Phú về CHƯ TINH ĐẮC - HÃM TRÊN 12 CUNG - Tác giả: Khuyết Danh

Leave a Comment
(Nguồn ảnh: Internet)
Phú về CHƯ TINH
ĐẮC (HỢP), HÃM (PHÁ) TRÊN 12 CUNG
                                                 ---***---

1. THẬP NHI CUNG CHƯ TINH
ĐẮC ĐỊA HỢP CÁCH QUYẾT
Mệnh tại Tý cung
Tý cung Tham Lang Sát Âm tinh
Cơ Lương tương củng phúc phi khinh
Canh Tân Ất Quí sinh nhân mỹ
Nhất sinh phú quí túc phong vinh
Nghĩa là: Khi mệnh đóng cung Tý có Tham Lang, Thất Sát, Thái Âm thủ mệnh Cơ Lương củng chiếu, rất tốt đối với người tuổi Canh Tân Ất Quí, suốt đời phú quí hạnh phúc.
Mệnh tại Sửu cung
Sửu cung lập mệnh Nhật Nguyệt triều
Bính Tuất sinh nhân phúc lộc nghiêu
Chinh tọa bình thường trung cục luận
Đối chiếu phú quí họa giai tiêu
Nghĩa là: Khi mệnh đóng cung Sửu, có Nhật Nguyệt chiếu thì người tuổi Bính Tuất cực hay, nhưng nếu Nhật Nguyệt ở ngay cung Sửu chỉ là trung cách vì tính chất của Thái Âm, Thái Dương là chiếu chứ chính tọa lại kém đi.
Mệnh tại Dần cung
Dần cung Cự Nhật túc phong long
Thất Sát Thiên Lương bách sự thông
Thân Tị Canh nhân giai vi cát
Nam tử vi quan nữ thụ phong.
Nghĩa là: Khi Mệnh đóng ở Dần, có Cự Môn, Thái Dương thủ hay Thất Sát, Thiên Lương việc gì cũng thông lọt trôi chảy hợp với người tuổi Thân, Tị và Canh. Con trai làm lớn, con gái được phong tặng.
Mệnh tại Mão cung
Mão cung Cơ Cự, Vũ Khúc phùng
Tân Ất sinh nhân khúc phi long
Nam tử đương vi mi lẫm lộc
Nữ nhân hưởng phúc thụ bao phong.
Nghĩa là: Khi Mệnh đóng ở cung Mão có Cự Cơ hoặc Vũ Khúc thủ rất hợp cho người tuổi Tân, Ất đàn ông nhiều phúc lộc, đàn bà giàu sang.
Mệnh tại Thìn cung
Thìn vi Cơ Lương tọa Mệnh cung
Thiên Phủ Tuất Địa tối doanh phong
Yêu kim y tử chân vinh hiển
Phú hoa, qui huy trực đào chung.
Nghĩa là: Khi Mệnh đóng ở cung Thìn, có Cơ Lương tọa thủ sẽ được thắt đai vàng mặc áo gấm đỏ hiển vinh phú quí lâu bền.
Mệnh tại Tị cung
Tị vị Thiên Cơ, Thiên Tướng lâm
Tử Phủ triều viên phúc cảnh thâm
Mậu Tân Nhâm Bính giai vi quí
Nhất sinh thuận tọai thiểu tai xâm.
Nghĩa là: Khi Mệnh đóng ở cung Tị, có Thiên Cơ Thiên Tướng thủ, hoặc Tử Vi đóng đấy, Thiên Phủ ở Hợi chiếu lên, rất hợp cho người tuổi Mậu Tân, Nhâm Bính, tốt phúc dễ toại ý và ít tai họa.
Mệnh tại Ngọ cung
Ngọ cung Tử Vi Thái Dương đồng
Thiên Cơ, Phá Sát Hỉ tương phùng
Giáp Đinh Kỷ Quí nhàn sinh phúc
Nhất thế phong quang bổng lộc phong.
Nghĩa là: Khi Mệnh đóng cung Ngọ, có Tử Vi hoặc Thái Dương hay Thất Sát hoặc Phá Quân tọa thủ mà lại là người tuổi Giáp Đinh Kỷ Quí tất làm lớn, phong quang bổng lộc.
Mệnh tại Mùi cung
Mùi cung Tử Vũ Liêm Trinh đồng
Nhật Nguyệt Cự Môn Hỉ tương phùng
Nữ nhân tri thử vi phúc thọ.
Nam tử phùng chi vị tam công
Nghĩa là: Khi Mệnh đóng cung Mùi có Tử Vi, Vũ Khúc, Liêm Trinh tọa thủ hay Nhật Nguyệt Cự Môn khá hay, số đàn bà phúc thọ, số đàn ông vi đến tam công.
Mệnh tại Thân cung
Thân cung Tử đế Trinh Lương đồng
Vũ Khúc, Cự Môn hỉ tương phùng
Giáp Canh Quí nhân như đắc hỉ
Nhất sinh phú quí sinh anh hùng.
Nghĩa là: Khi Mệnh đóng Thân cung có Tử Vi, Liêm Trinh, Thiên Lương, Vũ Khúc, Cự Môn tọa thủ rất hợp với người tuổi Giáp Canh Quí được phú quý thỏa chí anh hùng.
Mệnh tại Dậu cung
Dậu cung tối hỉ Thái Âm phùng
Cự Nhật hựu phùng đương diện xung
Tân Ất sinh nhàn vi quí cách
Nhất sinh phúc lộc vĩnh hanh thông
Nghĩa là: Khi Mệnh đóng cung Dậu có Thái Âm tọa thủ cực tốt, cũng Mệnh ở Mão, Thái Dương Cự Môn được Thái Âm ở Tý chiếu lên là quí cách cho người tuổi Ất Tân.
Mệnh tại Tuất cung
Tuất cung Tử Vi đối xung Thìn
Phú nhi bất quí hữu hư danh
Cánh gia cát diệu đa quyền lộc
Chỉ lợi khai trương mậu dịch nhân.
Nghĩa là: Khi Mệnh đóng cung Tuất, Thiên Phủ tọa thủ thì chỉ có hư danh thôi rất giàu mà không sang, nếu được các sao tốt chỉ lợi cho người buôn bán thương nhân.
Mệnh tại Hợi cung
Hợi cung tối hỉ Thái Âm phùng
Nhược nhân tri thử phúc lộc long
Nam nữ phùng chi giai xứng ý
Phú quí vinh hoa trực đáo chung.
Nghĩa là: Khi Mệnh đóng cung Hợi có Thái Âm tọa thủ tuyệt hảo, đàn ông đàn bà phú quý vinh hoa.
*
2. THẬP NHỊ CUNG CHƯ TINH
ĐẮC ĐỊA PHÚ QUÝ LUẬN
Tí cung đắc địa Thái Âm tinh
Sát Phá Xương Tham Văn Khúc minh
Ở cung Tí, Thái Âm đắc địa bậc nhất nên gọi là Nguyệt minh Thượng Hải (Trăng ngời biển xanh) hoặc cũng gọi là Minh châu xuất hải (ngọc trân châu ra khỏi biển). Các sao Thất Sát, Phá Quân, Văn Xương, Văn Khúc, Tham Lang đều sáng đẹp.
Sửu Mùi Tử Phá triều Nhật Nguyệt
Mùi Trinh, Lương Sửu, phúc phi khinh
Tử Vi, Phá Quân ở Sửu, Nhật Nguyệt từ Mùi đối chiếu. Hoặc Tử Phá ở Mùi, Nhật Nguyệt từ Sửu chiếu. Cả hai trường hợp đều tốt. Sao Liêm Trinh ở Mùi, sao Thiên Lương ở Sửu, phúc không nhỏ, giàu sang trọng hậu.
Dần cung tối hỷ phùng Dương Cự,
Thất Sát, Thiên Đồng, Lương, Văn thanh
Ở cung Dần, có Thái Dương Cự Môn gặp nhau là rất tốt. Các sao Thất Sát, Thiên Đồng, Thiên Lương, Văn Xương, Văn Khúc đều sáng sủa, trong trẻo.
Mão thượng Cự Cơ vi quý cách.
Vũ Khúc thủ Mão phúc phong doanh
Ở cung Mão có Cự Môn – Thiên Cơ là cách sang quý. Vũ Khúc ở Mão, phúc lộc dồi dào.
Thìn Tuất Cơ Lương phi tiểu bổ,
Tuất cung Thiên Phủ luỹ thiên kim
Ở cung Thìn hay cung Tuất có Thiên Cơ - Thiên Lương, phúc lộc không nhỏ (Cơ - Lương ở Thìn tốt hơn ở Tuất). Ở cung Tuất có Thiên Phủ là số giàu tích luỹ ngàn vàng.
Tỵ Hợi, Thiên Cơ, Thiên Tướng quý,
Ngọ cung Tử, Phủ, Lương cầu vinh.
Ở 2 cung Tỵ Hợi, Thiên Cơ, Thiên Tướng đều quý. Ở cung Ngọ, Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Lương đều vinh hiển.
Thân cung Trinh, Cự, Âm, Sát mỹ,
Dậu, Tuất, Hợi thượng Thái Âm đình.
Cung Thân có Liêm Trinh miếu địa gọi là Hùng tú triều nguyên cách (sao hào hùng chầu về nguồn). Cự Môn, Thái Âm, Thất Sát đều tốt. Dậu, Tuất, Hợi là 3 cung chịu ảnh hưởng tốt của Thái Âm.
Mão, Thìn, Tỵ Ngọ Dương chính chiếu,
Tử, Phủ, Cự Tú Tỵ Hợi hưng.
Ở các cung Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, ánh Dương chói lọi, sáng đẹp. Tử Vi, Thiên Phủ, Cự Môn ở Tỵ Hợi có đều có thế hưng thịnh.
Hợi cung Thiên Phủ, Thiên Lương cát,
Tí cung Cơ Tú diệc trung bình.
Ở cung Hợi, Thiên Phủ, Thiên Lương tốt. Thiên Cơ ở Tí cũng được mức trung bình.
Chúng tôi xét Thiên Lương ở Hợi là hãm địa; chỉ tốt cho 6 tuổi Nhâm mà thôi (Nhâm Tí , Nhâm Dần, Nhâm Thìn, Nhâm Ngọ, Nhâm Thân, Nhâm Tuất). Sáu tuổi Nhâm lập mạng ở Hợi, Mão, Mùi, có Thiên Lương toạ thủ thì phú quý song toàn. Thiên Cơ ở Tí là miếu địa, rất tốt cho các Giáp Canh Đinh Kỷ, Quý Nhâm. Các tuổi này đều hưởng tài quan cách.
Thất Sát Tí Ngọ phùng Tả Hữu,
Văn Khúc gia chi, cách tối thanh.
Thất Sát ở Tí Ngọ gặp Tả Phụ, Hữu Bật, thêm Văn Khúc giúp sức thì hết sức sáng đẹp, trong sáng phú thịnh, uy danh vào bậc nhất.
Liêm toạ Thân cung phùng Phụ Bật,
Cánh kiêm hoá cát phúc vưu hưng.
Cung Thân có Liêm Trinh ở vị trí Hùng tú triều nguyên, thêm Tả Phụ, Hữu Bật và các sao tốt hội chiếu thì phúc càng hưng thịnh.
Vũ Khúc Tỵ Hợi phùng.
Lục Giáp suý biên đình
Ở 2 cung Tỵ Hợi có sao Vũ Khúc thủ mạng, 6 tuổi Giáp làm đến đại tướng, nguyên soái coi việc quân ở chốn biên thuỳ.
Tham Lang cư Mão Dậu
Ngộ Hoả tác công danh
Tham Lang ở Mão Dậu gặp được sao Hoả (Sao Linh cũng thế) thì quan chức đến bậc công khanh.
Thiên Cơ toạ Mão quý
Dần Nguyệt lục Đinh vinh
Thiên Cơ thủ mạng ở cung Mão là quý cách. Thái Âm ở Dần gọi là Nguyệt tàn Dần vị (mặt trăng tàn tạ ở vị trí cung Dần) nhưng lại tốt riêng cho 6 tuổi Đinh.
Cự Mão phùng Tả hữu
Lục ất lập biên đình
Ở Mão có Cự Môn thủ mạng, hội được Tả Phụ, Hữu Bật, 6 tuổi Ất lập được công nghiệp lớn ở biên cương.
Cự toạ Dần Thần vị.
Thiên hỷ Giáp, Canh sinh
Cự Môn ở cung Thân, cung Dần rất mừng cho các tuổi Giáp, tuổi Canh. Các tuổi khác.
Nhị cung phùng Thất Sát,
Tả Hữu hội Xương Tinh,
Thìn, Tuất ngộ tam tú.
Tất chư vị công khanh.
Ở Dần Thân có Thất Sát gặp Tả Phụ, Hữu Bật, thêm Văn Xương là Thất Sát triều đẩu, gia cát tinh (thêm sao tốt) ở hai cung Thìn Tuất, Thất Sát cũng nhập miếu, thêm Tả Phụ Hữu Bật là gia cát tinh như ở Dần Thân vậy. Hội đủ 3 sao ấy ở cung mạng thì có đường làm quan đến khanh tướng.
*
3. THẬP NHỊ CUNG CHƯ TINH
THẤT HÃM PHÁ CÁCH QUYẾT
An mệnh tại Tý Sửu
Tý Ngọ Thiên Cơ, Sửu Cự Linh
Thử tinh lạc hãm quả vi chân
Túng nhiên hoá cát cánh vi mỹ
Nhiệm tha phú quí bất thanh ninh.
Nghĩa là: Khi Mệnh đóng Tý cung có sao Thiên Cơ tọa thủ hoặc khi Mệnh đóng Sửu cung có sao Cự Môn, Linh Tinh tọa thủ. Đó là phá cách vi chính diệu lạc hãm dù cho có được cát diệu mà phú quí thì cũng chẳng bền.
An mệnh tại Dần
Dần thương Cơ Xương Khúc Nguyệt phùng.
Tuy nhiên cát củng bất phong long
Nam vi bạn bộc nữ sương tì
Nhược phi yểu chiết tất bần cùng.
Nghĩa là: Khi Mệnh đóng tại cung Dần mà có Thiên Cơ, Xương Khúc, Thái Âm tọa thủ, mặc dù có tam phương cát tinh củng chiếu vẫn không ra gì. Nam phận tôi tớ, nữ số giang hồ nếu không chết sớm cũng nghèo hèn.
An mệnh tại Mão Thìn
Mão thượng Thái Âm Kình Dương phùng
Thìn cung Cự tú Tử Vi đồng
Túng nhiên hoá cát phi toàn mỹ
Nhược phi gia sát đáo đầu hung.
Nghĩa là: Khi Mệnh đóng cung Mão gặp chính diệu Thái Âm Mệnh đóng cung Thìn gặp chính diệu Tử Vi hay Cự Môn là cách bất toàn mỹ, không có sát tinh thì rút cuộc vẫn hung.
An mệnh tại Tị
Tị cung Vũ Nguyệt Thiên Lương Cự
Tham tú Liêm Trinh cộng đáo sà
Tam phương cát diệu giai bất quí
Hạ tiện bần cùng độ tuế hoa.
Nghĩa là: Khi Mệnh đóng cung Tị có Vũ Khúc, Thái Âm, Thiên Lương, Cự Môn, Tham Lang, Liêm Trinh tọa thủ thì có gặp cát diệu chiếu cũng vẫn là vô ích, cuộc đời hạ tiền bần cùng.
An mệnh tại Ngọ
Ngọ cung Tham Cự Nguyệt Xương tòng
Dương Nhẫn tam hợp tối hiềm xung
Tuy nhiên hoá cát cư sĩ lộ
Hoạnh phá hoạnh thành đáo lão cùng.
Nghĩa là: Khi Mệnh đóng cung Ngọ có Tham Lang, Cự Môn cùng Thái Âm, Văn Xương và thêm Kình Dương xung chiếu. Nếu hoá cát mà bước được vào đường sĩ hoạn tất hoạnh thành hoạnh phá khó lâu bền.
An mệnh tại Mùi
Mùi cung Cự Tú Thái Dương Hiềm
Túng thiếu tai nguy hữu khắc thương
Lao bác bôn ba quan sự chí
Tùy duyên hạ tiện độ thời quang.
Nghĩa là: Khi Mệnh đóng cung Mùi có Cự Môn, Thái Dương tọa thủ rất xấu, nếu không gặp tai nguy thì cũng khắc thương, vất vả bôn ba chìm nổi suốt một đời, luôn luôn rắc rối với quan tụng.
An mệnh tại Thân Dậu
Thân cung Cơ Cự vi phá cách
Nam nhân lãng đãng nữ nhàn bần
Nhị cung nhược nhiên Đào Hoa kiến
Nam nữ phùng chi tổng bất vinh
Nghĩa là: Khi Mệnh đóng cung Thân có Cự Cơ tọa thủ là phá cách, trai phiêu bạt gái bần cùng, nếu gặp Đào Hoa càng xấu.
An mệnh tại Tuất
Tuất thương Tử Phá nhược tương phùng
Thiên Đồng Thái Dương giai chủ hung
Nhược hoàn cô hàn cánh yểu chiết
Tuy duyên cần khổ miễn bần cùng.
Nghĩa là: Khi Mệnh đóng cung Tuất có Tử Vi, Phá Quân, Thiên Đồng, Thái Dương tọa thủ đều chủ hung, nếu không cô hàn yểu chiết thì cũng nghèo khổ, bần cùng.
An mệnh tại Hợi
Hợi cung Tham, Hỏa, Thiên Lương đồng
Phiêu lãng đãng tử tẩu tây đông
Nhược hoàn phú qui dã niên súc
Bất nhiên lệ bộc dữ bần cùng.
Nghĩa là: Khi Mệnh đóng Hợi cung, có Tham Lang, Hỏa Tinh, Thiên Lương tọa thủ tất phiêu lãng giang hồ, nếu được phú quí thì chết yểu, chỉ sống lâu với cảnh bần cùng.
Đoạn văn trên đây cho thấy sự quan trọng của cung Mệnh, nếu chính diệu của Mệnh cung đã thất hãm là cuộc đời khó toàn mỹ.
*
4. THẬP NHỊ CUNG CHƯ TINH
THẤT HÃM BẦN TIỆN LUẬN
- Sửu Mùi Cự Cơ vi triệt phúc,
- Thất hãm thử nguyệt phúc tu khinh;
Ở 2 cung Sửu Mùi, Cự Cơ làm hãm địa. Lập mạng có 2 sao này thì phúc bạc. (Thiên Cơ lạc hãm, còn Cự Môn thì nhẹ hơn chút đỉnh, ở Sửu Cự Môn bất đắc địa, ở Mùi Cự Môn bình hoà).
- Mão Dậu bất hỷ phùng Dương Nhận,
- Thìn Tuất, Tử Phá triều la võng.
- Thìn hưu, Tuất tù, Tham Trinh hãm,
- Ngọ cung Âm Cự bất kham xưng!
Dương Nhận là Kình Dương (Nhận là mũi dao, mũi gươm nhọn). Dương Nhận ở Mão Dậu thì mạng hay bị thương tật. Ở Thìn Tuất mà có Tử Vi,Phá Quân trong vị thế đối chiếu nhau, cả 2 đều xa lưới, vướng mắc nhiều nối khó khăn.
Ở Thìn, Tham Lang, Liêm Trinh mất hết uy lực, ở Tuất thì coi như bị lao tù.
Ở cung Ngọ mà có Thái Âm, Cự Môn thì không có gì đáng ca ngợi.
Cự Môn ở Tí Ngọ, có cách gọi là Thạch trung ẩn ngọc (Ngọc chìm trong khối đá) nhưng cần hội được Khoa Quyền Lộc thì mới hưởng phúc trọng hậu. Còn như Cự Môn đơn độc thì chỉ tốt cho 4 tuổi Đinh, Kỷ, Quý, Tân chứ 2 tuổi Bính, Mậu thì nguy khốn.
- Thân cung hợp Vũ vi hạ cuộc,
- Dậu phùng Cơ Cự Nhật vô tinh
- Mão, Thìn, Tỵ Ngọ phùng Âm tú,
- Tuất Hợi, phùng Dương diệc bất vinh.
Ở cung Thân có Vũ Khúc, tuy Vũ Khúc đắc địa, vẫn là hạ cách. Cung Dậu có Thiên Cơ, Cự Môn, Thái Dương đều yếu kém, các sao này mất năng lực, tác dụng của mình.
Ở các cung Mão Thìn, Tỵ Ngọ mà gặp phải Thái Âm cũng như ở Tỵ Hợi mà gặp Thái Dương thì làm sao vinh quý được?
- Tham Sát Tỵ Hợi cư hãm địa,
- Phá Quân Mão Dậu bất vi thanh,
- Gia Sát ngộ Kiếp vi gian đạo
- Thử thị hình là bất tất luân...
Ở 2 cung Tỵ Hợi, Thất Sát Tham Lang đều lạc hãm. Ở 2 cung Mão Dậu, Phá Quân như nước bị vẩn đục, không trong trẻo. Nếu thêm Sát Tinh, lại gặp Không Kiếp thì đó là số gian tà trộm cướp, bị ngục tù, không cần bàn luận làm chi...
- Tham Lang, Hoá Lộc cư Tứ Mộ
- Túng nhiên ngộ cát diệc trung bình.
Tham Lang, Hoá Lộc ở 4 cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi (Tứ Mộ) dẫu được thêm cát tinh củng chiếu thì may mắn lắm là ở mức trung bình. Còn như không có cát tinh thì cố nhiên là xấu, tuy có Hoá Lộc mà thực ra là Lộc vô dụng.
- Mạng triều nhược địa lưu phùng Kỵ
- Không Kiếp, Kình Dương gia Hoả, Linh
- Nhược phi yểu chiết chủ hạ tiện
- Lục súc chi mạng bất khả bình!
Lập mạng ở nhược địa, bại đạo thì rất không nên gặp Hoá Kỵ, Thiên Không, Địa Kiếp, Kình Dương, Hoả Tinh, Linh Tinh.
Nếu không chết yểu thì cũng khốn khổ nghèo hèn. Đó là mạng lục súc, không cách gì nâng lên mức trung bình được.
- Vượng địa phát phúc chung viễn đại
- Hãm địa tranh vanh đáo để khuynh
- Nhị luận bất qua ngũ bách tự
- Phú quý, bần tiện biệt đắc minh
Mạng ở vượng địa mà phát phúc thì phúc lộc lâu dài về sau. Mạng ở hãm địa, tuy trước mắt có vẻ vinh hiển, phú quý bậc cao chót vót nhưng cuối cùng rồi thế nào cũng sụp đổ tiêu tan.
*
5. THÁI VI PHÚ CHÚ GIẢI
- Lộc phùng xung phá, cát xứ tàng hung.
- Mã ngộ Không Vong, chung thân bôn tẩu.
Thân mạng có Lộc Tồn toạ thủ, hoặc tam phương có Lộc Tồn mà bị Kỵ xung phá thì trong cái tốt có ẩn cái xấu. Có khi cái tốt lại biến làm cái xấu. Kỵ là Hoá Kỵ, Đà La ho á khí cũng thành Kỵ. Xung phá là phá thẳng vào cung đối diện.
Thiên Mã gặp Tuần Triệt thì phải bôn tẩu vất vả, ví dụ như người tuổi Giáp an mạng ở Thân có Thiên Mã, gặp Triệt Lộ Không Vong ở Thân Dậu (phân tích ra thì Chính Không ở Thân, Bàng Không ở Dậu, cung Thân bị Triệt nặng hơn), suốt đời phải bôn tẩu vất vả.
- Sinh phùng bại địa, phát dã hư hoa.
Như mạng Thổ, mạng Thuỷ mà an mạng ở cung Tỵ, đó là tuyệt điạ, dầu có gặp vậ n phát cũng chỉ có thanh thế bên ngoài chứ thực chất tài lộc không có bao nhiêu cả.
- Tinh lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ,
- Mạng toạ cường cung, tế sát chế hoá chi lý.
Thấy các sao ở vượng địa, miếu địa cũng nên xem sự tương sinh, tương khắc với bổn mạng của mình. Cung mạng tuy mạnh vẫn cần phải xét sự khắc chế của các sao.
- Nhật Nguyệt tối hiềm, phản bối.
Như Nhật ở Dậu, Tuất, Hợi, Tí . Nguyệt ở Mão Thìn Tỵ Ngọ. Đó là vị trí phản bối (nghịch thế). Nguyệt ở thượng huyền thì còn khả thủ, ở hạ huyền thì xấu hẳn. Mồng 8 là thượng huyền, 23 là hạ huyền, Nếu Nhật Nguyệt đồng cung thì xem giờ sinh. Sinh ban ngày hợp với Thái Dương, sinh ban đêm hợp với Thái Âm.
- Lộc Mã tổi hỷ giao trì.
Như Giáp thì Lộc Tồn ở cung Dần. Các tuổi Giáp Tí , Giáp Thân, Giáp Thìn có Lộc Mã đồng cung, gọi là Lộc Mã giao trì, làm việc gì cũng dễ thành công, hay gặp may mắn.
- Không Vong định yêu đắc dụng.
- Thiên Không tối vi khẩn yếu.
Mạng Kim mà gặp Thiên Không thì Kim Không tắc minh, loài kim gặp khoảng trống, tiếng ngân càng vang lừng thánh thót.
Mạng Hoả mà gặp Thiên Không thì Hoả Không tắc phát, lửa gặp khoảng trống càng cháy mạnh tưng bừng.
Còn mạng Mộc thì Mộc Không tắc chiết (cây rỗng thì gãy).
Mạng Thổ thì Thổ Không tắc hãm (đất trống thì sập đổ).
Mạng Thuỷ thì Thuỷ Không tắc phiếm (nước gặp khoảng trông thì chảy tràn lan, gây lụt lội tai hại).
3 thứ Mộc, Thổ, Thuỷ rất kỵ Thiên Không.
- Nhược phùng bại địa, chuyên khán phù trì chi diệu, đại hữu kỳ công.
Như mạng ở bại địa, tuyệt địa mà gặp Hoá Lộc Lộc Tồn củng chiếu, hội hợp phù trì thì lại được tốt.
- Tử Vi Thiên Phủ toàn y Phụ Bật chi công,
- Thất Sát, Phá Quân chuyên ỷ Dương Linh chi ngược.
Tử Vi, Thiên Phủ cần được Tả Phụ, Hữu Bật giúp đỡ thì mới có uy thế mạnh mẽ. Nhất là Tử Vi, nếu thiếu Phụ Bật thì làm một cô quân (ông vua bơ vơ) mà cô quân thì vô dụng!.
Thất Sát, Phá Quân được Kình Dương, Linh Tinh giúp sức thì thanh thế càng tăng, lú c phát, phát rất mạnh.
- Chư tinh cát phùng hung dã cát.
- Chư tinh hung phùng cát dã hung.
Thân mạng có nhiều sao tốt thì gặp sao dữ cũng vẫn tốt. Nếu thân mạng hội nhiều sao xấu thì gặp một ít sao tốt cũng vẫn xấu như thường.
- Phụ Bật giáp Đế vi thượng phẩm.
- Đào Hoa phạm chủ vi chí dâm.
Tử Vi là Đế Tinh (sao vua) cần có Phụ Bật.
Đào Hoa đây là Tham Lang. Tham Lang thủ mạng, hoặc Tử Tham thủ mạng thì cũng là dâm dật. Nhưng nếu Tử Vi gặp Phụ Bật thì Đế lực mạnh, chế ngự được Tham Lang, như vậy không coi là dâm dật, dâm bôn nữa.
Quân thần khánh hội, tài thiện kinh bang.
Như Tử Vi thủ mạng có Thiên Tướng, Xương Khúc; Thiên Phủ thì được Thiên Đồng, Thiên Lương tương trợ. Tử Phủ đều có thực lực, đắc thế. Đó là hội vua thánh tôi hiền, đủ sức gánh vác nhiệm vụ lớn của quốc gia, dân tộc. Rất giàu sang.
Nhưng cũng cách này mà có Hình, Kỵ đồng độ với Tử Vi thì đó là bọn loạn thần, tặc tử gây rối loạn. Mạng tuy vinh quí mà lại bất thiện chung (chết dữ), như mạng An Lộc Sơn có Hoá Kỵ ở cung Quan Lộc. Tử Vi thủ mạng ở Tuất, quan to đến kiêm tiết độ sứ 2, 3phiên trấn, năm 755 nổi loạn ở Ngư Dương, sau An Lộc Sơn bị con là An Khánh Tự giết.
Chúng tôi xét số An Lộc Sơn như sau:
Tử Vi cư Tuất, Phá Quân, Thìn.
Hoá Kỵ cư Dần, Tướng Lộc Sinh.
Tất cánh Lộc Sơn vi phản loạn.
Niên tam thập cửu tứ phương bình!
Phá Quân xung chiếu cung mạng, Quan Lộc có Hoá Lộc (Thiên Lộc), Tướng Quân, Trường Sinh, Phá Quân, Hoá Kỵ đem nguy hại cho Tử Vi từ căn bản nên khi gặp hạ n xấu thì thiêu vong một cách vô cùng bi đát.
- Khôi Việt đồng hành, vi cư thai phụ.
- Lộc Văn củng mạng, quý nhi thả phú.
Như mạng Thân có Khôi Việt lại được Lộc, Xương Khúc (Xương Khúc là Văn Tinh) củng chiếu thì không lẽ không phú quý. Khôi Việt đã là Thiên Ất quý nhân cách rồi...
Nếu bị Hình, Kỵ ( Hình là Thiên Hình hoặc Kình Dương, Kỵ là Hoá Kỵ hoặc Đà La) xung phá thì nên làm tăng đạo.
- Nhật Nguyệt giáp Mệnh, giáp Tài cát diệu, bất Quyền tắc phú.
Nhưng nếu gặp Kình Dương, Đà La xung thủ thì khôngphải. Nhật Nguyệt giáp Mệnh hay Tài Bạch có cát diệu củng chiếu thì không là người quyền quý cao sang cũng là người giàu có phong lưu.
- Mã đầu đới kiếm, trấn ngự biên cương.
Kình Dương ở Ngọ, thêm Thiên Đồng, Tham Lang, các tuổi Bính, Mậu hợp cách phú quý. Tuy Kình Dương ở mạng vẫn cứ giàu sang, có điều không bền mà thôi.
- Hình Tù giáp Ấn, hình tượng duy tư.
Thiên Tướng ở mạng mà giáp Liêm Trinh (Tù Tinh) Hình (Kình Dương) thì bị tù tội. Muốn tránh tù tội, chỉ có cách đi tu, làm tăng nhân, đạo sĩ
- Thiện Ấm triều cương, nhân từ chi trưởng.
Thiên Cơ là Thiên Tinh, Thiên Lương là Ấm tinh. Hai sao này đồng cung ở Thìn, Tuất, thêm sao tốt thì giàu sang. Nếu bị Hình Kỵ xung phá thì nên đi tu; làm thầy cũng có sự hiệu vẻ vang, không đến nỗi sa vào số phận vô danh tiểu tốt.
- Quý nhập quý hương, phùng giả hoạch lộc.
- Tài cư tài vị, ngộ giả phú xa.
Giả như Tử Vi, Thiên Phủ hoặc Khôi Việt thủ mạng ở vị trí tốt, thêm Khoa Quyền Lộc hội chiếu thì giàu sang. Thiên Phủ, Vũ Khúc, Lộc Tồn đều là tài tinh, ở cung Tài Bạch thì là số giàu mà hà o hoa phong nhã, dám ăn tiêu (xa xỉ nữa là khác..) không đến nỗi làm khán tài nô (mọi giữ của). Đại, tiểu hạn gặp cách này thì đại phát.
- Thái Dương cư Ngọ, vị chi Nhật lệ trung thiên.
- Hữu chuyên quyền chi vị, địch quốc chi phú.
Thái Dương ở Ngọ gọi là Nhật lệ trung thiên (mặt trời sáng rực giữa không gian) hoặc Kim xán quang huy (ánh vàng chói lọi). Tuổi Canh, tuổi Tân được phú quý toàn mỹ . Quan chức rất lớn, được uỷ nhiệm việc lớn. Tài sản thì giàu bằng nhà nước.
Nữ mạng được cách này thì làm quý phu nhân, có sắc phong tặng.
- Thái Âm cư Tý hiệu viết Thuỷ trừng quế ngạc.
- Hữu thanh yếu chi chức, trung gián chi tài.
Thái Âm ở Tý là vị trí cực tốt, gọi là Thuỷ trừng quế ngạc (nước tẩm cành quế) công danh làm đến những chức vị trọng yếu, tâm tính ngay thẳng, có tài làm Ngự sử đại phu, nắm quyền giám sát.
Tuổi Bính, Đinh sinh ban đêm rất hợp cách này.
- Tử Vi Phụ Bật đồng cung, nhất hô bách nặc,
Tử Vi mà có Tả Phụ Hữu ở các vị trí đối chiếu, hợp chiếu lân phương, nhị hợp cũng đã quý rồi, huống chi Đế, Tả Hữu đồng cung thì uy lực, quyền thế rất lớn, mọt tiếng hô, trăm tiếng dạ, phú quý toàn mỹ là phải.
- Văn Hao cư ư Dần Mão, chúng thuỷ triều đông.
Xương Khúc là Văn Tinh, Phá Quân là Hao tinh (Phá thì phải Hao) ở vị trí Dần Mão, bị Hình Kỵ xung phá thì gọi là chúng thuỷ triều đông (các giòng nước chảy về phương đông). Suốt đời hay gặp những việc làm cho mình kinh sợ.
Vận hạn gặp cách này, nếu gặp thêm sao tốt thì được bình thường, thêm sao xấu thì có việc hung nguy, lo sợ. Đường làm ăn lận đận, phí sức khổ tâm.
Chúng tôi thấy các sách Tử Vi Việt Ngữ đều in câu này, nội dung khác hẳn.
- Song Hao cư ư Dần Mão, chúng thuỷ triều đông.
Song Hao là Đại Hao, Tiểu Hao, nếu ở Dần Mão thì là tượng chúng thuỷ triều đông, tiền bạc dồi dào, hết rồi lại có, luân lưu bất tận như các giòng nước chảy về phương đông vậy.
Chúng thuỷ triều đông trong văn chương cổ điển Hán Việt chỉ về cách thức hao phá hình tượng suy vi, không phải là ý phát thịnh, ví dụ như bài từ khởi đoạn Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa có câu:
Cổn cổn trường giang mộ thuỷ đông,
Lãng hoa đào tận anh hùng
Dịch:
Cuồn cuộn sông dài nước chảy xuôi.
Anh hùng cát dập sóng vùi.
Cô Lâu Mộng của Ngạc Am Võ Liêm Sơn có bài từ:
Ôi Thánh Hiền, ôi Tiên Phật.
Ôi hào kiệt, ôi anh hùng.
Ngàn năm sự nghiệp nước về đông...
Trong từ ngữ chúng thuỷ triều đông vẫn có ý luân lưu, nhưng nặng về hình ảnh tiêu trầm chứ không gợi lên nhiều ý thức phú túc như người ta vẫn tưởng.
Các sách Tử Vi Việt Ngữ còn chép:
Song Hao Mão Dậu, chúng thuỷ triều đông.
Chép như vậy và giảng rằng Tiểu Hao, Đại Hao ở hai cung Mão Dậu thì tiền bạc dồi dào, tiêu hoài không hết.
Chúng tôi nghĩ rằng dẫu sao cũng có sự hao phá tiền tài.
- Nhật Nguyệt thủ bất như chiếu hợp,
- Ấm Phúc tụ bất pha hung nguy.
Nhật Nguyệt tọa thủ ở thân mạng không tốt bằng cách trực chiếu (trung chiếu đối chiếu) hợp chiếu (tam hợp, hợp chiếu).
Thân mạng có Ấm tinh (Thiên Lương) Phúc tinh (Thiên đồng) thì dẫu gặp Hình Kỵ cũng không sợ tai biến.
- Tham cư Hợi Tý, danh vị phiếm thuỷ Đào Hoa.
Tham Lang ở 2 cung Hợi Tý (thuộc Thuỷ) thủ thân, mạng thì gọi là phiếm thuỷ Đào Hoa (Hoa đào trôi theo giòng nước). Hưởng thụ ân tình rất nhiều nhưng cuộc đời trôi nổ i, phiêu bạt, thế nào cũng gặp cảnh khổ sở, trầm luân.
Nếu hội được thêm sao tốt thì đoán là số đào hoa sung sướng. Nếu hội sao xấu thì nhất định là cách tà dâm.
- Hình ngộ Tham Lang, hiệu việt phong lưu thái trượng.
Thiên Hình gặp Tham Lang ở cung Dần, mạng có cách này thì rất thông minh, hưởng thú phong lưu hoa nguyệt.
(Thái trượng là cây gậy có mầu sắc tươi đẹp, rực rỡ).
Có người giảng phong lưu thái trượng là nhân việc hưởng thú phong lưu mà gây nên tội án, bị đánh bằng hèo (Trượng là hình phạt đánh bằng hèo, nặng hơn xuy đánh bằng roi). Nếu bị hình phạt thì đời nào lại dùng thái trượng, cây hèo có màu sắc rực rỡ, sáng đẹp?
- Thất Sát, Liêm Trinh đồng vị, lộ thượng mai thi.
- Phá Quân, Ám Diệu đồng hương, thuỷ trung tác trủng.
Mạng, thân có Liêm Trinh – Thất Sát thì chết đường, chôn thây ở bên đường. Mạng, thân có Phá Quân - Cự Môn thì chết chìm dưới nước. Ám Diệu (sao đen tối) là Cự Môn.
Nếu gia thêm Hoá Kỵ, Hao Sát thì lại càng chắc chắn có tai nạn táng mạng vong thân. ở cung Thiên Di, cũng luận y vậy.
- Lộc cư nô Bộc, túng hữu quan dã bôn trì.
- Đế ngộ hung đồ tuy hoạch cát nhi vô đạo.
Thân mạng bình thường, Hoá Lộc hay Lộc Tồn (hoặc cả hai) sa vào cung Nô Bộc, mình cũng được làm quan hưởng lộc, chỉ có điều phải bôn tẩu, khó nhọc, mà thôi.
Thân, Mạng có Tử Vi, thêm Quyền Lộc Hình Kỵ đồng cung thì cũng tốt, có chức tước, quyền vị, bổng lộc, nhưng tâm địa thì bất chính, ưa làm những việc thất đức, bất nhân (vô đạo).
- Đế toạ mạng khổ, tắc viết kim du phù ngự liễn.
- Lâm Quan đồng Văn Diệu, hiệu vi ý cẩm nhạ thiên hương.
Thân, mạng có Tử Vi, tam phương, tiền hậu có sao tốt đến ứng hợp thì coi như xe vàng theo phò xe vua. Phú quý vậy.
Xương Khúc là Văn Diệu (sao Văn) gặp Lâm Quan thì dễ có quan chức lớn, bận áo gấm đượm hương trời.
- Thái Dương hội Văn Xương ư Quan Lộc, hoàng điện thủ bạn chi quý,
- Thái Âm đồng Văn Khúc ư thê cung, thiềm cung chiết quế, văn chương linh thạnh.
Thaí Dương gặp Văn Xương ở cung Quan Lộc, phát quan rất lớn. Nếu thêm Cát Diệu, chắc làm đến tể tướng.
Thái Âm gặp Văn Khúc ở cung Phu Thê, thì đỗ cao, văn chương được xa gần khen ngợi.
Nếu là nữ mạng thì chắc có chồng làm quan lớn, mình được phong tặng, sắc phẩm quý phu nhân.
- Lộc Tồn thủ ư điền tài, tắc đôi kim tích ngọc.
Cung Điền Trạch hay Tài Bạch có Lộc Tồn toạ thủ thì tích luỹ được vàng ngọc, châu báu.
- Tài Ấm toạ ư Thiên Di, tất cư thương cao cổ.
Tài Tinh là Vũ Khúc, Ấm Tinh là Thiên Lương. Cung Thiên Di có Vũ Lương thì tất là nhà buôn lớn. Nếu thêm được Khoa, Quyền, Lộc (một sao cũng được) thì càng lừng lẫy hơn.
- Sát cư Tuyệt địa, yểu niên tuyệt tự Nhan Hồi
Dần Thân Tỵ Hợi là Tứ Sinh mà cũng là Tứ Tuyệt. Lập mạng ở 4 cung này, có Thất Sát toạ thủ, lại hội thêm Hình Kỵ thì chắc là chết yểu như Nhan Hồi (Nhan Hồi là họ c trò giỏi của Khổng Phu Tử được thầy khen là rất hiền).
- Hao cư Lộc vị, duyền đồ khất cái.
Hao là Phá Quân, Phá Quân ở cung Quan Lộc, thêm Hình Kỵ thì chắc phải đi ăn xin dọc đường.
Lại như:
Tuổi Dần, Ngọ, Tuất, lập mạng ở Ngọ.
Tuổi Tỵ, Dậu, Sửu, lập mạng ở Dậu.
Tuổi Hợi, Mão, Mùi lập mạng ở Mão.
Tuổi Thân, Tý, Thìn lập mạng ở Tý.
Đều là số ăn mày!
- Tham hội vượng cung, chung thân tử thiết.
Tham Lang hội Phá Quân ở mạng hay Quan Lộc, tánh nết tham lam, làm quan hay không đều có thói ăn cắp vặt như chuột gặm nhấm (Thử thiết: Ăn trộm vặt như chuột).
- Kỵ, Ám đồng cư mạng cung, tật ách; Khốn nhược nông luy.
Kỵ là Hoá Kỵ, Đà La cũng là Kỵ. Cự Môn là Ám. Kỵ Ám ở cung Mạng hay Tật Ách đều làm cho đương số đau ốm gầy mòn, quặt quẹo, ngóc đầu không lên.
- Quan Phủ giáp Hình Sát ư Thiên Di, ly hương tao phối
Quan Phù hay Quan Phủ, sao nào cũng chủ về kiện tụng, hình phạt. Thất Sát hay Kiếp Sát cũng đều là Sát. Thiên Hình hay Kình Dương đều là Hình. Những sao này hay các sao đồng loại mà hội về cung Thiên Di thì số đi đày, xa quê hương. Chữ Phối đây là đi đày. Phát Phối, phối quân là đi đày mà ghép vào hàng ngũ làm lính (hình phạt trong chế độ phong kiến). Không có nghĩa hôn phối, phối ngẫu là kết đôi bạn nên duyên vợ chồng như vài tác giả đã giảng giải.
(Theo PHỤ CHÚ trong cuốn TỬ VI GIẢNG MINH của  THIÊN PHÚC VŨ TIẾN PHÚC)


*.
ĐẶNG XUÂN XUYẾN giới thiệu
.

0 comments:

Đăng nhận xét