(Nhà thơ Huy Cận (bìa trái) và nhạc sỹ Phạm Duy tại Hà Nội năm 2000) |
HUY CẬN -
LỬA VẪN CÒN THIÊNG
Cù Huy Cận lửa thiêng đâu
Huy hoàng xưa mộng lá sầu tử tôn
Hà hơi thế sự vô hồn
Vũ đài ngất ngất biển cồn tang thương
(Trần Mạnh Hảo)
Từ độ Nguyễn Du lục bát hóa đời Kiều để ngự trên ngôi báu thi ca, chừng như
long mạch thơ nước Việt đã mấy lần rót về Hà Tĩnh, khơi nguồn cho những dòng
thơ lớn khác xuất hiện: Nguyễn Công Trứ, Xuân Diệu và Huy Cận. Sau tám năm từ
độ ra đời, Thơ Mới (1932-1945) đang cuồn cuộn chảy như một dòng sông lắm ghềnh
nhiều thác, lúc ẩn, lúc hiện, chợt bùng lên rồi lắng lại sững sờ, như
ngẩn ngơ, như luyến tiếc cội nguồn? Kể cũng lạ, khi dòng Thơ Mới cuộn chảy, gầm
reo tới cao trào với Xuân Diệu thì cũng là lúc nó chợt phình ra giống một cái
hồ cho mưa nguồn chớp bể trong hồn sông nước được nghỉ ngơi, trầm lắng, ưu tư
mà hoài cổ. Khúc sông giống hồ nước của dòng Thơ Mới ấy chính là Huy Cận với
tập Lửa Thiêng gồm 50 bài thơ ra mắt
năm 1940.
Nếu không có khúc sông hóa hồ nước Huy Cận giúp Thơ Mới có cơ
hội lắng
xuống, thảnh thơi và điềm tĩnh, chùng chình và mênh mông lại, biết đâu nó đã
chẳng chảy tuột vào bề thẳm Tây phương? Chừng như hình thức complet, cravate
của Phương Tây Huy Cận khoác lên người không mang nổi hồn vía Đông phương u
uẩn, thẳm vời trong ông? Sau khi nhà thơ từng thổn thức nỗi Verlaine, cái hồn
ấy phiêu du ông về vạn cổ, kéo ông lạc vào Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du... ngay giữa lòng thế kỷ XX ồn ào phố xá... Thành ra, trong dòng thơ mới sục sôi với tầng
tầng lớp lớp thi nhân, Huy Cận tuy không khăn đống áo the như Đông Hồ, không
nâu sồng dân dã như Nguyễn Bính, nhưng hồn ông đã ràng buộc với thất ngôn
và lục bát xưa.
(Nhà thơ Trần Mạnh Hảo) |
Ông hóa nỗi buồn xưa mà lênh đênh nguồn cội, một mình bơ vơ ngay giữa Hội
trùng dương Thơ Mới, bơ vơ ngay giữa hồn mình. Có thể nói, Huy Cận cô đơn ngay cả trong
niềm nồng cháy ban đầu Xuân Diệu. Vì sao một gã trai mười chín đôi mươi lại có
một tâm hồn nghìn tuổi, một niềm thơ vạn cổ rất tân thời như Lửa thiêng 59 năm trước?
Ta bắt gặp trong Lửa Thiêng một
Huy Cận buổi Tựu trường -
Thơ Mới, tuy không mê đắm đến điên cuồng Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi như
Xuân Diệu, nhưng cũng rất tinh khôi niềm yêu đời, một niềm cách tân cả ý tưởng
đến hồn vía: Tủ mới đánh và lòng trai thơm ngát (Tựu trường). Chiếc tủ - hình - thức - Tây
phương vừa đánh verni, tưởng chỉ có thể treo những bộ áo quần tân thời ý tưởng
như câu thơ rất Tây trong bài Tình tự: Sáng
hôm nay hồn em như tủ áo / Ý trong veo là lượt xếp từng đôi. Huy Cận đi
giữa tủ, rương như đi giữa những thời đại bảo tàng, những thời đại ngọc ngà dễ
vỡ, tưởng chừng ông toan biến đời mình thành chiếc rương cất giữ vẻ tân kỳ hôm
nay: Rương nho nhỏ với linh hồn bằng ngọc
(Tựu trường). Một cậu trai thuần khiết Quần áo trắng đẹp như lòng mới mẻ thuở
ấy ai ngờ lại có thể viết được những câu thơ rất mới, rất Tây: Anh hãy bận hồn em màu sáng chói (Tình tự)... Lòng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng (Đi giữa đường thơm) ... hoặc Bắt
gặp mùa tươi lên rún rẩy (Xuân)... Huy Cận chìa câu thơ thất ngôn truyền thống
ra như chìa bàn tay mình để bắt tay ngọn gió mới Tây phương, bằng cách đột ngột
gieo một liên từ làm vần cuối câu thơ thứ hai, khiến câu thơ vừa đứt, vừa nối,
vừa chênh vênh, hụt hẫng lại vừa an nhiên, tự tại: Khi bóng hoàng hôn phủ núi xa / Khi niềm tư tưởng vướng chân, và... (Em về nhà). Ta còn có thể bắt gặp trong Lửa thiêng nhiều vẻ đẹp Tây phương mới
lạ của Huy Cận, nhất là trong 15 bài thơ 8 chữ khá phóng túng của ông như
bài Trò chuyện: Phố không cây thôi sầu biết bao chừng, Buồn
vạn lớp trên mái nhà dợn sóng, Chiều hiu hiu khêu gợi nhớ nhung hờ, Hồn bơ vơ
không biết tựa vào đâu / Mây không bay thương nhớ cũng không màu / Nắng không
xế và lòng sầu mất hướng... Huy Cận thậm chí Tây không kém gì Xuân Diệu với nỗi sầu,
nỗi chết ban đầu với tận cùng cảm giác kiểu Tay
bồng thân, và tay nữa ôm mồ (Trình bày) ... Chiều mồ côi, đời rét mướt ngoài đường ... Xương cọ vào xương bớt nỗi hàn (Ngủ chung)... hoặc Ôi
chiều buồn sao nắng quá mong manh (Nhạc sầu).
Ta có một Huy Cận hướng ngoại tới tận trời tượng trưng Verlaine cả trong
buồn, vui, sống, chết, trong thế giới khả giác lúc nào như cũng muốn nổi da gà.
Có khi, Huy Cận thử tìm tới tất cả, thử vồ vập tất cả nhưng vì sao ông chưa
thỏa nỗi rưng rưng, dù khi ông viết về tình yêu thời đi học với những câu thơ
hay đến kinh ngạc: Một hôm trận gió tình yêu lại / Đứng ngẩn
trông vời áo tiểu thơ (Học sinh). Trận gió tình yêu mới mẻ phương Tây rất nồng
nhiệt kia đã thổi bay đi tất cả niềm vui mong manh chớm hé. Chỉ còn lại nhà thơ
Đứng ngẩn trông vời... hiện tại, dù hiện tại kia, tình yêu kia kỳ diệu tới mức,
lãng mạn tới mức thần tiên: Em lùa gió
biếc vào trong tóc / Thổi lại phòng anh cả núi non (Áo trắng). Nhờ Em, nhờ
ngọn gió tóc kia mà căn phòng anh được nới rộng ra cả đất trời? Hay chính là Em
đã nhốt núi non, nhốt cái sừng sững cao vời vào căn phòng thi ca anh để vô hạn
hóa cái hữu hạn? Niềm vui tình đầu Huy Cận đẹp thế, hay thế nhưng chỉ là gió
thổi qua, chỉ là thoáng chốc. Trong thơ, Huy Cận cần một cách giải thoát khác
Xuân Diệu.
Huy Cận đi từ Ngẩn tới Vời: Đứng ngẩn trông vời..., đi từ tha nhân đến bản thân mình,
từ niềm vui đến nỗi cô đơn, như chiếc thuyền trong bài Mưa sau: Lòng êm như chiếc thuyền trên bến / Nghe rét
thu về hạ bớt mui. Câu thơ này mới đích thực thần thái Huy Cận; nó hay một
cách hoang vắng, se se, tồi tội, khẽ khàng, hiu hắt. Tâm hồn Huy Cận là chiếc
thuyền miền sơn cước thi ca, lặng lẽ hạ bớt mui khi rét thu về, lặng lẽ rút vào
tranh thủy mặc xa xưa mà u tịch. Nếu Xuân Diệu nhảy bổ vào tình yêu như nai kia
khát nước nhảy bổ vào nguồn suối, lăn xả vào đời sống con người mà choàng ôm
tất cả, mà mê cuồng, say đắm tất cả thì Huy Cận ngược lại, cứ một mình thui
thủi tìm về nơi hoang vắng, tránh xa nơi phồn hoa đô hội. Huy Cận tĩnh bên một
Xuân Diệu động.
Huy Cận xưa bên một Xuân Diệu nay. Huy Cận buồn bên một Xuân Diệu vui, dù
cả hai đều Hai chàng thi sĩ choáng hơi
men (Tình trai -
Xuân Diệu). Những bài thơ hay nhất trong Lửa thiêng là những bài Huy Cận thu hồn
về ở ẩn trong một thiên nhiên hoang vắng, thẫn thờ, như thể ông đã bị cuộc đời
dồn đến trước lầu Ngưng Bích, cùng Thuý Kiều lẫn vào Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung (Kiều). Trong 50 bài Lửa thiêng, chỉ có 8 bài thơ lục bát:
Buồn đêm mưa, Trông lên, Chiều xưa, Đẹp xưa, Thuyền đi, Xuân ý, Thu rừng và
Ngậm ngùi. Nhưng nếu không có 8 bài thơ lục bát này, Lửa thiêng dù có nhiều bài
thất ngôn hay ví như Tràng giang thì cũng chưa thể làm nên một Huy Cận vượt
thời gian như đã có. Nguyễn Du đại thiên tài lục bát, đã đưa nhịp sáu tám Việt Nam
lên tới đỉnh mây trời nhân loại. Nguyễn Du từng ít nhiều ảnh hưởng lục bát ca
dao, ảnh hưởng lục bát của Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều để làm ra hàng nghìn
câu thiên thu tuyệt diệu riêng mình. Thấm đẫm hồn thơ cha ông, Huy Cận đã hiện
đại hóa câu thơ sáu tám Việt Nam .
Ông như người kế thừa trung thành của phả hệ lục bát Nguyễn Du rồi phát triển
nó về u tịch. Đọc thơ lục bát Huy Cận, cơ hồ như hồn Nguyễn Du phảng phất đâu
đây, như thể bút thần xưa được hậu thế cầm lên viết tiếp, như bài Đẹp xưa:
Ngập ngừng mép núi quanh co
Lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang...
Vi vu gió hút nẻo vàng
Một trời thu rộng mấy hàng mây nao
Dừng cương nghỉ ngựa non cao
Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon
Đi rồi khuất ngựa sau non
Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu
Trơ vơ buồn lọt quán chiều
Mái nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người...
Câu thơ Lưng đèo quán dựng, mưa lò
mái ngang trên của Huy Cận làm ta nhớ đến Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia của Tố Như xưa. Huy Cận lấy hồn
muôn năm trước mà hiện đại hóa câu thơ lục bát bây giờ, như gió xưa vàng đẫm lá
thu nay: Vi vu gió hút nẻo vàng. Ngọn gió Huy Cận mặc áo vàng nghìn thu mà hun
hút, mà nghiêng nghiêng mái chữ, mái-hiên-người, cũng là mái thơ: Mái nghiêng
nghiêng gởi buồn theo hút người. Cũng như bài Đẹp xưa, bài lục bát Buồn đêm mưa
và bài Chiều xưa hay đến từng câu từng chữ. Cái buồn Huy Cận nơi đây đẹp đến
rụng rời, đẹp đến ngơ ngác, hoang vu.
Viết về nỗi bơ vơ kiếp người, về nỗi buồn bản thể, nỗi buồn xa vắng, mù tăm
tưởng không ai bằng Huy Cận:... Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la / Tai nương
nước giọt mái nhà / Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn (Buồn đêm mưa). Tưởng chừng Huy Cận phải đội trên đầu cả vòm
Trời nặng nặng mà nghe Ta buồn buồn, rồi thơ thẩn đi hết cõi Lửa thiêng, để nghe trọn vẹn trong hư
không: Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi, Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ. Huy
Cận gom mình về thành quách xưa mà cô đơn một thuở với trời đất; tuy ông vẫn để
ngỏ các cửa thành cho gió ngàn năm bơ phờ cư ngụ: Gió về, lòng rộng không che.
Thổi hiu hiu, thổi u u trong lục bát Huy Cận loài gió hạc vàng, gió tùng bách,
gió khói sóng. Những hồn gió liêu trai từng thổi qua Đường thi, Tống thi, thổi
qua sao Khuê ở ẩn Nguyễn Trãi, qua vầng trăng xẻ nửa Nguyễn Du mà thành bờ lau
thưa Huy Cận:
Buồn veo theo gió bên hồ
Đèo cao quán chật, bến đò lau thưa
Đồn xa quằn quại bóng cờ
Phất phơ buồn tự thời xưa thổi về
Ngàn năm sực tỉnh, lê thê
Trên thành son nhạt - Chiều tê cúi đầu...
(Chiều xưa)
Nhà ẩn sĩ của nỗi buồn xưa để tâm hồn mình trôi qua hai bờ lục bát như bóng
cờ kia quằn quại trôi qua đôi bờ trời chiều và Thành son nhạt, càng trôi càng
sững lại, càng phải vật vã với gió mà níu lấy hồn xưa ngơ ngẩn. Phải chăng tinh
thần của Lửa thiêng là tinh thần của lá cờ quá vãng ăn toàn gió xưa mà tồn tại,
mà nghi ngút khói mây :Phất phơ buồn tự thời xưa thổi về ? Huy Cận mang hồn
Nguyễn Du để làm nên giọng điệu lục bát rất riêng, rất mới của mình như
bài Thu rừng sau đây:
...Nai cao gót lẫn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về
Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Chim đi lá rụng cành nghe lạnh lùng...
Hai cặp lục bát trên đều đi nhịp đôi khe khẽ, rón rén, thi thoảng, theo
kiểu cứ một bước sương lại một bước khói, như trời thu theo nai xuống núi, theo
chim đi vì không nỡ bay sợ làm động vỡ hồn thu. Huy Cận mượn bút vẽ Tề Bạch
Thạch mà vẽ bức thuỷ mặc lục bát Thu rừng có một không hai. Chỉ thấy nai, thấy
chim, thấy sắc trời, thấy lá rụng, tuyệt nhiên không thấy người đâu, mà không
đâu không ám ảnh hồn người. Cảm giác, ấn tượng của những câu thơ trên mạnh tới
nỗi rùng mình, người đọc chợt được hòa tan vào từng câu chữ, khiến bài thơ như
chợt vượt ra ngoài trang giấy mà hóa vô biên thu, hóa vô tận rừng, hóa
mênh mông hồn thu Huy Cận.
Nói đến lục bát Huy Cận, không thể không nhắc tới Ngậm ngùi. Bài Ngậm ngùi
tuy không tuyệt bích như các bài Thu rừng, Đẹp xưa, Buồn xưa, Buồn đêm mưa;
nhưng nó mang yếu tố mới của thơ tình, trước đó thơ ta chưa có chuyện
người đàn ông hầu quạt ru người con gái ngủ. Bài thơ mang được phẩm chất sầu
mộng của thời đại, được phổ nhạc thành bài hát rất hay, rất quen thuộc nên
người ta dễ nhớ hơn những vần lục bát thần diệu trên. Thơ thất ngôn Huy Cận đạt
tới tuyệt đỉnh với Tràng Giang, với nỗi buồn hoài cổ tầng tầng lớp lớp sóng,
lớp lớp mây tâm trạng, như thể nhà thơ đã kéo dài mạch chảy của những dòng sông
thi ca Vương Bột, Thôi Hiệu ..., những dòng sông thi ca Trông vời trời nước
mênh mang Nguyễn Du xưa mà trải hồn mình ra nghìn dặm xưa sau. Huy Cận là nỗi
buồn tiếp nối ông cha: Vạn lý sầu lên núi tiếp mây, như thể ngàn xưa còn vọng mãi nỗi niềm rơm rớm
nắng mưa nay: Nắng đã xế về bên xứ bạn / Chiều mưa trên bãi
nước sông đầy (Vạn lý tình). Hãy đọc thất ngôn Huy Cận lên để nghe không gian chùng xuống
đến tận cùng dây tơ thời gian: Ôi! nắng
vàng sao mà nhớ nhung / Có ai đàn lẻ để tơ chùng ? (Nhớ hờ).
Huy Cận với Lửa thiêng còn ở bên trời đàn lẻ, là nỗi buồn xưa, hồn xưa lưu
lạc tới hôm nay vẻ hiu hắt, ngậm ngùi kiếp người. Ông mang đến cho thi đàn một
nỗi buồn đẹp như quê hương, như nước mắt trời xanh. Hình như sự vĩnh cửu từng
níu lấy áo Huy Cận mà kéo ông về bất tử thi ca ngay từ thuở vừa ngoài tuổi đôi
mươi. Lửa thiêng có lẽ là tập
thơ toàn bích nhất trong các tập thơ ra đời từ 1932-1945 trong phong trào
Thơ Mới? Cây cổ thụ Huy Cận sẽ còn xanh tươi mãi trong vườn thơ dân tộc như câu
thơ ông từng viết trong bài Họa điệu: Cây
không đi mà tình cũng nghiêng nghiêng.
*.
TRẦN MẠNH HẢO
Địa chỉ: Số nhà 220/22
phố Hồ Văn Huê,
quận Phú Nhuận, thành phố Sài Gòn
Email:
hungdimy@yahoo.com
.
.
.
........................................................................................
- Cập nhật theo email ngocthai1948@gmail.com ngày 11.10.2015
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét