(Tác giả Lưu Xuân Thanh) |
VỀ THĂM NHÀ
(sau 30.04.1975)
- Tùy bút Lưu Xuân Thanh -
Như tất cả những người lính may mắn trở về
sau 30-04- 1975. Tôi và đồng đội háo hức hành quân bằng các phương tiện xe quân
sự, tầu lửa, tầu thủy để về quê thăm gia đình theo kế hoạch nghỉ phép của
cấp trên. Mất hơn một tuần mới về tới trạm đón tiếp của tỉnh đội Hà Bắc ở thị
xã Bắc Giang. Nghỉ tại đây hai ngày để làm các thủ tục giấy tờ như tem phiếu
gạo, thực phẩm, giấy đi đường, một tháng lương, tiền tầu xe về lại đơn vị
ở trong Nam . Khi
đi vào Nam ,
mất hơn ba tháng. Lúc về thời gian khoảng trên dưới 10 ngày mà tưởng dài cả
năm.
Không biết người khác tâm trạng thế nào. Còn
tôi nôn nao rất khó tả. Ngủ không ngon giấc, mộng mỵ lung tung. Đêm cuối cùng ở
bên bờ sông Thương. Anh chàng đại úy Vĩnh, lính Qk6 (Bình Thuận) đêm chia
tay về quê (dốc Sàn, Bắc Giang) đã cho cả nhà uống càfee hòa tan của Mỹ. Cả bác
chủ nhà đêm đó cũng thức trắng ngắm dòng sông Thương. Tôi đãi cả nhà hút thuốc
lá Cotaps, bác chủ nhà nói rất thật lòng “từ bé đến giờ, nay mới được hút
thuốc lá thơm ngon đến như thế”. Tôi nghĩ đêm nằm năm ở, nên đã biếu bác
chủ nhà nguyên một gói. Lòng tôi rộn ràng hình dung cảnh về nhà bố mẹ tôi sẽ
vui mừng ra sao, bà con xóm làng thế nào. Tôi lau lại khẩu súng ngắn k59 cả vỏ
bao da láng bóng, đẹp đẽ. Sáng ra tôi mặc quân phục chỉnh tề, đội mũ tai
bèo, thắt lưng to bản có bao súng ngắn k59 xem ra có vẻ oách lắm. Từ Bắc Giang
xuống ga Bắc Ninh. Tôi đi bộ ra phố Tiền An, nhiều ánh mắt nhìn thân thiện. Từ
thị xã về nhà tôi là 12km. Còn sớm chán, tôi ghé vào quán bún riêu bên hè phố
ăn một tô bún riêu cua với cọng rau muống chẻ nhỏ rất ngon. Đã hơn mười năm mới
lại được ăn, tôi nghĩ chẳng có gì ngon hơn. Khi tính tiền bác chủ quán nhất
định không lấy tiền. Đúng lúc đó anh chạy xe đạp thồ đến, anh ta nhanh nhẩu cảm
ơn bác bán bún thay tôi và bảo tôi lên xe. Nhìn anh ta mặc đồ bộ đội, đội mũ
cối, tay trái như cán rá hơi cong. Tôi ngần ngừ, anh ta nói: - Thủ trưởng về
đâu, em cũng là lính xuất ngũ năm 1974, vì cánh tay 35 % thương tật này
đây. Một quan , một lính vừa đi vừa nói đủ thứ chuyện. Đến phố Và, tôi
xuống xe vì thấy mồ hôi thấm qua chiếc áo lính bạc mầu của cậu ta. Tôi vừa đi
vừa hỏi cậu cậu ta những chuyện về quê hương. Là dân xe thổ nên cậu ấy biết
nhiều chuyện. Tôi hỏi: - Đã có vợ
chưa ? Cậu ta im lặng năm mười giây rồi giọng buồn buồn: - Em vào Nam sau tết Mậu
Thân. Cô ấy lấy chồng năm 1972. Thế còn thủ trưởng? Mải nghĩ chắc mình cũng như
thế nên không nghe hết câu nói sau của cậu ta, đành hỏi lại: - Cậu vừa nói gì?
Cậu ấy im lặng lảng sang chuyện khác. Đến bến phà Hồ chúng tôi ngồi nghỉ tại lô
cốt bê tông từ thời Pháp còn sót lại. Cậu ấy bảo đây là làng em - Làng Tân Chi.
Tôi nói với cậu ta: - Bên nam sông Đuống là quê nhà thơ Hoàng Cầm, bên này là
quê của nhạc sỹ Hồ Bắc , Huy Du, Nguyễn Đức Toàn…
Qua phà sang bên kia sông Đuống. Cậu ấy cúi
xuống lấy khăn lau sạch đôi giầy butloso cao cổ của tôi. Bắt tôi lên xe, đi
5km nũa là về nhà. Cả hai đều im lặng. Tôi quên mình đang đi xe đạp thồ cứ lơ
lửng như ở trên mây, hình dung đủ mọi thứ về giây phút sắp tới. Đến đầu làng
tôi xuống xe, hỏi tiền xe cậu ấy nói: - Cho em xin hai đồng. Tôi trả hai đồng
và nói biếu thày u cậu ấy hai đồng nữa là bốn đồng. - Em cảm ơn thủ trưởng. Cậu
ta nói vẻ xúc động. Khi cậu ta đã đạp xe, tôi vội hỏi: Trước đây cậu ở đơn vi
nào? Cậu ấy ngoái đầu lại: - Em ở Sư đoàn 7. Đến bây giờ tôi vẫn ân hận sao
không hỏi cậu ấy tên gì? Người thương binh đạp xe thồ là người duy nhất đón tôi
về quê sau ngày 30.4 .1975!
Qua cổng làng, tôi vừa đi vừa ngắm ngía xung
quanh. Đường làng lát gạch cong lên ở giữa vẫn như xưa. Cây si bên ao làng rễ
tỏa xuống chạm mặt nước. Chính chỗ này bên gốc si mười năm trước, chàng thiếu
úy đã vụng về khi cô bạn của em gái ôm hôn trong đêm trăng khuyết. Tai tôi nóng
bừng, miệng nuốt nước bọt, khi nhớ lại tiếng thì thầm của Ngọc: - Anh ôm chặt
quá, em đau. Suy nghĩ mông lung, tiếng chào cao vút: - Cháu chào chú bộ đội, cô
gái đã đưa tôi về thực tại. Tôi hỏi cô con nhà ai? Cô cười: - Cháu là con bố
Hải ạ.
Bước vào sân nhà, không một bóng người, cửa
nhà mở toang. Trống vắng! Vẫn chiếc phản gỗ lim thầy tôi ngồi hút thuốc, uống
chè. Nhìn kỹ nhà đã xây lại ba gian đẹp đẽ hơn lúc tôi về trước khi đi B. Tôi
đang để đồ đạc lên phản, bác gái chạy tới vừa khóc vừa nói: - Chú thím
ơi, thằng Tài nó về …Tôi ngắt lời bác: - Thày u cháu đâu? Bác gái tôi
khóc: - Ở ngoài đồng cả rồi! Tôi hỏi: - Thế thầy u cháu làm gì ngoài đó?.
Bác gái tôi: - Cha đẻ bố anh, mười năm biền biệt không tin tức. Bác trai, thày,
u, anh đều chết hết rồi!. Tôi bàng hoàng thét to: - Trời ơi! Rồi ngồi bệt xuống
nền nhà khóc nức nở. Tôi kéo áo ra khỏi quần, lấy vạt áo lau nước mắt. Bà
con họ hàng làng xóm đã đến chật nhà, đầy sân. Tất cả đều im lặng chỉ có tiếng
khóc của tôi. Một bàn tay nhăn nheo vuốt tóc tôi rồi nói nhỏ như gió thoảng: -
Thế thằng Thức nó không về cùng anh ư? Tôi đỡ thím đứng lên và đáp lời: - Có lẽ
nó về sau thím ạ. Thật ra tôi đã biết Lưu Xuân Thức hy sinh từ năm 1967. Tôi
gạt nước mắt, chào bà con. Vừa lúc đó em gái tôi từ cơ quan về dắt theo một cậu
bé. Em gái tôi khóc ngất và mọi người khóc theo. Ông Lưu Minh Hải, chú họ
tôi nói lớn: - Thằng Tài nó về là vui, khóc thế đủ rồi. Ông bảo tôi uống chè
tươi. Không biết ai đã đem cả nồi to chè tươi để ngoài sân nhà. Cậu bé em gái
tôi dẫn về chừng bảy tuổi nhìn tôi chằm chằm. Tôi hỏi: - Cháu là con ai? Cậu bé
im lặng. Em gái tôi nói: - Nó là con của bác sỹ Ngọc. Tôi lặng đi vài
giây rồi kéo cậu lại gần. Cậu ta vùng ra chạy đi chỗ khác …
Tôi ra ngoài đồng, đến nghĩa địa làng. Anh họ
tôi chỉ từng ngôi mộ, tôi đốt nhang cắm lên. Khi đến mộ song thân, tôi thì
thầm: - Con về rồi, thày u không còn. Làm con không chăm sóc cha mẹ lúc tuổi
già, không được nhìn cha mẹ lần cuối. Con “trung với Đảng hiếu với Dân” nhưng
lại bất hiếu với cha mẹ ruột của mình! Ai hiểu nỗi lòng con! Cơn gió thoảng làm
bó nhang trên tay tôi bừng cháy, tiếng gió rì rào như tiếng của thày u tôi.
Khói hương theo gió quấn quanh tôi, như hồn mẹ ôm tôi. Nước mắt tôi rơi
xuống mộ!.
Tôi đi thăm bà con họ hàng, làng xóm. Thăm
một vài nơi tôi đã có những kỷ niệm thời trai trẻ và cuộc đời binh nghiệp.
Xuống Ân Thi, Hưng Yên, thăm gia đình đông đội Đặng Sỹ Lộc, Nguyễn Văn
Lạng. Còn 12 ngày nữa mới hết phép. Qúa buồn, tôi vào lại trong Nam . Không về
đơn vị mà vào Sài Gòn. Đang đi bộ trên đường Hồng Thập Tự đến ngã tư Hàng
Xanh thì gặp một bà đi bộ, hai tay hai túi xách nặng nề bước cùng
chiều tôi đi. Tôi nói với bà để tôi xách dùm. Bà hơi ngần ngừ rồi cũng đưa tôi
một túi. Cơn mưa rào bất chợt bà bảo tôi vào hiên nhà trú mưa. Tôi bỏ mũ tai
bèo khỏi đầu. Bà nhìn thẳng vào mặt tôi vẻ sững sờ, rồi nói: - Xin lỗi anh giải
phóng, nhìn cán bộ sao giống anh tôi quá. Đến lượt tôi ngơ ngác: - Anh bà ở đâu
ạ? - Anh tôi là Lưu…ở làng Cũ – Cô ơi cháu là Tài con bố Lưu đây ạ. Phải chăng
bố mẹ đã linh thiêng dẫn lối, đưa đường để tôi gặp bà Lưu Thị Khanh di cư
vào Nam 1954. Cô dẫn tôi về nhà, ở chơi vài ngày. Con của cô đưa tôi lên
Đalat. Một bất ngờ diễn ra ở Dalat … Cuộc đời tôi chuyển sang giai đoạn
mới - Thời hậu chiến, với bao biến cố khôn lường !!!
*.
LƯU XUÂN THANH (cẩn bút giới thiệu)
(Tên thật: Lưu Quang Thái)
Địa chỉ: Phường Nhơn
Phú, tp Quy Nhơn, Bình Định.
Email: luuquangthaibd@gmail.com
.
.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 21.04.2016.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét