băng ghế chợt
nhìn thấy một cô gái trẻ có mái tóc cắt ngắn. Trên người mặc chiếc áo len màu
đen. Đi vượt qua cô gái vài bước chợt thằng T. khều tôi bảo:
- Mày có thấy ai không?
Ngạc nhiên vì không biết nó phát hiện ra ai quen biết chốn này nên
tôi hỏi lại:
- Ai?
- Người ngồi trên băng ghế đó! – Thằng T. nói tiếp –
Trông cô ấy giống cô Dung quá!?
- Cô Dung nào?
- Cô Dung dạy môn địa lý năm lớp 9.
- Mày chắc không?
- Sao lại không!
Tôi còn nghi ngờ vì không nhìn rõ gương mặt cô gái lúc nãy, nhưng
cũng nói:
- Mình quay lại hỏi thử. Biết đâu đúng là cô Dung thật.
Chúng tôi quay lại. Cô gái còn ngồi đó, hướng mặt ra biển. Hai đứa
đến bên cạnh cúi đầu chào. Cô ấy nghe có tiếng người nói chuyện liền quay sang.
Tôi nhìn kỹ, cũng giống cô Dung thật! Thấy hai chú bộ đội hình như muốn ngỏ lời
làm quen với mình, cô gái nhoẻn cười và hỏi rất lịch sự.
- Các chú cần giúp đỡ gì?
- Dạ... Cô có phải là cô Dung từng dạy môn địa lý ở trường Phổ
Quang, Đức Phổ không ạ? – Thằng T. nói lí nhí.
Cô gái trố mắt nhìn chúng tôi:
- Đúng rồi! ... Sao các em biết?
- Dạ, tụi em học lớp 9A. Huỳnh Tiến T. và Trần Văn Thư đây ạ! Cô
đúng là cô Dung rồi!
- Ừ... ừ! – Giọng cô mừng
rỡ.
Gặp lại trò cũ trông cô có vẻ rất vui. Năm ấy một số sinh viên
Trường Cao đẳng Sư phạm về Trường cấp hai quê tôi dạy thực tập. Cô Dung phụ trách
môn địa lý cho khối lớp chín. Nói chuyện hồi lâu, cô cho chúng tôi biết cô
không làm giáo viên nữa. Thầy Á, dạy vật lý đã đi vượt biên.
Cô bây giờ cắt tóc ngắn nên trông hơi khác. Thảo nào tôi thoáng
nhìn không nhận ra. Ngày trước, để tóc dài nửa lưng trông cô nhu mì hơn. Nhà cô
ở Quy Nhơn. Hôm nay cô ra biển vì có hẹn với bạn. Lát sau, một chàng trai cao
lớn đi đến. Có lẽ là bạn trai cô. Chúng tôi tế nhị chào hai người rồi tiếp tục
dạo biển. Lúc đi đã khá xa thằng T. đắc ý nhếch mép cười, bảo tôi:
- Mày thấy cặp mắt tao có tinh không?
Tôi chọc nó:
- Chó táp nhằm ruồi, chứ tinh anh gì!
Tuy ngoài miệng nói thế nhưng trong bụng tôi cũng thầm khen thằng
này tinh mắt. Cũng nhờ tinh mắt mà mai hậu nó đã thăng chức khá nhanh. Mười năm
sau gặp lại nó đã là sĩ quan cao cấp dù chưa đánh trận nào. Hôm uống rượu mừng
tái ngộ nó hỏi tôi:
- Thư, mày còn nhớ Lê Thưa không?
- Lê Thưa nào?
- Trung tá tiểu đoàn trưởng khu huấn luyện Phù Cát.
- À, nhớ...
- Bây giờ cấp bậc của tao lớn hơn ông ấy rồi!
- Thượng tá?
- Không. Đại tá! – Nó khoe với tôi, vẻ mặt chẳng khác gì mười năm
về trước, khi nhận diện đúng cô giáo Dung.
- Chúc mừng mày! – Tôi giơ
lên một ngón cai và cụng ly cùng nó.
Cuộc gặp gỡ với cô bạn cũ cùng học chung năm lớp mười vài hôm sau
cũng không kém phần thi vị. Lần đó cả hai chúng tôi rủ nhà thơ Thái Đức cùng đi
vào Trại phong Quy Hòa, để tìm cô bạn tên Mai Linh, đang sinh sống với mẹ ở
trong ấy. Từ chỗ doanh trại chỉ cần vượt qua hai con dốc, một dài một ngắn là
đến làng Quy Hòa. Đó là một nơi phong cảnh tuyệt đẹp. Ba bề đều là núi rừng.
Phía đông một bờ cát trắng hẹp và cong hình chữ C. Khúc giữa và đuôi được kéo
thật dài đến tận cụm núi phía nam. Nơi đây như tách biệt hẳn với cuộc sống phố
thị nên trầm mặc, yên tĩnh dị thường. Chỉ nghe tiếng thông reo vi vu trong gió,
và tiếng sóng biển rì rầm. Đường sá nhỏ hẹp nhưng thẳng tắp có trồng cây hai
bên, rất ít người qua lại. Đang là mùa đông lá vàng rơi rụng khắp nơi. Những
ngôi nhà be bé, mái ngói màu đỏ sậm, tường quét vôi vàng nhạt, xinh xắn như
trong chuyện cổ tích. Qua một hồi thả bộ dạo quanh làng, chúng tôi cuối cùng
cũng tìm được căn nhà của Mai Linh. Nghe có tiếng gõ cửa cô nàng bước ra, mở to
cặp mắt tròn xoay nhìn chúng tôi. Thấy cô cứ đứng lặng yên, tôi cười cho đỡ
lúng túng, và cất tiếng trêu:
- Thấy đồng môn đến nhà không mời vào chơi à?
Sau phút ngỡ ngàng, Mai Linh vội vàng mở rộng hai cánh cửa cho bọn
tôi vào, và kéo ghế mời ngồi. Gian phòng nhỏ nhưng sạch sẽ, nền lát gạch bát
tràng đã cũ. Trên tường treo mấy bức hình Đức chúa Giê Su và Mẹ Maria. Cô bạn
vui vẻ lấy ấm tách trên một cái tủ bên cạnh chiếc bàn ra pha trà. Chúng tôi nói
đủ chuyện huyên thuyên. Nàng không ngờ bọn tôi đi bộ đội, bọn tôi cũng không
ngờ nàng định sống hẳn nơi đây. Lúc còn đi học Mai Linh nổi tiếng là cô gái đẹp
của lớp tôi. Đám học sinh con trai tụi tôi khi học trường huyện cũng tự hào về
cô vì Phổ Quang có một tiểu mỹ nhân. Da cô ấy trắng hồng, cặp mắt to đen, mi
dài và cong tự nhiên không cần chuốc. Thêm đôi môi mọng và dáng người cao ráo
nàng đã làm khổ sở lắm anh học lớp trên. Nhưng đùng một cái nàng bỏ học dở dang
năm lớp mười. Một số bạn đồn rằng máu phong cùi trong người cô đã phát tác nên
cô thôi học, về sống với mẹ ở Quy Hòa. Tôi kín đáo quan sát khi cô rót nước ra
tách. Đôi tay vẫn trắng ngần, ngón dài và mềm mại. Đâu có dấu hiệu xuất hiện
phong cùi lở loét ở bàn tay như lời đồn?
Mai Linh mời bọn tôi uống nước. Hồi lâu vẫn không thấy ai uống
ngụm nào, nàng có vẻ không vui. Thấy vậy, tôi cầm cái tách bằng sành nhỏ như
hột mít uống một ngụm đã hết sạch. Hai thằng bạn thấy tôi không e ngại gì cũng
cầm chung uống cạn.
Chúng tôi chào từ biệt Mai Linh ra về. Cô tiễn khỏi ngõ, rồi quay
vào. Tôi ngoáy đầu lại nhìn dáng người bạn gái nhỏ nhoi bất hạnh lần chót, lòng
chợt thấy thương thương.
Nói đến Quy Nhơn không những người ta nghĩ ngay đến bãi biển Hoàng
Hậu nổi tiếng, hoặc làng Quy Hòa thơ mộng mà còn nhắc đến Đồi Thi Nhân, nơi có
ngôi mộ của cố thi sĩ tài hoa Hàn Mặc Tử. Mộ ông ngày đó được xây bằng xi măng
không “hoành tráng” như bây giờ. Con đường lên mộ thi sĩ khúc khủyu, hai bên
cây cối rậm rạp, um tùm. Tôi có làm một bài thơ chép vào cuốn Tiếng Lòng, năm
2016, chỉnh sửa lại đôi chút và đăng lên mạng xã hội.
Viếng Mộ Hàn Mặc Tử
Dốc cũ còn ghi nhớ Mộng
Cầm
Nhưng người đã khuất biệt
mù âm
Quy Hòa sóng vỗ trong
buồn tủi
Đất Cảng hồn bay giữa
lặng trầm
Ngửa mặt than trời ai yểu
mệnh
Nghiêng mình tưởng niệm
phút thành tâm
Ngàn sau vẫn tiếc Duyên
Kỳ Ngộ
Mật Đắng cuồng điên mải
miết tầm.
Có những bài thơ khiến người ta lên voi, cũng có những bài thơ đày
ải người ta vào cảnh tù ngục, tối tăm hoặc mất cả sinh mạng. Không nói đâu xa,
những thập niên 1950s của thế kỷ trước ở miền Bắc Việt Nam những bài thơ trong
nhóm Nhân văn-Giai phẩm là một dẫn chứng điển hình.
Cũng vì làm một bài thơ mà sau đó một sự việc xảy ra đã làm cho
cách suy nghĩ về cuộc sống, về người cộng sản của tôi đã khác đi hoàn toàn.
Ngày còn bé đọc những truyện, ký của những người đi làm cách mạng tôi khâm phục
họ lắm. Tôi luôn luôn muốn học hỏi, noi gương theo họ tinh thần vì đất nước quê
hương, sẵn sàng dám hy sinh, dấn thân vào con đường gian lao, nguy hiểm. Cũng
chính vì làm bài thơ hôm ấy mà tôi mới phát hiện ra sự thật đằng sau vẻ đạo đức
giả của những người tự cho mình là kẻ yêu chuộng tự do, công bằng xã hội. Tôi
đã học được bài học đầu tiên về bản chất của người cộng sản. Họ đã không tôn
trọng những nguyên tắc sơ đẳng về tự do tư tưởng, quyền riêng tư của người
khác. Họ luôn luôn muốn kiểm soát tư duy của mọi người.
Lúc ấy là vào khoảng cuối tháng 11 âm lịch. Nhằm mừng đảng, mừng
xuân mới, khóa học tân binh lính biên phòng có tổ chức cho các trung đội thi
đua. Mỗi đơn vị làm một tờ báo tường. Vốn tính hay thích viết lách, tôi cũng
tham gia đóng góp một bài thơ với tựa đề “Những Ngọn Đèn Ve.” Nội dung chỉ là hồi tưởng lại miền quê dấu yêu đang xa
cách. Cũng như nhằm bày tỏ niềm tin yêu vào cuộc sống, nuôi dưỡng niềm hy vọng
nhỏ nhoi nhưng cháy bỏng vào tình người nơi cố hương.
Bài viết được gửi đi vào buổi sáng thì khoảng 11 giờ trưa tôi có
việc ra ngoài. Khi trở về, ba lô của tôi bị lục tung. Quần áo, giấy bút và đồ
dùng cá nhân như chăn, màn... bị vứt bừa bãi dưới sàn barrack. Chiếc ba lô bị
mở toang. Tôi vừa ngạc nhiên, vừa tức giận chẳng biết kẻ nào thù ghét tôi điều
gì mà phá đám như thế. Tôi hỏi người đồng chí bên cạnh. Được anh ta cho biết,
cán bộ trung đội cho người lục soát. Nghe nói thế, tôi bắt đầu lo lắng, không
hiểu mình đã làm sai điều gì mà bị cấp trên đối xử như kẻ ăn cắp vặt vậy. Lẳng
lặng tôi thu dọn lại đồ đạc. Lúc đó mới biết mất đi cuốn Tiếng Lòng. Dọn dẹp
vừa xong cũng là lúc chính trị viên đại dội cho người gọi tôi lên. Tôi bước vào
căn phòng làm việc của đại đội trưởng, trông thấy ở đó đã có mặt A trưởng và B
trưởng, cùng với chính trị viên. Tôi nghĩ bụng: “Sự việc rất nghiêm trọng đây!”
Họ chỉ ghế cho tôi ngồi và bắt đầu hạch hỏi về nội dung bài thơ.
Tôi cố gắng giải thích cho mọi người hiểu, bài thơ không có bất cứ một ám thị
phản động nào. Tôi hoàn toàn không dính dáng vào bất cứ một tổ chức nào. Nhưng
họ cứ day đi day lại những câu mà tôi đã viết như sau:
“Những ngọn đèn ve không
sáng chóa, sáng lòa
Như ánh điện ở nơi đây em
ạ!
Những ngọn đèn ve cháy âm
thầm, êm ả
Như ngọn lửa cuộc đời
sưởi ấm tuổi thanh xuân!”
Họ hỏi tôi có âm mưu gì mà viết như thế?! Có phải “những ngọn đèn
ve” là tín hiệu, là ngọn lửa âm ỉ chống đối lại chính quyền cách mạng không?
Tôi đã khẳng định nhiều lần tuyệt đối là không. Nhưng họ vẫn không tin!
Tôi chẳng còn nhớ trọn vẹn bài thơ nên không chép hết ra đây được.
Thế nhưng, theo như cảm nhận của tôi thì họ chỉ bắt bẻ mỗi khổ thơ trên. Đã
trãi qua gần bốn mươi năm rồi, tôi vẫn nhớ như in và chép lại được, vì bị hỏi
cung suốt 2 giờ đồng hồ liền. Họ cứ nhắc đi nhắc lại đoạn thơ ấy. Cuối cùng
chắc là họ tạm tin tôi không tham gia vào nhóm phản động nào nên đã trả lại
cuốn nhật ký Tiếng Lòng. Nhưng bài thơ thì bị tiêu hủy. Tôi phải viết bản kiểm
điểm giải trình về tư tưởng rồi mới được ra về. Cũng may là trong tập Tiếng
Lòng toàn là những bài ca ngợi cảnh đẹp quê hương, hoặc cuộc sống nông thôn mới
hợp tác xã, hoặc những bài thơ tình rất ngô nghê thời mới lớn. Chỉ có một ít
bài than nghèo, than đói là đáng e ngại mà thôi. May mà lúc đó tôi chẳng ghi
chép điều gì về chính trị.
Trước ngày sự việc xảy ra tôi chưa hề nghĩ sự kiểm soát tư tưởng
con người của ché độ cộng sản là hết sức gắt gao, cay nghiệt như thế.. Tôi cũng
chưa hề có được khái niệm tự do trong sáng tác là gì. Tôi chỉ biết mình nghĩ
mình cảm thế nào thì viết ra như thế. Kể từ sau hôm xảy ra câu chuyện, trong
lòng tôi cứ suy nghĩ rằng có một cái gì đó sai sai, không đúng ở những người
chỉ huy của tôi. Tôi không nói ra điều đó với bất cứ ai, nhưng từ đấy không còn
hứng thú để viết gì nữa. Tập nhật ký cũng bị tôi xé bỏ. Tôi sợ sẽ gây họa vào
thân.
Sau đó một tuần, nửa đêm bỗng có tiếng còi báo động. Mọi người
nhanh chóng thức dậy, thu xếp mùng mền rồi ra sân tập hợp. Tôi cứ tưởng báo
động diễn tập hành quân như mọi lần. Nhưng không! Lần này khác!
Lúc mọi người đã có mặt đầy đủ, đại đội trưởng cầm bảng danh sách
đọc một số cái tên. Hễ ai bị đọc tên thì bước ra ngoài hàng. Tôi nghe đọc cả
hai cái tên Nguyễn Minh và Trần Văn Thư, không có tên thằng T. Chúng tôi bước
ra khỏi hàng. Tất cả chừng đâu mười mấy người. Đại đội trưởng cho nhóm người
ngoài danh sách về lại trại. Nhóm bị gọi tên bắt đầu lo lắng, có tiếng xì xầm
bàn tán. Có người đoán sắp có chuyển quân. Tôi nghĩ bụng, khóa học chưa kết
thúc sao lại chuyển quân lúc này. Không biết thằng Minh nghe tin đồn ở đâu, ghé
vào tai tôi thì thầm:
- Bọn mình bị điều chuyển sang bộ đội chính quy.
Tôi bình thản, lính gì cũng là lính thôi mà. Tuy nghĩ thế nhưng
không nói ra. Đúng lúc này, tôi trông thấy một chiếc xe nhà binh, không biết đã
đậu ngoài cổng từ khi nào, bắt đầu nổ máy. Hai cái đèn pha bật sáng choang. Đại
đội trưởng ra lệnh cho tất cả lên xe cùng với hai trung đội phó vai mang súng
AK47, và cả chính trị viên đại đội. Chiếc xe nhắm hướng thị xã Quy Nhơn lăn
bánh. Hai vệt đèn pha sáng quắc soi rõ con đường trong màn đêm tối đen.
Xe chạy vào một cái cổng doanh trại. Trong sân, đèn điện bật sáng.
Vài tốp bộ đội vai mang ba lô như chúng tôi đi qua đi lại. Đồng chí chính trị
viên dẫn cả bọn đến bàn giao cho một cán bộ khác. Chúng tôi xếp hai hàng dọc.
Anh thượng sĩ kia điểm danh từng người rồi đưa cả bọn vào một căn phòng. Tôi
ngó quanh chỉ có vài nhóm lính đang ngồi hoặc đứng to nhỏ chuyện trò với nhau.
Lúc anh thượng sĩ vừa ra khỏi phòng, tôi hỏi thằng Minh, thằng này tuy thấp bé
nhưng khôn ngoan và lọc lõi cuộc đời hơn tôi nhiều.
- Mày biết bọn họ sẽ đưa mình đi đâu không?
- Chắc là Cam-pu-chia!
- Tin từ đâu thế?
- Tao đóan vậy!
Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu tôi. Chẳng lẽ mình làm bài thơ
ấy, họ đọc và cho là mình có tư tưởng phản động thật chăng? Thế thì oan tôi ông
địa! Từ trước đến nay tôi luôn luôn ghi nhớ điều Bác dạy thiếu niên và nhi
đồng, yêu tổ quốc, yêu đồng bào. Chả thế mà có lần một chiếc tàu vượt biển tấp
vào xã Phổ An, lũ trẻ chúng tôi đã kéo nhau đi xem. Hom đó, thằng Thanh, bạn
thân nhất của tôi hỏi, nếu có dịp đi vượt biển tôi có đi không. Không cần suy
nghĩ tôi cũng trả lời nó một cách nghiêm túc, “đi làm gì!" Tôi cứ ngây thơ tin tưởng như những lời tuyên
truyền rằng hễ ai bỏ nước ra đi đều là người tham sang phụ khó cả. Tôi hỏi
thằng Minh.
- Mày có gửi thơ tham gia báo tường không?
- Có!
- Chủ đề gì?
- Tao đọc mày nghe. – Nó nói rồi không cần giở cuốn sổ ra, đọc một
đoạn cho tôi nghe:
“Đêm mùa đông rét mướt
Thao trường mưa lâm thâm
Mình ta bồng súng gác
Nhớ mẹ già xa xăm
Đứng canh trời xứ lạ
Không vì sao bạn cùng
Gió rung cành, rơi lá
Lòng chợt buồn mông lung
...............................”
Đọc xong bài thơ, nó ghé vào tai tôi, hỏi:
- Mày có muốn trốn không?
Tôi trầm ngâm không trả lời. Nó nói tiếp:
- Mày ở đây coi ba lô, tao ra ngoài xem thử!
Thằng Minh đi một lát rồi quay lại. Nó nói nhỏ:
- Không có cách nào ra ngoài được. Lính gác cổng chỉ cho bộ đội
vào không cho ra.
Đêm ấy mọi người ngủ nghỉ tại căn phòng đó. Tờ mờ sáng hôm sau,
tất cả không được cho ăn sáng, đều tập trung tại hội trường nghe những lời huấn
thị của cấp trên rồi lên xe. Đoàn xe tân binh gồm tám chiếc chở đầy nhóc lính
mới, chạy ra ngã ba Phú Tài rồi rẽ sang Quốc lộ 19 chạy về hướng đèo An Khê.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Bạn đọc cảm nhận
về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện
ngắn
“CÔ” SƯỚNG CƯỚI VỢ của Đặng
Xuân Xuyến:
*.
TRẦN ĐỨC PHỔ
Địa chỉ: 819 Kleinburg Dr,
London
tỉnh bang Ontario, Canada.
Email: ducphot946@gmail.com
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản từ email tác giả gửi ngày 27.02.2024.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện
quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét