(Danh nhân Nguyễn Công Trứ - Nguồn ảnh: Internet) |
“TRONG TRẦN AI, AI DỄ
BIẾT AI”
hay CHUYỆN GIEO VÀ GẶT
“Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai?
Thế Chiến quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế!”
Người Việt Nam chơi câu đối đều biết đến đôi câu đối trứ danh này bởi
vế ra mang nghĩa thách thức cả về nội dung lẫn hình thức với 4 chữ ai
nhiều nghĩa, và vế đối đã hiên ngang trả lời chan chát không một chút do
dự, nhún mình. Người ra câu đối là Đặng Trần Thường, thuộc phe chiến thắng;
người đối lại là Ngô Thì Nhậm, thuộc phe chiến bại. Nhưng vì đâu
nên nỗi?
“Ai dễ biết ai” - Hồi một
(Tác giả Võ Hương An) |
Năm 1788, vâng lệnh Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, Văn Nhậm (rể Nguyễn
Nhạc) đem quân ra Bắc, diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, đuổi vua Lê Chiêu Thống
chạy sang Trung Quốc. Cũng trong năm đó, Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ
hai, giết Vũ Văn Nhậm, thu lại binh quyền, trực tiếp cai trị Bắc hà
và kêu gọi các cựu thần nhà Lê ra hợp tác. Phan Huy Ích, Nguyễn Huy Lượng,
Ngô Thì Nhậm… là ba trong số những người hưởng ứng lời kêu gọi của
tân triều.
Vốn đã nghe tiếng Ngô Thì Nhậm nên khi được ông này ra hợp
tác, Bắc Bình Vương rất lấy làm mừng, coi Nhậm như là của trời dành cho.
Nhậm được phong ngay làm Tả Thị lang bộ Lại và chỉ một thời gian
sau đó, thăng làm Thượng thư bộ Lại rồi Thượng thư bộ Binh. Khi Bắc Bình
Vương về lại Phú Xuân thì Ngô Thì Nhậm là một trong những người được
tin cậy giao nhiệm vụ hợp tác với Đại Tư Mã Ngô Văn Sở, Đô
đốc Nguyễn Văn Tuyết, Nội hầu Phan Văn Lân lo việc cai trị Bắc hà.
Quả thật, Ngô Thì Nhậm đã không phụ lòng tin tưởng của Bắc Bình
Vương. Khi quân Thanh ồ ạt xâm lăng Việt Nam dưới chiêu bài “phù Lê”,
chính Ngô Thì Nhậm đã đưa ra kế hoạch bỏ ngỏ Thăng Long,
rút đại quân về giữ đèo Tam Điệp để bảo toàn lực lượng trong khi chờ viện
binh từ Phú Xuân ra. Rồi sau khi đại thắng quân Thanh, cũng chính nhờ ngòi
bút tài ba của Ngô Thì Nhậm qua những văn thư ngoại giao khôn
khéo mà tránh được can qua có thể tiếp diễn giữa hai nước, biến nỗi tức
giận thua trận của vua Thanh. Khi vua Quang Trung thăng hà (1792)
thì ông không còn được tín nhiệm như trước nữa nên cáo lão về
hưu.
Còn Đặng Trần Thường (1759 - 1813) là ai?
Đại Nam liệt truyện (sau đây gọi tắt là Liệt truyện) viết khá chi
tiết về cuộc đời của ông này. Theo đó, Đặng TrầnThường người huyện Chương Đức,
trấn Sơn Nam (nay thuộc Chương Mỹ, Hà Nội) cũng thuộc con nhà
dòng dõi, đậu Sinh đồ (Tú tài) cuối đời Lê, có quen biết với Ngô
Thì Nhậm từ hồi ở huyện Thanh Oai. Vốn học rộng và tự biết mình có
tài nhưng chưa được ai biết đến nên khi thấy Ngô Thì Nhậm ra cộng tác với
Tây Sơn và được trọng dụng thì ông tìm đến gặp Nhậm để nhờ tiến cử.
Theo Wikipedia, thấy thái độ khúm núm nhờ vả của Thường làm mất phong
độ kẻ sĩ, Nhậm đã nói rằng: “Ở đây
cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh, giúp vua cai trị nước. Còn muốn vào
luồn ra cúi thì đi nơi khác”. (1)
Riêng Liệt truyện thì thuật lại rằng, trong cuộc gặp gỡ này, Nhậm
đã không nhiệt tình giúp đỡ mà còn lên mặt kẻ cả đang lên voi, cho
Thường một bài học khi hai người bàn về việc đời.
Nhậm nói: “Người quân tử
quí ở chỗ biết thông biến mới có thể làm nên được công nghiệp, chứ kẻ
thất phu chỉ biết tự tin mình, rồi có ích gì.”
Thường nghe vậy, rũ áo đứng dậy ra về. Về đến nhà, ông nói với người
nhà:
“Ta sẽ giết tên giặc ấy” (2) và quyết chí tìm đường vào Nam để tiến thân
với Nguyễn Vương nhưng chưa có cơ hội.
Tại miền Nam, sau khi tái chiếm Gia Định năm 1787, thế lực Nguyễn
Vương ngày một mạnh.
Năm 1793, Nguyễn Vương lấy lại thành Diên Khánh và cuối năm đó,
giao cho Đông cung Cảnh (tức Hoàng tử Cảnh) trấn giữ thành này. Vương cũng
đồng thời cử một cận thần là Nguyễn Đình Đắc bí mật ra Bắc tìm người
có tài để thuyết phục vào Nam giúp sức.
Đang muốn vào Nam, nay gặp được Nguyễn Đình Đắc là người có thẩm quyền
được ủy nhiệm tìm đến cầu hiền thì còn cơ hội nào tốt hơn, đúng là vận
hên đã tới, nên sau cuộc gặp gỡ này, Đặng Trần Thường rủ Nguyễn
Bá Xuyên và vài người đồng chí hướng khác nữa vượt biển vào Nam.
Đặng Trần Thường đầu tiên cập bến Diên Khánh, nơi Đông cung Cảnh đang
trấn nhậm. Yết kiến Đông cung, Thường không lạy mà chỉ vái ba cái
(hành tam khấu lễ) với lời thưa rằng chưa gặp quân vương (Nguyễn
Vương) nên chưa dám lạy Thái tử. Có lẽ đã được Nguyễn Vương hay Nguyễn
Đình Đắc thông báo trước, lại thêm cái phong độ ra mắt của Thường hơi
khác người - tôn kính nhưng không hạ mình, sợ sệt - nên Đông cung Cảnh
sinh biệt nhãn, tiếp đón Đặng Trần Thường khá niềm nở, vui vẻ, tặng tiền
lộ phí rất hậu để Thường dong buồm đi tiếp vào Gia Định.
Mùa xuân năm Giáp Dần (1794), thuyền đến cửa Cần Giờ. Ông cho người đi
trước, mang biểu dâng lên Nguyễn Vương. Chúa Nguyễn xem biểu, thấy
đây là người có tài nên ra lệnh cho tả hữu rằng khi Thường đến
thì đưa vào ra mắt ngay. Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên, qua đối đáp rất
trúng, Nguyễn Vương nhận ra đây là người mà Vương đang cần để giúp chóng
hoàn thành nghiệp lớn nên tỏ rõ trọng đãi, ban ngay 300 quan tiền và
100 phương gạo để làm phương tiện định cư ban đầu.
Thấy được Nguyễn Vương biết tài và tin cậy nên từ đó Đặng Trần Thường
ra sức bày mưu hiến kế để đem lại chiến thắng cho quân Gia Định. Ngay
trong năm đầu tiên (1794) ở miền Nam, ông đã được đi theo
đạo quân do Nguyễn Vương chỉ huy, giữ việc tham mưu, ra giải vây
thành Diên Khánh cứu Đông cung Cảnh.
Với thành tích này, Đặng Trần Thường được thăng làm Hữu Tham tri bộ
Lại (chỉ đứng sau Tả Tham tri và Thượng thư). Từ đó, ông thường được phái
theo các đạo quân lớn của các tướng kỳ cựu như Tôn Thất Hội, Nguyễn
Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, khi thì giữ vai tham mưu, khi
thì giữ chức phó tướng, chỉ huy một cánh quân, phối hợp chiến
đấu, lập được nhiều công trạng.
Năm 1802, vua Gia Long tiến quân ra Bắc, chấm dứt nhà Tây Sơn, thống
nhất đất nước. Chức Tổng trấn Bắc Thành được lập ra, giao cho Nguyễn Văn
Thành trông coi việc cai trị và trị an miền Bắc (gồm 11 trấn) với sự
giúp đỡ của ba cơ quan lớn là Tào Binh, Tào Hộ và Tào Hình. Đặng Trần
Thường coi Tào Binh. Năm 1809, ông được thăng Thượng thư bộ Binh nhưng
vẫn coi Tào Binh, mùa đông năm 1810 được triệu về Kinh.
Trở lại, vào mùa Xuân năm 1803, ba cựu Thượng thư của triều Tây Sơn là
Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích và Nguyễn Gia Phan, sau một thời gian trốn
tránh đã ra đầu thú vì nghe có lệnh tha. Cả ba được giải về Kinh.
Đặng Trần Thường nhân dịp này, dâng sớ, nói: “Bọn Nhậm là bề tôi nhà
Lê, nỡ cam tâm thờ giặc [Tây Sơn], đặt lời dối trá để lừa bịp nước Thanh,
hãm đồng loại vào con đường bất nghĩa… Thực là người có tội trong
danh giáo, nếu không giết đi, lấy gì để răn bảo người sau”. (3)
Vua giao vụ việc cho các quan nghị tội. Nguyễn Văn Thành nói rằng tội
của bọn Nhậm thật quá đáng chết nhưng vì đã có chiếu chỉ tha tội cho
người ra đầu thú, nên nếu bây giờ giết đi, hóa ra nhà vua thất tín.
Vì vậy, triều đình quyết định chỉ đem ba người ra trước Văn Miếu
Thăng Long đánh đòn rồi tha về.
Đặng Trần Thường là người chủ trì việc thi hành án phạt. Chính trong
cuộc giáp mặt sau mười lăm năm không gặp này đã làm nảy sinh đôi câu
đối bất hủ. Ngồi trên ghế nơi công đường oai vệ. Đặng Trần Thường hất
hàm hỏi Ngô Thì Nhậm đang quỳ dưới sân:
Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai,
ai dễ biết ai?
Họ Ngô không chút e dè, lấy mệnh trời đáp ngay:
Thế Chiến quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế,
thế thời phải thế!
Thấy tới bước đường cùng này mà kẻ thù xưa vẫn không chịu hạ mình thua
cuộc, Đặng Trần Thường lấy làm giận lắm, sai lính đánh đòn. Sau khi cả ba
cựu thần Tây Sơn chịu đòn xong thì được về nhà, hai người kia bình
thường, riêng Ngô Thì Nhậm về nhà mấy hôm sau thì mất. Liệt truyện nói
rằng, vì Nhậm bị đau quá, chịu không nổi mà chết nhưng nguồn tin khác lại
ghi nhận rằng vì thù xưa quyết trả nên Thường đã bí mật ra lệnh
cho lính tẩm thuốc độc vào roi, đánh thật đau, gây thành thương tích,
thuốc ngấm vào người, về nhà thì tất Nhậm phải chết.
Wikipedia dẫn nguồn tài liệu không rõ kể rằng, trước khi chết,
Ngô Thì Nhậm có làm bài thơ, sai người nhà chuyển đến cho Đặng Trần
Thường, như sau:
Ai tai Đặng Trần Thường
Chân như yến xử đường
Vị Ương cung cố sự
Diệc nhĩ thị thu trường.
Nghĩa là: Thương thay Đặng Trần Thường. Nay quyền
thế lắm đấy, nhưng khác nào như chim yến làm tổ trong cái nhà sắp cháy,
rồi sẽ khốn đến nơi. Giống như Hàn Tín giúp Hán Cao tổ, rồi bị Hán Cao tổ
giết ở cung Vị Ương. Kết cuộc của ngươi rồi cũng thế đó.
Tạm dịch:
Thương thay Đặng Trần Thường
Tổ yến nhà xử đường
Vị Ương cung chuyện cũ
Tránh sao kiếp tai ương?”
Quả nhiên bài thơ ứng nghiệm như một lời tiên tri hay một lời nguyền.
Nhưng đó là câu chuyện thuộc “Ai dễ biết ai” - Hồi hai. Riêng tôi, không
mấy tin chắc rằng đó là thơ của Ngô Thì Nhậm; biết đâu sau này
có người hiếu sự, sau khi biết rõ cuộc đời hai người trong cuộc
đã làm ra bài thơ đó cho đậm đà câu chuyện!
“Ai dễ biết ai” - Hồi hai
Tây Sơn có một tướng tài, người huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định là Lê
Chất (1774 - 1826), hễ quân Gia Định của Nguyễn Vương đụng trận
với Lê Chất thì thường thua đậm.
Chất làm đến chức Đô đốc, dưới quyền của Tư lệ Lê Trung. Từ năm 1797,
khi thấy nội tình bất ổn và suy yếu của Tây Sơn, Chất đã có
ý hàng Nguyễn Vương nhưng chưa có dịp.
Khi Lê Trung bị vua Cảnh Thịnh giết, Lê Chất sợ bị vạ lây, bèn giả
chết bằng cách đem một người có khuôn mặt giống mình cho uống thuốc
độc, rồi phao lên Chất đã sợ mà tự tử, làm ma chay xong, ông bí mật
đem mẹ và vợ con trốn vào núi Trà Bồng để tránh sự truy nã.
Màn kịch diễn ra hay đến nỗi ai cũng lầm, ngay cả mẹ Lê Chất lúc
đầu cũng tưởng con mình chết thật, thương khóc thảm thiết. Sau đó,
nhờ người giới thiệu, Lê Chất trốn vào Quy Nhơn đầu quân dưới trướng Đại
Tổng quản Lê Văn Thanh.
Năm 1799, khi Võ Tánh đem quân đánh thành Quy Nhơn, Lê Chất đem
200 thuộc hạ về hàng, Nguyễn Vương cho đặt dưới quyền điều khiển của
Võ Tánh, lập được nhiều chiến công ban đầu. Thu phục được thành này,
vua đổi tên làm Bình Định, cho Lê Chất làm Tả đồn Thống chế. Sau đó thành
bị Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu đem quân thủy bộ vào vây đánh
rất ngặt, Võ Tánh phải vào thành cố thủ, phái Lê Chất về Gia Định.
Năm 1801, Nguyễn Vương đem đại binh giải vây Bình Định, Lê Chất giữ
vai tiên phong, đánh rất hăng nhưng trước lực lượng bao vây hùng hậu của
Tây Sơn, không làm gì được. Theo đề nghị của Võ Tánh, đại binh Nguyễn
Vương tiến ra đánh Phú Xuân. Lê Chất và Lê Văn Duyệt dẫn quân đi trước,
đã phối hợp nhịp nhàng chọc thủng được phòng tuyến Tư Hiền,
mở đường tái chiếm cố đô, lập công đầu.
Khi Lê Văn Duyệt, Lê Chất và Nguyễn Văn Thành được lệnh đem quân vào
giải vây cho Võ Tánh và Ngô Tùng Châu ở thành Bình Định thì thành này
đã thất thủ và cả hai đều tuẫn tiết.
Năm 1802, Nguyễn Vương ban bố niên hiệu Gia Long tại Phú Xuân, mở đầu
một triều đại mới, sau đó cùng Lê Văn Duyệt, Lê Chất và các tướng khác
đem quân ra Bắc, truy quét Tây Sơn, bắt được vua tôi Cảnh Thịnh, hoàn
thành công cuộc thống nhất đất nước.
Với công trạng này, Lê Chất được phong tước Quận công, mang ấn Bình
Tây Tướng Quân.
Thấy Chất là bầy tôi mới, thuộc loại hàng thần mà được chức lớn,
Đặng Trần Thường nói với những người thân cận rằng: “Chất mà bình Tây thì
ai bình Chất? Chất mà quận công thì ta nên 10 quận công”.
Lê Chất nghe vậy rất hận Đặng Trần Thường nhưng để bụng và cũng biết
đang có sự ganh ghét ngấm ngầm nên trong lòng không yên, bèn dâng
biểu nói:
“… tôi bất tài, mới phụ, ví với các quan lao khổ vạn phần, tài không
kịp một phần, đã tước quận công, lại chưởng hậu quân, lạm ở cao
quý, không dám tự đương, xin xuống đứng cùng hàng với đô thống chế” (4)
nhưng vua không chịu.
Trong thời gian vua Gia Long trị vì (1802 - 1820), Lê Chất
đã được giao những nhiệm vụ quan trọng sau:
- Năm 1803, cùng Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Khiêm đốc xuất hàng vạn
quân binh xây dựng Kinh thành Phú Xuân.
- Cũng trong năm đó, đang khi hộ tống vua Gia Long ra Bắc nhận sắc
phong của nhà Thanh, đã theo lệnh vua cùng Nguyễn Văn Trương đem quân
dẹp yên giặc biển ở Quảng Yên. Khi trở về, tiếp tục cùng các đại thần
khác trông coi việc xây dựng cung điện, hoàng thành, tu sửa các lăng.
- Năm 1810, được cử làm Hiệp Tổng trấn Bắc thành.
- Năm 1813, làm Giám đốc Cục Bảo tuyền, cơ quan đúc tiền của Bắc
thành.
- Năm 1818, làm Tổng trấn Bắc thành.
Năm 1826, Lê Chất xin nghỉ phép về quê Bình Định thì phát bệnh và mất
tại đấy, hưởng thọ 53 tuổi (ta). Vua Minh Mạng nghỉ chầu 3 ngày, ban các
loại gấm, sa, đoạn và 3.000 quan tiền để làm đám, tặng hàm Thiếu
phó, thụy Trung Nghị.
Bi kịch “Ai dễ biết ai” - Hồi hai diễn ra khi Lê Chất lên nắm quyền ở
Bắc Thành. Bấy giờ là năm Gia Long thứ 10 (1811), Lê Chất giữ chức Hiệp
trấn Bắc thành (Phó Tổng trấn). Từ chỗ nghe phong thanh có sự man trá
trong việc phong sắc thần thời Đặng Trần Thường làm việc, Lê Chất tìm
hiểu, điều tra, phát giác ra có đến 560 đạo sắc phong cho thần linh là giả
mạo (sắc phong của vua là thật nhưng thần giả, không đáng làm thần).
Liên quan đến vụ này có Đặng Trần Thường, Tham tri Bộ Lễ Nguyễn Gia Cát
cùng với con là Nguyễn Dục và Thiêm sự Vũ Quý Dĩnh. Điển hình là
Vũ Quý Dĩnh đẫ làm sắc phong cho cha cố và bố mẹ vợ làm phúc
thần và làm gian cho người khác nữa, còn Đặng Trần Thường dư biết Hoàng
Ngũ Phúc là tướng họ Trịnh, người đã đem đại quân vượt
lũy Trường Dục đánh chiếm Phú Xuân năm 1774, tiêu diệt cơ nghiệp chúa
Nguyễn ở Đàng Trong mà vẫn che giấu, xin phong làm Thanh Danh Văn
Võ Thánh Thần Đại Vương,… Khi bị xét hỏi, các người liên hệ
đều thú tội. Vua Gia Long nói: “… Bọn ngươi làm gian trá, dối người
khinh thần, không tội nào lớn bằng. Và cuộc biến loạn năm Giáp Ngọ (1774)
Hoàng Ngũ Phúc là thủ ác, nay lại cất lên mà cho là thần, thế chẳng phải
là bán nước sao? Việc ấy còn nỡ làm thì việc gì lại chẳng nỡ!”. (5)
Tất cả đều bị hạ ngục và vua giao án cho Bộ Hình nghị tội. Phạm Như
Đăng cho là tội của Đặng Trần Thường nên cách chức, còn tội Gia Cát thì xử
tử. Lê Bá Phẩm cho rằng cả hai cùng tội như nhau, sao hình phạt lại
khác, vậy phải xử tội chết cả hai mới công bình. Vua chưa quyết định, đưa
án nghị của Bộ Hình ra cho triều đình xét lại. Các quan lớn như Nguyễn
Văn Thành, Lê Quang Định, Nguyễn Đức Huyên, Nguyễn Hữu Thận viện dẫn
việc Thường và Cát đều có công, xin được theo bát nghị (8 hạng người được
chiếu cố, xem xét giảm nhẹ hình phạt luận tội) mà xét xử.
Nhóm các quan lớn khác như Trịnh Hoài Đức, Trần Văn Trạc theo lời
nghị của Phạm Như Đăng. Vua Gia Long quyết định: Vũ Quý Dĩnh bị án
trảm (chém), Thường và Gia Cát bị án trảm giam hậu (giam lại, chém sau).
Vào dịp duyệt xét các vụ án vào mùa thu (thu thẩm) năm Gia Long thứ 12
(1813), vua nghĩ thương tình cả hai đều có công trong thời gian phục
quốc nên tha tội chết cho Đặng Trần Thường và Nguyễn Gia Cát, chỉ xóa
tên trong sổ bộ các quan (quan tịch) và cho phép lưu ngụ tại Kinh.
Việc thoát chết của Thường không làm cho Lê Chất hài lòng, ông nén
lòng chờ cơ hội khác.
Năm Gia Long thứ 18 (1819), Lê Chất lên giữ chức Tổng trấn Bắc thành,
quyền uy tột bậc. Ông (hay thuộc hạ theo lệnh ông?) phát hiện ra những
việc làm sai trái khác của Đặng Trần Thường, chẳng hạn che giấu thuế
đầm ao, che giấu việc kê khai sổ đinh và sổ điền thổ (ẩn lậu đinh điền)
liền tâu xin trị tội. Đặng Trần Thường liền bị hạ ngục để điều tra. Trong
ngục, ông làm bài Hàn Vương tôn phú, lấy chuyện Hàn Tín giúp Lưu Bang
dựng nên nhà Hán rồi bị vu tội để ví với mình, và khi có rượu vào thì phát
ngôn bừa bãi, có ý oán hận. Bởi vậy, khi vua giao vụ án cho đình
nghị, ông bị kết án giảo (thắt cổ ngay) và gia sản bị tịch thu.
Thế là màn kịch Đặng Trần Thường hạ màn nhưng chưa hạ màn với Lê Chất,
dù đã chết.
“Ai dễ biết ai” – Hồi ba
Lúc sinh thời, Lê Chất giao du thân mật với Lê Văn Duyệt. Hai người
rất ăn ý với nhau; năm 1824, ông cùng Lê Văn Duyệt rủ nhau xin từ
chức Tổng trấn Bắc thành và Gia Định thành, gây khó xử cho vua
Minh Mạng không ít.
Lê Văn Duyệt mất vào năm 1832. Năm 1833, vua Minh Mạng bỏ chức Tổng
trấn Gia Định thành, đổi các trấn ở phía Nam làm tỉnh và đặt các chức Tổng
đốc, Tuần vũ, Bố chánh, Án sát. Cũng trong năm 1833, do sự hà khắc
của Tổng đốc Bạch Xuân Nguyên, con nuôi của Lê Văn Duyệt là Lê Văn Khôi nổi loạn chiếm thành Phiên An và các
tỉnh Nam Kỳ, triều đình mất ba năm hao binh tổn tướng mới dẹp yên.
Vua Minh Mạng rất giận về việc này. Biết ý vua, người ta mới truy
cứu trách nhiệm đến Lê Văn Duyệt, làm thành án. Từ vụ Lê Văn Duyệt,
Lại bộ Tả Thị lang Lê Bá Tú dâng sớ hạch Lê Chất phạm 17 tội (vì khi còn
sống, cả hai người này chơi thân với nhau và ngầm cùng có ý không
phục tùng vua). Khi vua giao triều đình nghị án, các quan lớn khác
như Tổng đốc Nguyễn Công Trứ, Tuần phủ Hà Thúc Lương, Hộ phủ Trần Văn
Tuyên lại tố cáo thêm tội khác và các đồng lõa khác.
Triều đình kết án Chất 6 tội xử lăng trì (xẻo thịt cho tới chết), 8
tội trảm (chém đầu) và 2 tội giảo (thắt cổ). Khi bản án dâng lên, vua
Minh Mạng quyết định: vì Chất đã chết (1826) nên sai Tổng đốc
Võ Xuân Cẩm san bằng mộ phần, dựng bia đá nơi mộ, đề mấy chữ “Gian
thần Lê Chất phục pháp xử” (Đây là nơi gian thần Lê Chất chịu
hình phạt) để răn đời, truy thu các sắc phong, tịch thu gia sản (được
hơn 22 ngàn quan tiền), đem cấp cho dân nghèo 12 tỉnh Bắc Kỳ. Vợ là Lê Thị
Sa bị đày làm nô tì, các con là Cận, Trương, Thường, Ky đều bị trảm quyết.
Năm 1848, đời Tự Đức, Đông các Đại học sĩ Võ Xuân Cẩn (nhạc gia của
vua) xin vua truy lục công của Chất, nhờ vậy cháu là Luận được làm Cai
đội. Năm sau, Tổng đốc Tạ Quang Cự xin vua rửa sạch tội cho Chất vua
không chấp thuận, vì rằng về tư cách và công trạng, không thể đem Chất
sánh với Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Thành. Vua xem việc tha dựng bia kể
tội và thu dụng cháu tên là Luận vào hàng ngũ quan lại là đã tỏ
ân điển của triều đình rồi.
Đến đây thì chuyện Trong
trần ai, ai dễ biết ai? tạm kết thúc.
Quả thật danh lợi làm điên đảo lòng người,gây ra biết bao thảm cảnh cho người,
cười đó rồi khóc đó. Nguyễn Công Trứ, sau mấy chục năm quay trong cơn
lốc xoáy ấy, đến khi thoát ra mới thấm thía mà hát rằng:
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thì trèo với thông.
---------------
CHÚ THÍCH
2, 3, 4 Quốc
sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Tập 2, Bản dịch của Tổ phiên
dịch Viện Sử học (Huế: Thuận Hóa, 1997), 491, 494, 444.
5 Quốc
sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1. Bản dịch của Tổ phiên dịch,
Viện Sử học (Hà Nội: Giáo dục, 2002), 815.
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
1. Quốc
sử quán triều Nguyễn. 2002. Đại Nam thực lục.Tập 1. Bản dịch của Tổ phiên dịch
Viện Sử học. Hà Nội: Giáo dục.
2. Quốc
sử quán triều Nguyễn. 1997. Đại Nam liệt truyện. Tập 2. Bản dịch của Tổ
phiên dịch Viện Sử học. Huế: Thuận Hóa.
3. V.
Hương-An. 2012. Từ điển Nhà Nguyễn. Califonia: Nam Việt.
*.
VÕ HƯƠNG AN
(tên thật: Võ Văn Dật)
Quê
quán: Thành Nội Huế (Kinh thành Huế).
Cư trú
tại: San Jose , Hoa
Kỳ.
Email: huonganvo@yahoo.com
.
............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 26.10.2015.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét