TRUYỀN THUYẾT TỐNG TRÂN - CÚC HOA - Tác giả: Đặng Xuân Xuyến

Leave a Comment
(Đền thờ Tống Trân - Cúc Hoa , Nguồn ảnh: Báo Hưng Yên)
TRUYỀN THUYẾT
TỐNG TRÂN - CÚC HOA
*
Tục truyền, vào thời nhà tiền Lý (bia Văn Miếu ở Hưng Yên ghi là thời Trần) ở xã An Đô, tổng Võng Phan, huyện Phù Dung (nay là thôn An Cầu, xã Tống Trân, huyện Phù Cừ) có một người họ Tống, tên gọi Thiệu Công thuộc dòng dõi thi thư, gia cảnh nghèo khó, lấy vợ người xã Phù Oanh (cùng huyện) tên là Đào Thị Cuông.
Vợ chồng nhà họ rất yêu thương nhau, mong sớm có được mụn con cho vui cửa nhà nhưng mãi vẫn không sinh nở được. Tuy buồn vì chuyện hiếm muộn nhưng hai vợ chồng họ sống rất nhân từ, hay làm điều thiện nên nhà Trời đã sai thiên sứ xuống đầu thai, lúc ấy Tống Thiệu Công đã ngoài 60 tuổi. Mang thai 11 tháng, đến giờ Dần ngày rằm tháng Tư năm Bính Ngọ, bà Đào Thị Cuông mới hạ sinh một cậu bé khôi ngô, tuấn tú. Thấy điềm lạ là sau khi sinh con, suốt ba ngày ba đêm trong nhà luôn tỏa ánh hào quang nên vợ chồng Tống Thiệu Công đặt tên con là Tống Trân.
Lên 3 tuổi, Tống Trân đã rất giỏi âm luật. Lên 5 tuổi, Tống Trân đã có khí chất thông minh, thiên tư sáng suốt, học một biết mười, trên từ thiên văn, dưới đến địa lý đều am hiểu tinh tường.
Khi cha mất, Tống Trân cùng mẹ lang thang hành khất. Một ngày nọ, khi đến đất Sơn Tây, cậu vào một gia đình trưởng giả xin ăn, được Cúc Hoa (con gái của ông trưởng giả) đem lòng yêu mến vì tài đối đáp lanh lẹ, thông minh, đã xin cha mẹ cùng Tống Trân nên duyên chồng vợ nhưng bị gia đình cự tuyệt, hắt hủi. Ba người bèn đưa nhau trở về quê của Tống Trân làm ăn, sinh sống.
Đến năm Tống Trân 7 tuổi, khi vua Lý Nam Đế mở khoa thi để tuyển chọn nhân tài, Tống Trân vào kinh ứng thí, cả ba kỳ thi ông đều đỗ thủ khoa. Ba năm sau, ông đỗ tiếp Trạng Nguyên, được vua ban khen: - “Quốc sĩ vô song, tướng tài quả nhị”, nghĩa là “Kẻ sĩ cả nước chỉ có một Tống Trân là tướng tài mà không có người thứ hai.”
Ngày 10 tháng 04 (âm lịch), vua ban cờ biển, một nghìn vuông gấm và mười đĩnh vàng cho Tống Trân về vinh quy bái tổ.
Trở về làng bái yết tổ tiên, thăm hỏi họ hàng, khao vọng làng xã trong một tháng, rồi cưới nàng Cúc Hoa làm vợ. Tống Trân làm nhà mới ở làng Phù Oanh (xã An Đô, tổng Võng Phan, huyện Phù Cừ), để vợ trông coi rồi trở lại kinh thành phụng sự triều đình.
Ba tháng sau, vua cử Tống Trân đi sứ sang Bắc quốc. Vua Trung Quốc thấy Tống Trân nhỏ tuổi nên tỏ ý coi thường đã dùng đủ mọi cách để thử tài, nhưng quan Trạng nước Nam đều ứng đối trôi chảy, xử thế mưu trí, khiến vua Trung Quốc cảm phục, ngợi khen là nhân tài thứ nhất trong 18 nước chư hầu và phong làm "Lưỡng quốc trạng nguyên". Vua Tàu muốn gả con gái cho Tống Trân nhưng ngài cự tuyệt, vì thế ngài bị vua Tàu hạ chỉ giam ngài cùng đám tùy tùng vào chùa Linh Long trong một trăm ngày, không cho thức ăn, nước uống, với nghiêm lệnh “nội bất suất, ngoại bất nhập”. Tại đây, ngài nảy ra sáng kiến bẻ ăn tượng phật (được làm bằng chè lam) và uống nước lã (bình nước vua Tàu cho đặt bên cạnh pho tương Phật để thử tài quan trạng nước Nam), nên lần nữa, vua Tàu phục tài Tống Trân bèn phong làm "Phụ quốc thượng tể Đẩu Nam Tống đại vương".
Mười năm đi sứ, khi Tống Trân trở về thì Cúc Hoa đang bị cha đẻ tham tiền ép tái giá. Tống Trân bèn cải trang thành người hành khất để dò la tình ý, biết Cúc Hoa vẫn một mực thủy chung, thầm ngợi khen Cúc Hoa đủ tam tòng, tứ đức, thực là nữ trung Nghiêu, Thuấn, bèn đón vợ về, cùng nhau đoàn tụ. Vua biết chuyện, đã phong cho Cúc Hoa làm "Quận phu nhân".
Khi Lý Nam Đế băng hà, Triệu Quang Phục lên ngôi hiệu là Triệu Việt Vương, có vời Tống Trân ra làm "Phụ chính đại thần". Được hơn mười năm, Tống Trân ngoài 60 tuổi, mới dâng biểu cao quan về quê dạy học. Cúc Hoa phu nhân không có con, lại mắc chứng bệnh đau bụng, ba hôm sau thì mất (ngày 3 tháng 3). Năm năm sau, Tống Trân bị chứng bệnh "mã đao" (hạch ở cổ) và mất ngày mồng 5 tháng 5 năm Tân Hợi.
Ngài được vua sắc phong "Thượng đẳng tối linh phụ quốc Tống Trân đại vương" và về sau được truy phong làm "Thượng đẳng phúc thần".
Theo quy định hàng năm, lễ hội làng được tổ chức từ ngày 10 tháng 04 (âm lịch) đến ngày 17 tháng 4 (âm lịch), trong đó hai ngày 13 và 14 là ngày hội chính. Ngày 13 tiến hành rước kiệu từ các đền, chùa trong làng. Trong ngày chính hội (tức ngày 14 tháng 04) dân làng rước kiệu quan Trạng đi vòng quanh làng với đoàn tuỳ tùng, cờ xí, võng lọng trông rất uy nghi. Đến ngày 16 tháng 04 (âm lịch) lại rước kiệu về các đình, đền, chùa để an vị. Ngày 17 tháng 04 làm lễ bế hội.
Lễ hội đền Tống Trân là một trong những lễ hội lớn nhất của huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên.
. ........................................................................................
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.

0 comments:

Đăng nhận xét