(Lễ
hội làng Thạch Bàn, Hồng Quang,
|
GÓP PHẦN TÌM HIỂU VỀ
TRẠNG NGUYÊN TRẦN VĂN BẢO
Trần
Văn Bảo là một trong 5 vị Trạng nguyên của tỉnh Nam Định. Ông từng làm quan triều Mạc đến Thượng thư. Học vị Trạng
nguyên đã khẳng định Trần Văn Bảo là người học rộng, tài cao, giỏi văn thơ.
Nhưng tiếc rằng tài liệu cổ viết về ông hiện còn rất ít, lại quá sơ sài, nhiều
chi tiết không thống nhất. Điều này dễ hiểu: vì Trạng nguyên Trần Văn Bảo làm
quan triều Mạc, mà triều Mạc lại bị các nhà viết sử thời phong kiến coi là nguỵ
triều nên không ghi chép đầy đủ, kỹ càng. Trải hơn 400 năm, các di tích đền
thờ, sắc phong về ông bị mai một, thất lạc hầu như không còn gì đáng kể.
Sinh thời Trạng nguyên Trần Văn
Bảo có tiếng về sự nghiệp làm quan
và tài văn học vang lừng sang cả Bắc quốc
như người đời ca ngợi "Sự nghiệp, văn chương đằng Bắc quốc". Nhưng
đáng tiếc là chúng tôi chưa tìm thấy tác phẩm nào của ông còn lại đến ngày nay.
(Tác giả Trần Mỹ Giống) |
Bước đầu nghiên cứu về Trạng
nguyên Trần Văn Bảo, chúng tôi chỉ giám hy vọng tập hợp và phân tích tư liệu
viết về ông, góp phần tái hiện chân dung xác thực về một danh nhân văn hoá tiêu
biểu của tỉnh Nam
Định.
CỦA TRẠNG NGUYÊN TRẦN VĂN BẢO:
Trần Văn Bảo (sau đổi tên là
Trần Văn Nghi, có tài liệu chép là Trần Văn Tuyên) sinh năm Giáp thân 1524, mất
năm Canh tuất 1610, quê làng Cổ Chử, huyện Giao Thuỷ, trấn Sơn Nam (nay là thôn Dứa, xã Hồng Quang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định).
Theo gia phả họ Trần làng Cổ
Chử, cha Trần Văn Bảo là Trần Công, người ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(nay là thôn Tức Mặc, xã Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định). Vào
thời Lê, Trần Công di cư xuống làng Cổ Lãm (sau đổi là Cổ Chử), huyện Giao
Thuỷ. Trần Công lấy vợ người làng Cổ Chử, sinh được hai người con là Trần Văn
Bảo và Trần Văn Hoà. Mồ côi cha từ nhỏ, nhà nghèo, anh em Trần Văn Bảo sống rất
khổ cực nhưng vẫn ham học. Thân mẫu hai ông phải tần tảo buôn bán hoa quả ở chợ
Lạc Đạo (nay thuộc xã Hồng Quang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định) để lấy tiền nuôi hai con ăn học. Khi hai con vừa đến
tuổi trưởng thành thì bà qua đời. Sau khi mẹ mất, gia cảnh Trần Văn Bảo lại
càng khốn khó nhưng ông vẫn quyết chí học tập.
Năm 27 tuổi, Trần Văn Bảo đỗ Đệ
nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa Canh Tuất niên hiệu
Cảnh Lịch 3(1550) đời Mạc Phúc Nguyên.
Sau khi đỗ Trạng nguyên, Trần
Văn Bảo được bổ làm quan trong triều đình nhà Mạc. Sau này ông đổi tên là Trần
Văn Nghi rồi đi sứ nhà Minh (Trung Quốc). Khoảng đầu niên hiệu Diên Thành
(1578) triều Mạc Mậu Hợp, Trần Văn Bảo được thăng chức Thượng thư, tước Nghĩa
Sơn bá. Đến tháng 7 năm Tân Tị 1581 ông lại được Mạc Mậu Hợp giao chức Lại bộ
Thượng thư, cho vào hầu giảng ở toà Kinh Diên.
Thời kỳ này nhà Mạc suy tàn, kỷ
cương lỏng lẻo, xã hội rối ren, quan quân đánh dẹp liên miên, dân tình vô cùng
khổ cực. Mạc Mậu Hợp lên ngôi từ khi mới hai tuổi, lớn lên chỉ ham chơi bời
rượu chè, gái đẹp, chẳng quan tâm đến chính sự. Các quan đại thần trong triều
như: Hộ bộ Thượng thư Giáp Trưng, Thiêm đô Ngự sử Lại Mẫn, Đông các học sĩ
Nguyễn Năng Nhuận, các Đô cấp sự trung ở sáu khoa (Nguyễn Phong, Nguyễn Tự
Cường, Phạm Như Giao, Nguyễn Ích Trạch, Lê Viết Thảng, Nguyễn Quang Lượng)...
liên tiếp dâng sớ lên Mạc Mậu Hợp, chỉ rõ chính sự suy đồi, khuyên răn Mạc Mậu
Hợp hãy chăm lo chính sự, nhưng Mạc Mậu Hợp vẫn không thay đổi.
Trước tình hình suy sụp của
triều đình và Mạc Mậu Hợp càng ngày càng lao vào ăn chơi sa đoạ, Trần Văn Bảo
đã tiên đoán sự diệt vong tất yếu của vương triều Mạc. Ông cảm thấy buồn nản và
bất lực, muốn lui về ẩn dật. Trong tờ sớ của các Đô cấp sự trung sáu khoa dâng
lên Mạc Mậu Hợp hồi tháng 6 năm Tân Tị 1581 có đoạn viết về Trần Văn Bảo như
sau:
"... Văn thần trọng trách như Nghĩa Sơn bá Trần
Văn Nghi, Vịnh Kiều bá Hoàng Sĩ Khải, An Khê bá Mai Công, Đam Xuyên bá Nguyễn
Triệt, thì đều giữ vẻ khoan hậu, không cần nghĩ tới việc sâu xa. Bởi thế các
liêu thuộc nhân đó mà trễ nải..." (Lê
Quý Đôn toàn tập.- H.: Khoa học xã hội, 1978.- T.3.- Tr. 328 - 329).
Lời nhận xét trên chứng tỏ Trần
Văn Bảo đã mang tâm trạng chán nản, không còn ham chức tước, muốn lui về quê
làm một xử sĩ.
Ngày mồng 7 tháng 8 năm Tân Tị
1581, Trần Văn Bảo vào triều yết cáo xin về cố hương và dâng sớ từ chức Lại bộ
Thượng thư. Đại lược nội dung tờ sớ của ông như sau:
"Trong khoảng trời với người giao cảm, đều ứng vào cùng loại với nhau,
như nhân sự hay thì trời ứng điềm lành, nhân sự dở thì trời ứng điềm dữ. Chính
sự thời nay, rất nhiều việc hại đạo trái lẽ, không thể kể xiết.
Những tờ sớ của các
vị đình thần trước sau đã tâu bày, đều nói thẳng những sự sai lầm, có thể như
những liều thuốc hay, rất đáng cứu xét để tu tỉnh. Bệ hạ tuy đã ban chỉ dụ khen
ngợi, mà vẫn chưa thấy mở rộng lượng theo lời can gián, như bệ hạ dạy rằng: lời
này có thể làm theo, mà sao vẫn chưa thấy thi hành thực sự; như việc nọ đã qua
bàn luận rất nên châm chước thi hành, mà sao vẫn không thi hành; như văn bản
kia lưu ở trong cung, rất nên truyền ra, mà sao vẫn chưa phát ra... Không biết
đó có phải là do ý định của bệ hạ mà tạo ra tình trạng đó hay là hoặc có kẻ làm
mờ ám thông minh, lừa dối bệ hạ chăng?
Những việc như thế,
rất trái với đường lối trị nước. Cho nên thể thống triều đình, ngày càng rối
loạn, những lời công luận, ngày càng bế tắc. Trong nước không có chính trị hay,
cho nên trời ra điềm dữ để cảnh tỉnh, như là sao chổi xuất hiện; núi tự nhiên
lở, cùng là nhật thực nguyệt thực. Nay lại phạt bằng trận mưa bão dữ dội ngay
tại kinh sư, đó là tai dị rất lớn.
Thời xưa vua Cảnh
Công chỉ nói một lời thiện, mà sao chổi phải lui; nước Trịnh vì có chính trị
hay, mà khỏi tai hoạ về sau. Đó đều là điểm đã nghiệm về người thắng trời, đức
giải hạn, mà cũng đủ làm tấm gương soi tỏ cho ngày nay.
Kính mong bệ hạ, sợ
oai trời, sửa đức mình, ban sắc lệnh cho phụ chính ứng vương phải hết sức tu
tỉnh, giúp việc triều đình, để tâm vào việc giữ yên hoàng gia, nằm gai nếm mật,
lấy việc diệt quốc thù làm trách nhiệm của mình. Lại cần đòi hỏi các vị đại
thần, tin dùng những lời can gián trung thực; cải cách các điều lỗi, sắp đặt hết
mọi việc. Như vậy là nhân sự đã hoàn thiện, thì thiên ý tự khắc vãn hồi, và
thiên hạ quốc gia sẽ ngày một thịnh vượng thái bình. Nếu không thì thời kỳ bại
vong khó tránh được.
Hạ thần không xứng
chức, tự hạch xin miễn chức, và tới trước cửa khuyết để đợi tội, hoặc biếm hoặc
truất, kính theo mệnh của bệ hạ". (Hết trích)
Sau khi xem xong tờ sớ của Trần
Văn Bảo, Mạc Mậu Hợp liền ban sắc uý dụ và buộc ông phải nhận chức.
Ngày 29 tháng giêng năm Nhâm
Ngọ 1582, Mạc Mậu Hợp cho dựng ngôi điện giảng học, nhưng kỳ thực là để làm nơi
yến tiệc chơi bời. Điện vừa làm xong thì bị hoả hoạn cháy trụi. Nhân sự kiện
này, Trần Văn Bảo lại dâng sớ khuyên răn Mạc Mậu Hợp.
Sớ rằng:
"Kinh thư có câu: "Duy cát hung bất tiếm tại nhân, duy thiên giáng
tai tường tại đức" (Sự lành dữ xảy ra không lộn, tại người, trời giáng tai
ương hay điềm lành, đều bởi đức).
Nay bệ hạ mới ngự
ngôi điện mới dựng, đáng lẽ là lúc bắt đầu ban bố chính sự và giáo hoá, thế mà
lại tới đấy để thoả vui yến tiệc, không có đề phòng, đến nỗi ngôi điện bị cháy,
việc này không thể đổ cả cho trời được, đó chính là bởi nhân sự xui lên vậy.
Nếu người không có sơ hở, thì tai biến đâu có xảy ra. Ý trời răn bảo đã rõ ràng
như vậy, chính là lúc bệ hạ nên lo sợ chăm chỉ.
Kính mong bệ hạ,
kính sợ lời răn của trời, nghĩ tới vương đạo, đừng cho lời nói của hạ thần là
viển vông.
Đến như sự sửa sang
lại kinh thành, trù hoạch quy củ, dự định dựng ngôi điện, để bệ hạ tới ngự,
cũng là một cơ hội trung hưng thứ nhất. Vậy nên mong bệ hạ quyết đoán: giữa
mong ứng vương tán trợ; dưới mong tất cả văn võ bá quan hoà mục, để cùng bàn
tính kinh doanh, dựng lên một ngôi điện nguy nga giữa trời". (Hết trích)
Mạc Mậu Hợp xem sớ rồi khen là
thiết đáng, nhưng chỉ phán: "Trẫm đang suy nghĩ" và chứng nào vẫn tật
ấy.
Nội dung các tờ sớ của Trần Văn
Bảo thật thẳng thắn, chí lý, phân tích rõ nguyên nhân suy tàn của triều Mạc,
đồng thời đề ra biện pháp cứu vãn tình thế, khuyên răn Mạc Mậu Hợp phải kịp
thời sửa mình và chăm lo chính sự... Hơn 30 năm làm quan dưới triều Mạc, Trần
Văn Bảo đã đem hết sức lực, tài năng, trí tuệ giúp cho việc củng cố vương triều
Mạc. Thật đáng tiếc là Mạc Mậu Hợp đã không nghe theo những đề xuất của Trần
Văn Bảo, để đến nỗi bị nhà Lê tiêu diệt vào năm 1592.
Tháng 3 năm Nhâm Ngọ 1582, Trần
Văn Bảo lại xin từ chức Lại bộ Thượng thư để nhường cho các vị sứ thần vừa đi
Trung Quốc về nhưng Mạc Mậu Hợp vẫn không chấp nhận.
Tháng 11 năm Bính Tuất 1586,
Lại bộ Thượng thư Nghĩa Sơn hầu Trần Văn Nghi (tức Trần Văn Bảo, thời gian này
ông đã được thăng tước hầu) xin tu sửa Trường quốc học, hai giải vũ ở điện Đại
Thành và nghi môn tiền, nghi môn hậu, giảng đường, định lễ nhạc để tỏ rõ sự tôn
sư trọng đạo và mở rộng nền văn hoá giáo dục. Mạc Mậu Hợp không theo.
Sau nhiều lần đề xuất những
biện pháp cải thiện nền chính trị không được Mạc Mậu Hợp chấp nhận, khuyên răn
vua Mạc sửa mình và chăm lo chính sự mà Mạc Mậu Hợp vẫn để ngoài tai, liên tiếp
xin từ chức để về cố hương cũng không được Mạc Mậu Hợp đồng ý, Trần Văn Bảo cảm
thấy mình bất lực. Tâm trạng buồn chán của ông ngày càng nặng nề, dần dần mất
lòng tin đối với Mạc Mậu Hợp, dẫn đến hành động tất yếu là từ quan đi ẩn dật.
Trần Văn Bảo bỏ nhà Mạc nhưng không làm quan cho nhà Lê. Đó là nỗi day dứt với
quan điểm "Tôi trung không thờ hai chúa" và cũng chứng tỏ Trần Văn
Bảo vẫn mong muốn nhà Mạc làm được những điều tốt đẹp cho dân cho nước.
Khoảng cuối năm Bính Tuất 1586,
Trần Văn Bảo bỏ quan về quê rồi đi ẩn dật ở làng Phù Tải, huyện Bình Lục (nay
thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam). Tại đây ông mở trường dạy
học kiếm sống và đào tạo nhân tài cho đất nước. Học trò theo học rất đông.
Thương thày một thân vất vả, sớm khuya không người giúp đỡ, học trò bàn nhau
mối manh và xin ông kết duyên cùng bà Đào Thị Phượng, người làng Tiêu Động gần
bên. Trần Văn Bảo có một người con với bà Đào Thị Phượng là Trần Ngọc Lâm.
Năm Canh Tuất 1610 Trạng nguyên
Trần Văn Bảo qua đời, thọ 87 tuổi. Học trò lập đền thờ ông ở Đông Lân điếm. Dân
làng Phù Tải tôn ông làm Đương cảnh phúc thần. Mộ ông hiện còn tại khu Mả Cả
(Phượng Hoàng), làng Phù Tải, xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông
làm quan trải thăng đến tước hầu, sau khi mất được tặng tước Nghĩa Quận công.
Trần Văn Bảo có ba người con
(hai con với bà vợ cả ở Cổ Chử, một con với bà vợ hai ở Phù Tải):
- Con cả là Trần Đình Huyên,
sinh năm Tân Dậu 1561, không rõ năm mất. Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất
thân khoa Bính Tuất niên hiệu Đoan Thái 1(1586) đời Mạc Mậu Hợp. Sau ông theo
về nhà Lê, làm quan đến Công khoa Đô cấp sự trung.
- Con thứ là Trần Văn Thịnh thi
đỗ tứ trường (Hương cống) khoa Mậu Tý 1588, thi hội đỗ tam trường khoa Kỷ Sửu
1589 đời Mạc Mậu Hợp. Ông được Mạc Mậu Hợp gả em gái là Quyền Lộc công chúa cho
làm vợ. Theo gia phả họ Trần ở Cổ Chử thì Phò mã Đô uý Trần Văn Thịnh làm quan
nhà Mạc đến Thượng thư. Năm Nhâm thìn 1592 nhà Mạc mất, Phò mã Trần Văn Thịnh
quyên sinh. Quyền Lộc công chúa cũng tự vẫn theo chồng.
- Con út là Trần Ngọc Lâm, sau
làm quan đến Tri huyện, được phong tới tước hầu, là thuỷ tổ họ Trần làng Phù
Tải. Hậu duệ của Trạng nguyên Trần Văn Bảo ở Phù Tải, tính đến năm 1789, có 25
người ra làm quan thì 14 người trúng ngạch võ cử, trong đó có 4 người đỗ Tạo
sĩ. Trong số con cháu Trạng nguyên Trần Văn Bảo ra làm quan có 1 người được
phong tước bá, 1 người tước tử, 2 người tước nam.
II - MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRẠNG NGUYÊN
TRẦN VĂN BẢO CẦN LÀM RÕ:
Như trên đã trình bày, do Trạng
nguyên Trần Văn Bảo làm quan với triều Mạc, mà triều Mạc đối với các sử gia
thời trước bị coi là nguỵ triều, nên không được ghi chép đầy đủ. Do đó tài liệu
viết về Trần Văn Bảo hiện còn rất ít, lại sơ lược và nhiều điều không thống
nhất, cần phải làm rõ.
1- Về người em của Trần Văn Bảo là Trần Văn Hòa có phải
đỗ tới tiến sĩ không?
Cuốn “Thờ
thần ở Việt Nam” (Nxb Hải Phòng, 1996.- T.2) chép anh em Trần Văn Hoà
và Trần Văn Bảo cùng đỗ Hương cống khoa Kỷ mùi 1548, lại cùng đỗ đại khoa khoa
Canh Tuất 1550 triều Mạc Phúc Nguyên (Trần Văn Bảo đỗ Trạng nguyên, Trần Văn
Hoà đỗ Tiến sĩ).
Khoa Canh Tuất triều Mạc lấy đỗ
26 Tiến sĩ. Các sách đăng khoa lục và lịch sử đều chép đủ cả tên tuổi, quê quán
các vị đỗ khoa này. Một người là Trần Vi Nhân (người huyện Yên Phong, tỉnh Bắc
Ninh) vì gặp đại tang nên không dự thi Đình, do vậy “Đại Việt sử ký toàn thư”
chỉ ghi khoa này lấy đỗ 25 người. Trong số 26 người đỗ khoa này không có Trần
Văn Hoà. Tra cứu rộng ra các khoa thi triều Mạc và triều Lê cũng không thấy tên
ai là Trần Văn Hoà người Cổ Chử đỗ Tiến sĩ.
Có thể kết luận Trần Văn Hoà
không phải là đỗ Tiến sĩ khoa Canh Tuất niên hiệu Cảnh Lịch 3(1550) đời Mạc
Phúc Nguyên. Nói Trần Văn Hoà đỗ Tiến sĩ cũng không có cơ sở. Như vậy Trần Văn
Hoà có thể chỉ đỗ tới Hương cống thôi. Tuy nhiên nói Trần Văn Hoà đỗ Hương cống
khoa Kỷ Mùi 1548 cũng không phải. Năm 1548 là năm Mậu Thân chứ không phải Kỷ
Mùi.
2 - Về dòng dõi Trạng nguyên Trần Văn Bảo
Hiện có hai thuyết về dòng dõi
Trạng nguyên Trần Văn Bảo:
A - Thuyết thứ nhất nói rằng
Trần Văn Bảo là con Trần Công, người hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, di cư
xuống vùng Cổ Chử, lấy vợ người làng, sinh ra anh em Trần Văn Bảo và Trần Văn
Hoà... như đã trình bày ở phần trên, theo Gia phả họ Trần làng Cổ Chử, thần
tích thần phả địa phương và một số tác giả thời nay.
B - Thuyết thứ hai nói Trần Văn
Bảo vốn họ Lê, con Lê Minh Triết ở làng Đại Bối, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh
Hoá. Lê Minh Triết là một trong 5 vị hổ tướng triều Lê, được phong tước tới Hán
Quận công. Năm 1527 Lê Minh Triết mất, Lê Minh Bảo theo mẹ về quê ngoại ở Cổ
Chử sinh sống và đổi tên theo họ mẹ là Trần Văn Bảo... Thuyết này theo Gia phả
họ Trần ở Phù Tải và các bài nghiên cứu về Trần Văn Bảo của một số tác giả gần
đây.
Tra cứu nhiều tài liệu lịch sử,
chúng tôi không tìm thấy sách nào nói về 5 vị hổ tướng triều Lê cả. Chẳng lẽ
một vị hổ tướng được phong tước tới Quận công mà không một tài liệu nào nhắc
đến?
Tuy nhiên, “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Việt sử thông giám cương mục”, “Đại Việt thông sử” đều nói tới một
Lê Minh Triết (Triệt) nổi dậy khởi nghĩa ở vùng Nghệ An, bị Trịnh Duy Sản đánh
dẹp, chém đầu vào năm 1512. Rõ ràng Lê Minh Triết này không thể là cha Trần Văn
Bảo, người ra đời năm 1524.
Tìm hiểu cuốn “Gia phả họ Trần ở Phù Tải” thấy có
nhiều điều mâu thuẫn, phi lý. Trần Văn Bảo bỏ quan về quê rồi đi ẩn dật với mục
đích "mai danh ẩn tích". Có lẽ vì thế các tác giả viết gia phả họ
Trần ở Phù Tải sau này đã không biết được gốc tích của Trần Văn Bảo. Họ đã dùng
hình thức "phụ đồng giáng bút" để hư cấu những điều họ không biết rõ
về Trần Văn Bảo. Một số tác giả nghiên cứu gần đây đã căn cứ vào cuốn gia phả
này dựng lại chân dung Trạng nguyên Trần Văn Bảo mà không chọn lọc, phân tích,
đối chiếu với tài liệu lịch sử, đã đưa ra thuyết về nguồn gốc Trần Văn Bảo
không đúng sự thật này.
3 - Trần Văn Bảo có phải là Tam nguyên không?
Một số tác giả viết rằng Trần
Văn Bảo đỗ đầu cả ba kỳ thi Hương, Hội, Đình (tức Tam nguyên). Thực ra đỗ Hội
nguyên khoa Canh Tuất 1550 triều Mạc là Tiến sĩ Ngô Bật Lượng, người làng Bái
Dương, huyện Tây Chân (nay là thôn Bái Dương, xã Nam Dương, huyện Nam Trực,
tỉnh Nam Định). Các đăng khoa lục còn chép rõ điều này.
Như vậy, Trần Văn Bảo không
phải là Tam nguyên. Ông chỉ là người đỗ Đình nguyên thôi. Trạng nguyên là bậc
đỗ Tiến sĩ cao nhất thời phong kiến, cho nên danh hiệu này đã bao hàm danh hiệu
Đình nguyên rồi. Khi nói Trạng nguyên thì không cần nói Đình nguyên nữa.
4 - Trạng nguyên Trần Văn Bảo đi sức thời gian nào?
Về việc đi sứ của Trần Văn Bảo,
các thư tịch cổ chỉ chép chung chung là: "Sau ông đổi tên là Trần Văn Nghi
đi sứ Trung Quốc" hoặc chỉ nói "Ông có đi sứ Trung Quốc".
Cuốn “Thần tích Việt Nam” (Nxb. Văn hoá thông tin, 1995, sau Nxb. Hải
Phòng in lại đổi tên là “Thờ thần ở Việt Nam”), cuốn “Thành hoàng Việt Nam” (Nxb. Văn hoá, 1997) và một số bài viết
đăng tạp chí gần đây đều viết Trần Văn Bảo cầm đầu 4 bộ sứ thần nhà Mạc đi sứ
Trung Quốc vào năm Canh Thìn 1580 (Lê năm Quang Hưng thứ 3, Mạc năm Diên Thành
thứ 3). Sau khi đi sứ về ông lại giữ chức Thượng thư sáu bộ.
Tra cứu các thư tịch cổ thấy
rằng, cuối năm Canh Thìn 1580 nhà Mạc có cử 4 bộ sứ thần đi Trung Quốc. Đoàn đi
sứ này mãi đầu năm Nhâm Ngọ 1582 mới về nước. “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Đại Việt thông sử” đều chép đầy đủ danh sách 12 vị sứ thần là :
Lương Phùng Thì (Thìn, Thời), Nguyễn Nhân An, Nguyễn Uyên, Nguyễn Khắc Tuy,
Trần Đạo Vịnh, Nguyễn Kính, Đỗ Uông, Vũ Cẩn, Nhữ Tống, Lê Đình Tú, Vũ Tính, Vũ
Cận (Vũ Hoàng). Rõ ràng không có Trần Văn Bảo (Nghi, Tuyên) trong danh sách sứ thần.
Hơn nữa, “Đại Việt thông sử” chép năm Tân Tị 1581 Trần Văn Nghi (tức Trần Văn
Bảo) được Mạc Mậu Hợp giao chức Lại bộ Thượng thư nhưng ông đã xin từ chức mà
không được Mạc Mậu Hợp đồng ý. Tháng 3 năm Nhâm Ngọ 1582 ông lại xin từ chức
Lại bộ Thượng thư để nhường cho các vị sứ thần vừa đi Trung Quốc về. Như vậy
Trần Văn Bảo không đi sứ vào thời gian từ năm 1580 đến năm 1582.
Tháng 10 năm Giáp Thân 1584 nhà
Mạc cử Nguyễn Doãn Khâm, Nguyễn Vĩnh Thác (có sách chép là Nguyễn Vĩnh Kỳ),
Nguyễn Năng Nhuận, Đặng Hiển, Vũ Sư Thước và Nguyễn Phong (có sách chép là
Nguyễn Lễ hoặc Nguyễn Nồng) đi sứ nhà Minh để cống nạp theo thường lệ. Trần Văn
Bảo không có tên trong danh sách đi sứ lần này.
Năm Mậu Thân 1548 có Lê Quang
Bí đi sứ Trung Quốc mãi đến năm Bính Dần 1566 mới trở về nước. Nhà Mạc sai Lại
bộ Thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ Giáp Hải và Đông các hiệu thư Phạm Duy
Quyết lên Lạng Sơn đón ông. “Đại Việt
thông sử” chép về việc này như sau: "Quang Bí đi sứ sang nhà Minh lo việc cống hiến thường niên, từ năm Mậu
Thân, niên hiệu Gia Tĩnh thứ 27 (1548), ông đến Nam Ninh, bị nhà Minh ngờ là
quan giả mạo, bắt phải chờ để tra xét minh bạch đã, rồi mới cho dâng lễ phẩm.
Thế rồi họ gửi văn thư đi tra xét, nhưng chẳng có hồi âm, Quang Bí cứ phải lưu
tại sứ quán chờ mệnh lệnh, Phúc Nguyên thì vì lúc ấy trong nước nhiều nạn, bỏ
khiếm khuyết việc cống hiến đã mấy năm liền, nên cũng không giám tâu xin. Đến
năm Quý Hợi, niên hiệu Gia Tĩnh thứ 42(1563), quan quân Lưỡng Quảng nhà Minh
mới sai người đưa Quang Bí tới Bắc Kinh. Nhân dịp đó Phúc Nguyên cũng sai quan
hầu mệnh gửi cho Quang Bí 25 lạng bạc để thưởng lạo..." (Hết trích)
Theo “Đại Việt thông sử” viết trên đây thì từ năm 1550 đến năm 1566
rất ít khả năng nhà Mạc đi sứ Trung Quốc.
Như vậy có nhiều khả năng Trần
Văn Bảo đi sứ Trung Quốc vào khoảng thời gian từ 1567 đến 1578. Nhưng không có
tài liệu nào chép về việc đi sứ Trung Quốc của nhà Mạc trong khoảng thời gian
này nên chưa xác định được Trần Văn Bảo đi sứ vào năm nào.
5 - Trần Văn Bảo bỏ quan đi ở ẩn vào năm nào?
Về năm bỏ quan đi ở ẩn của Trần
Văn Bảo, các tài liệu viết về ông không thống nhất, có nhiều điểm mâu thuẫn với
lịch sử. Đa số các thư tịch cổ chép Trần Văn Bảo thọ 63 tuổi, hoặc chết năm 63
tuổi. Có sách lại chép ông đi sứ rồi không về. Có lẽ các tác giả không biết
rằng năm 63 tuổi Trần Văn Bảo bỏ quan đi ở ẩn nên đã cho là ông chết chăng? Năm
1586 cũng là năm Trần Văn Bảo 63 tuổi, do vậy việc bỏ quan về quê của ông có
nhiều khả năng là vào năm này.
Sách “Thành hoàng Việt Nam” chép Trần Văn Bảo về trí sĩ năm 1592,
nhưng lại viết "lúc đó Trạng nguyên đã ngoại tứ tuần" thì thật là vô
lý (vì Trần Văn Bảo sinh năm 1524).
Sách “Thờ thần ở Việt Nam” viết Trần Văn Bảo từ quan năm 1591 và cho
biết "năm đó Trạng nguyên 63 tuổi" cũng là không đúng. Nếu Trần Văn
Bảo từ quan năm ông 63 tuổi thì năm ông từ quan phải là năm 1586 mới đúng.
Sách “Đại Việt thông sử” của Lê Quý Đôn lần cuối cùng nhắc đến Trạng
nguyên Trần Văn Bảo vào tháng 11 năm Bính Tuất 1586, sau đó không thấy nói gì
về ông nữa. Trong số các quan chức của nhà Mạc ra hàng nhà Lê vào năm 1592 có
Lại bộ Thượng thư nhưng không phải là Trần Văn Bảo, mà là Đỗ Uông. Trong số
quan chức nhà Mạc ra hàng nhà Lê còn có một người mang tước là Nghĩa Quận công
nhưng không rõ tên là gì. Vậy Nghĩa Quận công này có phải là Trần Văn Bảo hay
không?
Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú có chép về
Trần Văn Bảo, cho biết ông làm quan "trải thăng đến tước hầu, năm 63 tuổi
chết". Sách “Đại Việt thông sử”
của Lê Quý Đôn cũng chép vào thời điểm năm 1581 cho biết tước của Trần Văn Bảo
là "Nghĩa Sơn bá", đến năm 1586 lại chép là "Nghĩa Sơn
hầu". Điều này cũng khẳng định sinh thời Trần Văn Bảo làm quan trải thăng
tới tước hầu. Còn tước Nghĩa Quận công là ông được tặng sau khi mất. Do đó
Nghĩa Quận công ra hàng nhà Lê năm 1592 không phải là Trần Văn Bảo.
Từ những nhận xét trên chúng
tôi nghĩ rằng có nhiều khả năng Trạng nguyên Trần Văn Bảo bỏ quan đi ở ẩn vào
cuối năm 1586, sau khi ông xin tu sửa trường quốc học và định lễ nhạc để tỏ rõ
sự tôn thày trọng đạo mà không được Mạc Mậu Hợp đồng ý. Lúc đó tâm trạng chán
nản vì bất lực của ông đã tới đỉnh cao, tất yếu dẫn đến hành động bỏ quan đi ở
ẩn.
Bước đầu tìm hiểu về Trạng
nguyên Trần Văn Bảo với tham vọng góp phần dựng lại chân dung ông một cách xác
thực, nhưng lực bất tòng tâm, chắc chắn còn nhiều điều phải tìm hiểu kỹ. Mong
được bạn đọc lượng thứ và chỉ giáo…
*
TRẦN MỸ GIỐNG
Địa chỉ: Số 13/398, đường Trường
Chinh,
Phường Vị Xuyên, thành phố Nam Định.
Email: tranmygiong@yahoo.com.vn
Điện thoại: 0919811050
...................................................................................................................
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi qua email ngày 19.12.2015
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét