Truyện sử Trung Quốc: VƯƠNG TRIỀU ĐÔNG HÁN - Tác giả: Nguyễn Xuân (Hưng Yên)

Leave a Comment
(Nguồn ảnh: Internet)
Truyện sử Trung Quốc: 
VƯƠNG TRIỀU ĐÔNG HÁN
*
Sau khi nhà Hán (Tây Hán) bị Vương Mãng cướp ngôi, gián đoạn 15 năm, rồi Vương Mãng bị diệt, giang sơn lại về nhà Hán, kéo dài thêm được 13 đời vua nữa, gọi là nhà Đông Hán, để phân biệt với 13 đời vua nhà Hán thời Tây Hán.
.
1. HÁN QUANG ĐẾ
(06 Tr.cn - 57 S.cn)
Vào cuối đời Tây Hán, Vương Mãng đã cướp ngôi lập nên triều Tân năm 8 sau công nguyên. Sự bóc lột của Vương Mãng cộng với thiên tai liên tiếp khiến nông dân không còn con đường nào khác, phải vùng lên khởi nghĩa. Và trong các cuộc khởi nghĩa đó nổi lên là quân khởi nghĩa của Phàn Sùng, có biệt danh là "quân xích Mi" (Xích màu đỏ, mi lông mày). Sở dĩ Phàn Sừng cho quân của mình tô màu đỏ lên lông mày là để dễ phân biệt khi giao chiến với quân Vương Mãng.
Trong khi đó, thì Lưu Tú cùng anh trai là Lưu Dần, đang ở Thung Lăng, thuộc quận Nam Dương (nay ở phía Bắc Ninh Viễn, tỉnh Hồ Nam), cũng phát động người trong họ và khởi binh ở Thung Lăng chống lại Vương Mãng.
Lưu Tú sinh năm 06 Tr.cn tự là Cửu Nguyên người là Nam Dương. Thân phụ của Lưu Tú là Lưu Hân, quan huyện từ thời Hán Thành Đế - Lưu Ngao cho đến khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Tây Hán.
Sau khi lên làm vua, Vương Mãng phế bỏ phong hiệu thông thất nhà Hán, không cho người nhà họ Lưu làm quan, vì vậy anh em nhà Lưu Tú đã không được làm quan và ngày càng căm ghét Vương Mãng. Năm 23 công nguyên, mấy cánh quân Lục Lâm phát triển mạnh mẽ, nhưng không có sự chỉ huy thống nhất các tướng sĩ cho rằng binh mà đông đúc thì cần có một thủ lĩnh để thống nhất hiệu lệnh, cho nên họ đã chọn một quý tộc sa sút của nhà Hán là Lưu Huyền lên làm hoàng đế. Lưu Huyền lên làm Hoàng đế, được gọi là Canh Thuỷ Đế. Canh Thủy Đế cho Lưu Tú làm thái thượng thiên tướng quân. Anh trai Lưu Tú là Lưu Dần làm Đại Tư Đồ.
Trong cuộc chiến ác liệt diễn ra tại Côn Dương nhờ có sự quyết đoán, mưu trí dũng cảm của Lưu Tú quân Lục Lâm đã đánh bại hơn 40 vạn quân của Vương Mãng. Lúc đó quân Lục Lâm được gọi là Hán Quân, sau đó Hán Quân đã tấn công Trường An, nhân dân trong thành sôi nổi hưởng ứng giúp Hán quân đánh bại Vương Mãng và Vương Mãng đã bị giết chết, triều Tân sụp đổ năm 23 CN.
Nhưng sau chiến thắng đó Canh Thuỷ Đế bắt đầu sát hại các công thần, người bị sát hại đầu tiên đó là Lưu Dần anh trai Lưu Tú. Hoảng sợ sẽ bị giết như anh mình, Lưu Tú tính: Nếu nổi binh đánh thì chưa thể thắng được Canh Thủy Đế, nếu bỏ chạy thì cũng chết vì sẽ bị truy lùng đến cùng. Chính vì vậy Lưu Tú đã quyết định "liều" đến gặp Canh Thuỷ Đế, Lưu Tú không dám để tang anh trai vừa mất, vẻ mặt thì vẫn vui cười ông còn ca ngợi công lao của Canh Thuỷ Đế. Cho nên Canh Thuỷ Đế đã không nghi ngờ gì Lưu Tú nữa, mà còn phong cho Lưu Tú làm phá lỗ đại tướng quân. Sau khi về Lạc Dương, Canh Thuỷ Đế giao cho Lưu Tú binh ấn, sau khi chiêu dụ, dẹp loạn các quận ở Hà Bắc, và đó là cơ hội vô cùng thuận lợi cho Lưu Tú, như hổ được thả về rừng. Đến Hà Bắc, Lưu Tú đã mở rộng thế lực, thu phục các cánh quân cát cứ địa phương. Lưu Tú phế bỏ các loại luật lệ hà khắc thời Vương Mãng, quân đội của ông có kỷ cương pháp luật rất nghiêm minh.
Đến năm 25 sau công nguyên, Lưu Tú sau khi đã chuẩn bị đủ điều kiện để chiến đấu lật đổ Canh Thủy Đế, liền tự xưng làm hoàng đế ở đất Hào (nay ở phía Bắc huyện Bách Hương tỉnh Hà Bắc). Sau khi lên làm vua Lưu Tú lấy hiệu là Hán Quang Vũ. Lúc đó Canh Thuỷ Đế do ăn chơi sa đoạ, hư hại, nên Canh Thuỷ Đế bị thủ lĩnh nghĩa quân Xích Mi đem quân đánh bại. Vì vậy trở ngại trước mắt của Hán Quang Vũ là nghĩa quân Xích Mi và nghĩa quân Lục Lâm, vì vậy Hán Quang Vũ đã tìm cách đánh bại hai nghĩa quân Trên sau đó giết hại thủ lĩnh của họ. Như vậy Hán Quang Vũ đã hoàn toàn dẹp được các cánh quân cát cử, các thế lực kình địch, thống nhất đất nước.
Sau khi lên làm vua, Hán Quang Vũ đã vận dụng chính sách vỗ về dân chúng, như giảm nhẹ tô thuế, giải phóng nô tì giảm bớt quan lại và mấy lần đại xá thiên hạ, vì vậy nhân dân yên ổn làm ăn, cảnh tượng đất nước thanh bình, nhân dân ca hát lại diễn ra ở khắp mọi nơi. Chính vì vậy đầu đời Đông Hán kinh tế được khôi phục, phát triển ổn định.
Nhà Đông Hán do Lưu Tú (Hán Quang Vũ) lập nên, vì có sau nên được gọi là nhà Hậu Hán và do nhà Hậu Hán đóng đô ở Lạc Dương, tức là phía Đông, nên nhà Hậu Hán còn được gọi là nhà Đông Hán. Nhà Đông Hán tồn tại từ năm 25 CN đến năm 220 CN.
Đến năm 57 CN, Hán Quang Vũ, bị bệnh nặng và mất, hưởng thọ 63 tuổi, sau khi chết, Hán Quang Vũ được chôn ở Nguyên Lăng.

2. HÁN MINH ĐẾ
     (28 - 75)         
Hán Minh Đế sinh năm 28, tên là Lưu Trang, là con trai thứ tư của Hán Quang Vũ Lưu Tú; thân mẫu là Ân Hoàng Hậu.
Năm 57, Hán Quang Vũ mất, Lưu Trang lúc đó đang làm thái tử nên được lên  nối ngôi, tức là Hán Minh Đế. Sau khi lên làm vua Hán Minh Đế tiếp tục thực hiện chính sách trị nước của cha mình, nhưng phần nào Hán Minh Đế cũng đã làm cho những chính sách đường lối của Hán Quang Vũ gặp nhiều trở ngại, gây khó khăn trong vẫn đề trị nước. Thời kỳ Hán Minh Đế trị vì, mối quan hệ giao lưu hoà hảo giữa Hán với Tây Vực không còn được tốt đẹp nữa đặc biệt là mối quan hệ giữa nhà Đông Hán với Hung Nô. Đối với Hung Nô thì sau khi Vương Chiêu Quân mất, và ở Tây Hán bị Vương Mãng cướp ngôi thì Hung Nô bắt đầu không cho người cống nạp và buôn bán với Trung Nguyên nữa và cho đến khi Hán Minh Đế lên làm vua, thì sự chấm dứt quan hệ ngoại giao giữa Trung Nguyên với Tây vực và Hung Nô cũng đã được hơn nửa thế kỷ. Vì thế, quân Hung Nô thường quấy nhiễu biên cương, cướp bóc tài sản và gia súc, bắt người đem lên phía bắc, cho nên Hán Minh Đế phải ra lệnh cho các tướng ngoài biên cương đề phòng quân Hung Nô. Lúc đó có Ban Siêu, là em trai của Ban Cố (tác giả cuốn Hán thư), Ban Siêu đã đi sang các nước Tây Vực thuyết phục được các nước Tây Vực và cả Hung Nô kết giao lại với nhà Hán. Vì vậy Hán Minh Đế mới không phải lo đối chọi với Hung nữa.
Sau đó Hán Minh Đế nằm mơ thấy phật, cho nên ông đã cho người đi sang Tây Trúc xin kinh phật. Việc xin kinh phật được dễ dàng, nhưng Hán Minh Đế không rõ kinh phật và cũng không rõ đạo lý phật giáo. Tuy nhiên năm 68 CN Hán Minh Đế đã hạ lệnh cho xây một ngôi chùa ở phía Tây thành Lạc Dương theo đúng kiểu cách ở Thiên Trúc, ngôi chùa đó hiện nay nằm ở phía tây thành phố Lạc Dương và nó có tên là chùa Bạch Mã. Thời Hán Minh Đế, chính nhà vua cũng không tôn sùng đạo phật, Hán Minh Đế vẫn chủ trương đề xướng học thuyết Nho Gia. Cho nên số lượng người đến chùa Bạch Mã thắp hương cúng lễ ngày đó cũng không đông mà phải đến năm 628 về sau này Đường Tam Tạng sang Tây Trúc cầu kinh về cho vua Đường Thái Tông (Lý Thế Dân) thì nhân dân Trung Quốc mới thực sự tôn sùng đạo phật.
Chính việc Hán Minh Đế cho người cầu kinh phật, đã gây ra nhiều nỗi oan khốc cho nhiều người. Bởi vì có người định lợi dụng phật giáo để làm phản, Hán Minh Đế biết được đã ra lệnh giết chết những người muốn làm phản và bè đảng của họ, nhưng kỳ thực có những người không hề có ý, tạo phản nhưng đã bị chết oan, sau này Hán Minh Đế phải hạ chiếu miễn tội cho nhiều người bị nghi là có ý làm phản, nên tang tóc đau thương mới được chấm dứt.
Hán Minh Đế cũng chú trọng đến việc phát triển của lịch sử, việc phát triển tồn tại của Vương Tộc, cho nên Hán Minh Đế đã sử dụng Ban Cố làm Lân đài lệnh sử, để Ban Cố viết Hán thư.
Năm 75 CN Hán Minh Đế mất, ở tuổi 47. Ông làm vua được 18 năm. Sau khi mất Hán Minh Đế được chôn ở Hiển Tiết Lăng. Trong 18 năm ở ngôi của mình Hán Minh Đế chủ yếu sử dụng niên hiệu là Vĩnh Bình. Hán Minh Đế mất, con là Lưu Đát nối ngôi đó là Hán Chương Đế.

3. HÁN CHƯƠNG ĐẾ
 (58 - 88)   
Hán Chương Đế tên là Lưu Đát, sinh năm 58. Lưu Đát là con thứ của Hán Minh Đế, thân mầu là Giả Quý Nhân. Người con trưởng của Hán Minh Đế chết sớm, do đó Lưu Đát được lập lên làm thái tử. Năm 75 sau công nguyên Hán Minh Đế mất. Quần thần liền lập Lưu Đát lên làm vua. Hiệu là Hán Chương Đế, khi đó Hán Chương Đế được 17 tuổi.
Thời kỳ Hán Chương Đế trị vì, nối tiếp thời kỳ Hán Minh Đế nên tình hình chính trị tương đối ổn định. Năm sau, Hán Chương Đế lấy niên hiệu là Kiến Sơ. Nhưng Hán Chương Đế lại là một ông vua phong lưu, Hán Chương Đế thường say đắm hai chị em nhà họ Đậu là Đại Đậu và Tiểu Đậu, bỏ bê triều chính, Hán Chương Đế còn lập Đại Đậu làm Hoàng hậu. Và từ đó họ ngoại bên vợ của nhà vua bắt đầu được giữ một số chức vụ quan trọng trong triều đình. Ngoài họ ngoại (ngoại Thích) các hoạn quan trong triều thời kỳ này cũng được Hán Chương Đế trọng dụng, cho nên sau khi Hán Chương Đế mất, bọn ngoại thích và hoạn quan bắt đầu chuyên quyền và cũng từ đó mà nhà Đông Hán mới thành lập được hơn 50 năm đã bắt đầu có dấu hiệu đi xuống.
Năm 88 sau công nguyên, Hán Chương Đế mắc bệnh nặng một thứ bệnh tức giận quá thành hư gan, dần dần ốm liệt giường. Và cuối năm 88 năm Chương Hoà thứ 2 (niên hiệu thứ ba của Hán Chương Đế) Hán Chương Đế băng hà. Hưởng dương được 30 tuổi.
Sau khi mất Hán Chương Đế được chôn ở Kính Lăng, miếu hiệu thường được gọi tắt là Hán Chương Đế. Hán Chương Đế mất, hoàng hậu họ Đậu bắt đầu lộng quyền, nhưng chỉ được một thời gian ngắn, vì người lên nối ngôi Hán Chương Đế là Hán Hoà Đế, lúc đó mới 10 tuổi, mấy năm sau, Hán Hoà Đế đã ra tay diệt trừ hết bọn gian thần nhà họ Đậu, việc  mà Hán Chương Đế về lúc cuối đời đã muốn làm, nhưng chưa làm được thì người con  nối ngôi đã làm việc đó, như vậy có lẽ Hán Chương Đế cũng ngậm cười nơi chín suối.

4. HÁN HÒA ĐẾ
 (79 - 105)
Hán Hoà Đế tên là Lưu Triệu. Sinh năm 79. Thân sinh là Hán Chương Đế Lưu Đát. Thân mẫu là Lương Quý Nhân.
Lưu Triệu là con trai thứ tư của Hán Chương Đế. Năm 88 Hán Chương Đế mất, Đậu Thái Hậu lâm triều nhiếp chính. Đậu thái hậu cùng anh trai là Đậu Hiến nắm đại quyền trong triều. Sau khi bàn bạc với nhau, họ quyết định đưa Lưu Triệu lên làm hoàng đế. Lúc đó Lưu Triệu mới được 9 tuổi. Lưu Triệu lên làm vua tức là Hán Hoà Đế. Cũng từ thời kỳ này trở về sau, đa số các hoàng đế nhà Đông Hán khi được lập lên làm vua học đều là trẻ con. Chính quyền thì nằm trong tay hoạn quan hoặc là trong tay bọn ngoại thích. Chính vì vậy mà từ đó vương triều nhà Đông Hán bắt đầu đi xuống.
Sau khi lên làm vua, Hán Hoà Đế lấy niên hiệu là Chương Hoà (niên hiệu của Hán Chương Đế) trong 10 tháng từ tháng 2 đến tháng 12 năm 88.
Năm sau, năm 89 Hán Hoà Đế lấy niên hiệu là Vĩnh Nguyên. Kỳ thực lúc đó quyền hành đều nằm hết trong tay ngoại thích, cho nên hoàng đế trẻ tuổi này chỉ là một bù nhìn, sau khi lớn lên, Hán Hoà Đế bắt đầu hiểu biết được sự chuyên quyền của ngoại thích. Hoàng đế này muốn trừ bỏ diệt sạch bọn ngoại thích để tự mình nắm quyền hành của tổ tông để lại. Nhưng nhà vua chỉ có danh mà không có thực quyền, xung quanh toàn là bọn tay chân, thân tín của bọn ngoại thích, cho nên hoàng đế ở vào thế cô lực kiệt. Về vật chất thì hoàng thượng dùng đủ không thiếu thứ gì, nhưng xung quanh hoàng thượng toàn là các cung tần mỹ nữ, và những người thân tín nhất đối với nhà vua, đó chính là bọn hoạn quan. Vì vậy để tiêu diệt được bọn hoạn quan thì nhà vua chỉ có thể dựa vào bọn người nàyđể hành sự, tuy nhiên sau khi mà hành sự xong rồi thì đa số quyền hành trong tay bọn ngoại thích lại rơi vào tay bọn hoạn quan. Mà bọn ngoại thích hay hoạn quan đều là đại biểu của thế lực thối nát nhất trong tầng lớp cường hào địa chủ. Chính vì vậy Hán Hoà Đế mặc dù có cố gắng để củng cố quyền lực nhưng lực bất tòng tâm, chưa tiêu diệt được bọn ngoại thích thì đến năm 105 Hán Hoà Đế đã bị bệnh mất sớm, khi đó nhà vua mới 26 tuổi.
Sau khi chết Hán Hoà Đế được chôn ở Thậm Lăng. Miếu hiệu thường được gọi là Hán Hoà Đế. Hán Hoà Đế làm vua được 17 năm. Sau đó bọn ngoại thích lập con của Hán Hoà Đế lên làm vua đó là Hán Thương Đế.

5. HÁN THƯƠNG ĐẾ
 (105 - 106)
Hán Thương Đế tên là Lưu Long, sinh cuối năm 105. Thân sinh là vua Hán Hoà Đế, thân mẫu là Hoàng hậu Đặng Tuy. Hầu hết các con của Hán Hoà Đế đều bị chết yểu, chính vì vậy mà hoàng tử bé Lưu Long phải gửi nuôi dưỡng ở trong dân gian để tránh bị chết yểu như các anh trai của mình.
Năm 105 Hán Hoà Đế mất, lúc đó Lưu Long mới hơn 3 tháng tuổi. Hoàng hậu Đặng Tuy nhiếp chính. Bà liền cho đón Lưu Long về và lập lên làm vua, đó chính là Hán Thương Đế.
Quyền hành lúc bấy giờ hoàn toàn nằm trong tay thái hậu Đặng Tuy. Nhưng Hán Thương Đế do số mệnh yếu, nên mới ở ngôi được 8 tháng đã bị bệnh và mất, hưởng dương mới được hơn 11 tháng tuổi.
Sau khi mất Hán Thương Đế được chôn ở Khang Lăng, miếu hiệu là Hán Hiếu Thượng Hoàng Đế. Và thường được gọi là Hán Thương Đế. Như vậy vương triều nhà Đông Hán từ Hán Hoà Đế trở đi, về sau này các hoàng đế đa số đều còn rất trẻ khi được đưa lên làm vua, và các hoàng đế đó cũng đều bị chết sớm do nhiều nguyên nhân khác nhau.

6. HÁN AN ĐẾ
 (94 - 125)
Hán An Đế, tên là Lưu Hồ, sinh năm 94, là cháu nội của Hán Chương Đế Lưu Đát. Thân sinh là Lưu Khánh, Lưu Khánh được phong là Thanh Hà Vương thời Hán Hoà Đế. Thân mẫu là Vương Khánh.
Năm 106, Hán Thương Đế mất, thái hậu Đặng Tuy buông rèm nhiếp chính. Nhưng bà không biết phải chọn ai làm người nối dõi bời vì lúc đó các đại thần đều muốn lập Lưu Thắng lên làm vua, Lưu Thắng lúc đó đang được phong làm Bình Nguyên Vương, nhưng Đặng Thái hậu vì trước đó đã không lập Lưu Thắng làm vua mà lập Lưu Long tức là Hán Thương Đế, vì vậy nếu bây giờ bà mà lập Lưu Thắng, nhỡ sau này Lưu Thắng sẽ trả thù mình. Vì vậy Thái Hậu Đặng Tuy, bí mật bàn với anh trai là Đặng Chỉ, Đặng Khôi trong cung cấm, ngay trong đêm Hán Thương Đế mất, Đặng Chí dùng Tiết Việt, dùng xe mui xanh đến phủ đệ của Thanh Hà Vương Lưu Khánh, đón Lưu Hổ vào cung, trước lập làm Trương An Hầu, sau đó Thái hậu giáng chiếu nói Lưu Hổ là người thừa tự Hán Hoà Đế, cho lên ngôi Hoàng đế,  tức là Hán An Đế, năm đó Hán An Đế Lưu Hổ mới hơn 12 tuổi.
Hán An Đế lên làm vua nhưng thực chất thì vẫn chỉ là bù nhìn, chính quyền quốc gia đại sự vẫn nằm trong tay Đặng Tuy Thái Hậu.
Lúc đầu, Lưu Hổ được lập lên làm vua, mọi người đều cho rằng hoàng đế rất thông minh nên mới được Đặng Thái Hậu chọn làm Hoàng đế, nhưng sau khi lớn lên thì Hán An Đế lại thiếu phẩm đức, vì vậy mà Đặng Thái Hậu nhiều lần định phế truất. Hán An Đế đã lớn mà Đặng Thái Hậu vẫn không trao quyền hành cho hoàng đế, mà vẫn tự mình nhiếp chính.
Năm 121 Đặng thái hậu bị bệnh và mất. Hán An Đế mới được lên nắm quyền hành quốc gia. Sau đó Hán An Đế lập Diêm Cơ làm hoàng hậu. Nhưng Diêm Cơ là một người hẹp hòi, khi được Hán An Đế sùng ái đã tìm cách không cho các phi tần khác được gần gũi với Hán An Đế. Nhưng từ trước đó Hán An Đế đã gần gũi với một cung nữ tên là Lý Thị và Lý Thị đã sinh cho Hán An Đế một người con trai, đặt tên là Lưu Bảo và đây cũng là người con trai duy nhất của Hán An Đế, vì vậy sau này Hán An Đế mất Lưu Bảo đã lên nối ngôi hoàng đế tức là Hán Thuận Đế đó là Hoàng đế thứ bảy của vương triều Đông Hán.
Năm 125 Hán An Đế muốn tuần thú Phương Nam. Nam Dương là đất phát tích thuỷ tổ của nhà Đông Hán, Hán Quang Vũ, cho nên Hán An Đế đi phương Nam mục đích là để tế bái tổ tiên và xem phong cảnh phương Nam. Nhưng Hán An Đế vốn yếu đuối nên khi xa giá xuất phát từ Lạc Dương, sau nửa tháng mới đến Nam Dương, Hán An Đế, trên đường đi không quen vất vả, khí hậu, thuỷ thổ, đã ngã bệnh nặng, vì vậy xa giá phải lập tức hồi loan về Lạc Dương, nhưng mới về đến Diệp huyện thì Hán An Đế mất, lúc đố mới 31 tuổi. Sau khi chết Hán An Đế được đưa về Lạc Dương và được chôn ở Cung Lăng miếu hiệu Hán Cung Tăng Hiếu An Hoàng đế và thường được gọi tắt là Hán An Đế.

7. HÁN THUẬN ĐẾ
 (115 - 144)
Hán Thuận Đế tên là Lưu Bảo, sinh năm 115, thân sinh là Hán An Đế. Thân mẫu là một cung phi tên là Lý Thị.
Năm 125 Hán An Đế mất, bọn ngoại thích liền lập Lưu Bảo lên làm hoàng đế, tức là Hán Thuận Đế. Lúc đó quyền hành hoàn toàn nằm trong tay ngoại thích nhà họ Lương em của Lương Ký là Lương thái hậu buông rèm nhiếp chính. Vì vậy Lương Ký mặc sức tung hoành, y tự phép làm đại tướng quân. Cha của Thái hậu là Lương Thương cũng được phong làm đại tướng.
Vì hoàng đế còn nhỏ tuổi, nên Lương Ký tha hồ kiêu ngạo, và ngang ngược, hắn không thèm đếm xỉa đến hoàng đế. Hơn nữa. Hoàng đế lúc đầu thì nhỏ tuổi, nhưng sau lớn lên thì tư chất không thông minh, nên chỉ lo ăn chơi mặc cho Lương Ký muốn làm gì thì làm, chính vì vậy mà Lương Ký đã hoành hành được hơn 20 năm.
Lúc mới lên làm vua, Hán Thuận Đế sử dụng niên hiệu của Hán Quang Đế là Vĩnh Kiến, đến năm 132 đỏi thành niên hiệu Dương Gia. Năm 136 lại đổi thành niên hiệu Vĩnh Hoà. Năm 142 lại đổi thành niên hiệu Hán An và cuối cùng năm 144 Hán Thuận Đế đổi thành niên hiệu là Kiến Khang. Năm 144 thì Hán Thuận Đế mất, khi đó nhà vua mới 29 tuổi. Như vậy Hán Thuận Đế làm vua được 19 năm và trong 19 năm đó, Hán Thuận Đế đã sử dụng sáu niên hiệu khác nhau.
Sau khi chết Hán Thuận Đế được chôn ở Hiến Lăng, miếu hiệu là Hán Kính Tông Hiếu Thuận Đế và thường được gọi là Hán Thuận Đế.
Hán Thuận Đế chết con trai là Lưu Bính lên nối ngôi lúc đó Lưu Bính mới 2 tuổi.

8. HÁN XUNG ĐẾ
 (143 - 145)
Hán Xưng Đế tên là Lưu Bính sinh năm 143. Thân sinh là Hán Thuận Đế Lưu Bảo, thân mẫu là Ngu Quý Nhân.
Năm 144 Hán Thuận Đế chết. Quyền binh đang nằm trong tay đại tướng quân Lương Ký. Đối với Lương Ký thì hoàng đế còn nhỏ tuổi càng tốt, bởi vì như vậy thì hắn ta càng dễ bề khống chế và với danh nghĩa phụ tá cho hoàng thượng hắn sẽ càng oai hơn. Cho nên lúc đó Lưu Bính được Lương Ký đưa lên làm vua thay cho Hán Thuận Đế vừa chết.
Lưu Bính lên làm vua lúc đó mới hơn một tuổi. Đó là Hán Xung Đế. Nhưng vị hoàng đế nhỏ tuổi này lại ngắn số chưa làm vua được nửa năm đã bị bệnh nặng và chết yểu lúc đó mới gần hai tuổi. Sau khi chết Hán Xung Đế được chôn ở Hoài Lăng.
Sau khi Hán Xung Đế chết để có người ngồi ở ngai vàng làm bù nhìn, cho nên Lương Ký đã chọn một đứa trẻ khác trong gia tộc dòng họ Lưu, cuối cùng Lương Ký đã chọn được một đứa bé tám tuổi lên làm vua đó là Hán Chất Đế.

9. HÁN CHẤT ĐẾ
 (138 - 148)
Hán Chất Đế, tên là Lưu Toán, sinh năm 138, thân sinh là Bột Hải Hiếu Vương Lưu Hồng. Thân mẫu là Trần Phu Nhân. Lưu Toán là cháu năm đời của Hán Chương Đế. Lưu Toán không phải là hoàng tử, mà chỉ là Tông thất nhà Hán. Nhưng sau đó Lưu Toán được lên làm vua là bởi vì các hoàng đế từ thời Hán Hoà Đế trở đi, khi lên ngôi còn quá trẻ. Theo tục lệ thì thái hậu buông rèm nhiếp chính. Và họ ngoại của thái hậu bắt đầu nắm quyền hành thao túng triều chính. Bọn ngoại thích này vì chuyên quyền lộng hành cho nên chúng rất sợ những vị hoàng đế anh minh sáng suốt, cho nên đa số các hoàng đế nhỏ tuổi này, nếu không chết yểu thì cũng bị bọn ngoại thích tìm cách đầu độc chết. Sau đó chúng lại tìm một đứa bé nào đó trong hoàng tộc nhà vua để lập lên làm hoàng đế, để chúng dễ bề sai khiến và lộng quyền.
Chính vì vậy cho nên khi Hán Xung Đế chết năm 145. Bọn ngoại thích Lương Ký lúc đó đang làm Đại tướng quân và Lương thái hậu liền tìm một người để nối dõi ngôi vua nhà Đông Hán. Tiêu chuẩn để chọn hoàng đế nối dõi là dòng dõi tông thất nhà họ Lưu và càng nhỏ tuổi càng tốt. Sau khi boàn đi tính lại, Lương Ký đã quyết định chọn Lưu Toán lên ngôi hoàng đế. Tức là Hán Chất Đế. Khi đó Hán Chất Đế mới bảy tuổi.
Tuy còn nhỏ nhưng Hán Chất Đế tỏ ra thông minh lanh lợi, không ưa sự ngang ngược, kiêu ngạo và tàn bạo của Lương Ký và trong một lần lên triều, Hán Chất Đế bỗng chỉ mặt Lương Ký nói "Ngươi đúng là một tướng quân ngang ngược" và với câu nói đó Hán Chất Đế đã phải trả giá bằng tính mạng của mình. Bởi vì Lương Ký vốn là một con người độc ác, ông ta bị Hán Chất Đế nói làm bẽ mặt trước bá quan văn võ. Ông ta tức đến điên người lên nhưng không làm gì được. Từ đó Lương Ký quyết định giết vị hoàng đế nhỏ tuổi này. Lương Ký suy nghĩ vì hoàng đế này mới chừng ấy tuổi đầy mà đã ghê gớm thế, lớn lên sẽ khó bắt nạt được. Chính vì vậy Lương Ký đã quyết định độc thủ. Y cho người bỏ thuốc độc vào bánh dâng lên cho Hán Chất Đế. Hán Chất Đế ăn xong, cảm thấy trong bụng khó chịu, đau quần quại, nhà vua đòi uống nước, nhưng lúc đó Lương Ký đứng bên cạnh đã không cho Hán Chất Đế uống nước, y nói: "Không được uống nước vào sẽ bị nữa". Vì vậy Hán Chất Đế đã trúng độc, sau đó ngã lăn ra chết ngay tức khắc, khi đó Hán Chất Đế mới được tám tuổi. Và làm vua được hơn một năm.
Sau khi chết, Hán Chất Đế được chôn ở Tĩnh Lăng Miếu hiệu là Hán Hiệu Chất Hoàng Đế, nhưng thường được gọi tắt là Hán Chất Đết. Việc Hán Chất Đế bị Lương Ký giết các quan trọng triều nhiều người biết việc này, nhưng không dám làm gì vì họ sợ bị Lương Ký trả thù. Về sau này Hán Hoàn Đế mới giết Lương Ký để báo thù cho Hán Chất Đế.

10. HÁN HOÀN ĐẾ
(132 - 167)
Hán Hoàn Đế tên là Lưu Chí, sinh năm 132, thân sinh là Lãi Ngũ hầu Lưu Ký. Thân mẫu là người họ Yến.
Lưu Chí là cháu bốn đời của Hán Chương Đế (Lưu Đát). Xét về gia phả thì Lưu Chí là anh của Hoàng Đế Hán Chất Đế. Năm 146 sau công nguyên. Lưu Ký giết chết Hán Chất Đế, y lại phải chọn một đứa trẻ khác trong hoàng tộc nhà Hán để lập lên làm vua, và lần này người được chọn là Lưu Chí. Lưu Chí lên làm vua khi đó mới được 14 tuổi, Hiệu là Hán Hoàn Đế. Năm sau, đổi niên hiệu là Kiến Hoà. Hán Hoàn Đế là một người cực kỳ thông minh, quyết đoán và rất căm ghét Lương Ký. Nhưng vì lúc đó quyền hành đều nằm hết trong tay Lương Ký, Hán Hoàn Đế biết việc Lương Ký  luôn luôn cho người theo dõi mình, cho nên bề ngoài thì Hán Hoàn Đế tỏ ra không có gì, không hề tỏ thái độ đối đầu với Lương Ký, nhưng kỳ thực thì Hán Hoàn Đế luôn luôn đề phòng Lương Ký hãm hại mình.
Khi lập Lưu Chí lên làm vua, Lương Ký đã bí mật giết toàn bộ gia đình nhà Lưu Ký, nhưng may có mẹ của Lưu Ký thoát chết. Mục đích của Lương Ký là làm cho Lưu Chí mất hết người thân bên cạnh. Bởi vì nếu cha Lưu Chí còn sống thì ông ta sẽ ở  một ngôi vị quan to, ví dụ như thái thượng hoàng chẳng hạn, bởi vì ông ta là cha của vua kia mà. Lương Ký hiểu rất rõ điều đó hơn nữa cha của Lưu Chí lại rất giỏi võ nghệ và có tài, nếu để ông ta sống thì Lương Ký khó có thể thao túng được triều đình để lộng hành.
Cũng nhờ có người cha giỏi võ nghệ và biết đạo lý nên từ nhỏ Hán Hoàn Đế đã được học tập võ nghệ, cho nên sau này võ nghệ của Hán Hoàn Đế cũng rất giỏi. Về cái chết của cha mình và toàn bộ Vương phủ bị xoá sổ, nhưng mẹ của Hán Hoàn Đế đã may mắn thoát chết và sau này tìm gặp Hán Hoàn Đế. Chính vì vậy mà Hán Hoàn Đế đã biết được ai là người đã giết chết cha mình, nhưng lúc đó Hán Hoàn Đế vẫn chưa làm gì được vì Lương Ký, phải mấy năm sau khi Hán Hoàn Đế lớn lên và lúc bấy giờ Hán Hoàn Đế sùng ái một mỹ nhân tên là Lương Quý. Lương Ký lại vừa mới giết chết mẹ của Lương Quý cho nên mối thâm thù giữa Hán Hoàn Đế với Lương Ký lại được nhân lên gấp bội, nhưng kỳ thực lúc đó Lương Ký đang làm đại tướng quân nắm giữ cấm quân, nếu Hán Hoàn Đế mà công khai đối chọi với Lương Ký thì rất có thể sẽ bị Lương Ký tiêu diệt.
Để tiêu diệt Lương Ký, Hán Hoàn Đế phải bí mật liên hệ với những hoạn quan đang có quyền hành, và những người đang có tư thù với Lương Ký, và những quan cận thần trung thành như Bính Tôn, Trương Uẩn. Và cuối cùng nhân dịp Lương Ký không đề phòng, Hán Hoàn Đế liền đem hơn 1000 vũ lâm quan bất ngờ bao vây chặt lấy Lương Ký. Vì bị bất ngờ không kịp đối phó nên Lương Ký hoảng sợ vội rút nhanh bảo kiếm ở sau lưng ra, cứa ngang cổ một nhát, máu phun ra như cắt tiết gà ngã đánh huỵch một tiếng ra phía sau, chết ngay lập tức. Hán Hoàn Đế vào phủ còn cho người băm nát Lương Ký ra làm trăm mảnh, sau đó đem đầu của Lương Ký bêu ở ngoài thành cho nhân dân được biết. Cả gia đình của Lương Ký và bè đảng của y sau đó cũng đều bị giết chết, gia sản của Lương Ký thì bị tịch thu.
Những người có công lớn giúp Hán Hoàn Đế tiêu diệt được Lương Ký là bọn hoạn quan, nhưng sau khi tiêu diệt được Lương Ký thì bọn hoạn quan này lại chuyên quyền thế lực ngày càng lớn mạnh, vì vậy Hán Hoàn Đế như "tránh vỏ dưa thì gặp vỏ dừa" vậy. Kỳ thực thì Hán Hoàn Đế sau khi lên làm vua, tính tình sinh ra nhu nhược, thích nghe những lời bùi tau, vì vậy bọn hoạn quan tâng bốc Hán Hoàn Đế lên đến tận mây xanh làm cho nhà vua vô cùng hí hửng và tín dùng bọn hoạn quan. Bọn chúng muốn gì được nấy nhà vua chỉ biết nghe theo, từ đó trở đi, Hán Hoàn Đế chuyên dùng bọn gian nịnh, triều chính rối loạn không biết đâu mà kể. Sưu cao thuế nặng, dân chúng hết đường sống. Hán Hoàn Đế những năm cuối đời lại sủng ái một cung nữ tên là Điền Thánh. Không thèm ngó ngàng gì đến triều chính. Hán Hoàn Đế lại ngày càng trở nên hoang dâm vô độ và ở trong nước lúc bấy giờ đã bắt đầu nổi lên một vài cuộc khởi nghĩa nông dân nhưng các cuộc khởi nghĩa đó đều bị dập tắt trong bể máu. Nhưng những gì Hán Hoàn Đế làm như việc sưu cao thuế nặng, tin yêu hoạn quan... và đây chính là nguyên nhân dẫn đến cuộc khởi nghĩa khăn vàng diễn ra vào năm Giáp Tí 184 thời Hán Linh Đế người kế tiếp ngai vàng của Hán Hoàn Đế sau này.
Năm Vĩnh Khang thứ nhất 167 niên hiệu cuối cùng của Hán Hoàn Đế, Hán Hoàn Đế bị bệnh lao lực, người gầy như que củi khô. Thuốc men không chữa khỏi ốm nằm liệt giường ở tiền điện Đức Dương rồi chết luôn ở đó, hưởng dương được 25 tuổi.
Sau khi chết, Hán Hoàn Đế được chôn ở Tuyên Lăng. Miếu hiệu thường được gọi tắt là Hán Hoàn Đế, tổng cộng Hán Hoàn Đế ở ngôi được 21 năm từ năm 146 đến năm 167 sau công nguyên.

11. HÁN LINH ĐẾ
 (156 - 189)
Hán Linh Đế sinh năm 156, tên là Lưu Hằng, là cháu năm đời của Hán Chương Đế. Thân sinh là Giải Độc Đình Hầu Lưu Trường.
Năm 167 Hán Hoàn Đế mất, nhưng không có con nối dõi, vì vậy thái hậu họ Đậu cùng với cha mình là Đại tướng quân Đậu Võ đón Lưu Hằng về lập lên làm vua, tức là Hán Linh Đế. Đây là một hoàng đế nổi tiếng hủ bại trong lịch sử Trung Quốc.
Lúc bấy giờ, tình hình chính sự kể từ thời vua Hán Hoàn Đế trở đi ngày càng rối ren, đến khi Hán Linh Đế lên ngôi thì mức độ rối ren đã thật sự nghiêm trọng và nhà hán đứng trước nguy cơ bị diệt vong hoàn toàn. Trong triều thì bọn hoạn quan chuyên quyền, chúng bắt bớ chém giết người vô tội vạ, chúng còn vu cáo các thái học sinh kết bè đảng phỉ báng triều đình, làm bại hoại phong tục có ý muốn làm phản. Chính vì vậy bọn hoạn quan đã dâng sớ tấu, xin Hán Linh Đế ra lệnh bắt bọn đảng nhân. Lúc đó Hán Linh Đế mới 11 tuổi thì biết đảng nhân là gì, nhưng do bọn hoạn quan xúi giục nói vào là bọn họ rất đáng sợ, luôn nói xấu triều đình, nào là họ mưu phản, muốn lật đổ hoàng đế. Cho nên Hán Linh Đế nghe theo bọn hoạn quan ra lệnh bắt những người kết bè đảng chém giết. Sau đó mọi chức vụ quan trọng trong triều đình đều đã nằm gọn trong tay bọn hoạn quan.
Từ đó Hán Linh Đế cũng u mê, tin vào bọn hoạn quan, mọi việc đều giao cho bọn hoạn quan và khi nhà vua được 17 tuổi, bắt đầu ăn chơi hưởng lạc, cho xây dựng nhiều cung điện mới, tuyển chọn mỹ nữ đẹp để ngày đêm vui chơi hưởng lạc, việc xây dựng  cung thất tốn nhiều tiền của, vì vậy của kho nhà nước dùng chỉ vài năm đã hết, và để có tiền phục vụ cửa hàng đặc biệt ở Tây Viên đó là cửa hàng mua quan bán tước bọn nhà giàu không có học nhưng lại lắm tiền do của cha ông là địa chủ để lại, chúng đã bỏ tiền ra để mua các chức quan. Số tiền bỏ ra để mua một chức quan không phải là nhỏ, nhưng chỉ cần sau một năm bọn chúng có thể thu hồi vốn và có lời nhiều do bọn chúng ra sức bòn rút vơ vét của nhân dân. Còn Hán Linh Đế thì cứ mặc kệ, lao vào ăn chơi nhân dân thì đói khổ, sự đen tối và hủ bại của vương triều nhà Hán đã lên đến tột đỉnh của nó, sự diệt vong là điều không thể tránh khỏi, chỉ có điều là nó diễn ra sớm hay muộn mà thôi.
Bắt đầu là các cuộc khởi nghĩa nhỏ, lẻ tẻ ở nhiều nơi nghĩa quân vùng lên giết bọn quan lại cường hào ở địa phương lấy của cải thóc gạo chia cho dân nghèo, nhưng các cuộc khởi nghĩa đó đều bị trấn áp trong bể máu... phải đến năm 184, một cuộc khởi nghĩa nông dân vô cùng to lớn do anh em nhà Trương Giác, Trương Bảo và Trương Lương lãnh đạo, cuộc khởi nghĩa đó có tên là "cuộc khởi nghĩa hàng cân" triều đình nhà Hán gọi đó là "giặc khăn vàng" vì trên đầu các nghĩa quân đều chít khăn vàng. Quân khởi nghĩa tiến đánh các quận huyện, đốt dinh quan, mở cửa nhà giam, tha tội phạm, tịch thu tài sản của quan lại, phá kho lương thực, trừng trị bọn quan lại và địa chủ gian ác. Cuộc khởi nghĩa này được nông dân cả nước hưởng ứng. Và quân khởi nghĩa chuẩn bị tiến về Lạc Dương. Hán Linh Đế bấy giờ mới hoảng sợ triệu tập quần thần để tìm cách trấn áp cuộc khởi nghĩa, Hà Tiến được phong làm đại tướng quân, nhưng không chống đã nổi quân khăn vàng, nên Hà Tiến đành tâu với Hán Linh Đế gửi chiếu thư cho các châu quận để họ tự lập binh mã đối phó với quân khăn vàng. Lợi dụng cơ hội đó các tôn thất quý tộc, quan chức các châu quận và địa chủ cường hào nhiều địa phương mượn danh nghĩa đánh quân khăn vàng. Ví dụ như Lưu Bị vốn dòng dõi tông thất nhà Hán, nhưng lúc bấy giờ do gia cảnh nghèo, phải làm nghề dệt chiếu bán dép kiếm sống, cũng cùng Quan Vũ Trương Phi kết nghĩa vườn đào, thề cùng nhau đánh giặc khăn vàng. Chính từ đó các thế lực cát cứ ở các nơi đã được hình thành, điều đó dẫn đến việc toàn quốc bị chia năm sẻ bảy và sau này khi dẹp được cuộc khởi nghĩa thì các thế lực đó lại đánh lộn lẫn nhau để tranh giành đất đai, cuối cùng còn lại một số thế lực mạnh, như Viên Thiệu Tôn Quyền, Tào Tháo, Lưu Bị v.v... và từ đó bắt đầu dẫn đễn sự hình thành thế chân vạc cho thời Tam Quốc sau này.
Về cuộc khởi nghĩa khăn vàng diễn ra được một năm. Sau khi Trương Giác bị bệnh mất, Trương Bảo, Trương Lương lãnh đạo tướng sĩ tiếp tục cuộc khởi nghĩa, nhưng cuộc khởi nghĩa này đã bị các thế lực cát cứ và quân triều đình đàn áp trong biển máu đó là vào cuối năm Giáp Tý 184.
Sau khi quân khăn vàng bị đàn áp, Hán Linh Đế mặc kệ ai muốn làm gì thì làm, hay nói chính xác ra nhà vua không còn thực quyền gì, có nói cũng khó, khônglàm gì được bọn hoạn quan đành để cho chúng lộng hành ngang ngược. Nhưng chúng vẫn để cho hoàng đế được vui chơi thoả thích. Vì vậy Hán Linh Đế đã lao vào các cuộc ăn chơi hơn trước, cho nên về sau này Hán Linh Đế sa đoạ phải chịu tiếng là một hoàng đế hư bại trong lịch sử.
Năm 189 Hán Linh Đế do ăn chơi sa đoạ, tiều tuỵ thân xác, bị bệnh nặng và qua đời, hưởng dương được 33 tuổi, Khi chết Hán Linh Đế được chôn ở Văn Lăng. Miếu hiệu thường được gọi là Hán Linh Đế.

12. HÁN THIẾU ĐẾ
 (175 - 190)
Hán Thiếu Đế, sinh năm 175, tên là Lưu Biện, thân sinh là Hán Linh Đế Lưu Hằng, thân mẫu là Hà Thái Hậu. Vì là con trưởng của Hán Linh Đế, nên Lưu Biện, được lập làm Hoàng thái tử.
Năm 189, Hán Linh Đế mất, Lưu Biện đang làm Hoàng thái tử, nên được lên nối ngôi, tức là Hán Thiếu Đế. Lúc bấy giờ Hán Thiếu Đế mới 14 tuổi. Và theo như lệ thường thì Hà Thái hậu lâm triều, ngoại thích là Đại tướng quân Hà Tiến, dưới Hà Tiến còn có Viên Thiệu, Viên Thiệu có thế lực rất lớn. Bấy giờ bọn hoạn quan vẫn đang còn chuyên quyền đứng đầu là bọn hoạn quan là Trương Nhượng. Viên Thiệu khuyên Hà Tiến nên giết sạch bọn hoạn quan nhưng Hà Tiến lại không dám chủ động, liền bàn với Thái hậu, nhưng Thái hậu lúc đó đang yêu quý bọn hoạn quan nên không nghe theo lời Hà Tiến.
Viên Thiệu lại bày mưu kế cho Hà Tiến bí mật triệu tập binh mã các nơi về kinh đô, bức thái hậu phải đồng ý trừ khử bọn hoạn quan, binh mã chưa về đến kinh đô thì kế hoạch bị lộ, Hà Tiến bị bọn hoạn quan, giả truyền mệnh lệnh thái hậu gọi vào cung rồi giết chết. Vì vậy Viên Thiệu cùng con là Viên Thuật phóng hoả đốt hoàng cung giết sạch bọn hoạn quan. Dẹp xong bọn hoạn quan, thì Đổng Trác được lệnh của Hà Tiến trước đó, cũng kéo về đến kinh đô Lạc Dương.
Đổng Trác vốn là một kẻ cực kỳ tàn bạo, nhờ có công trong cuộc dẹp loạn khăn vàng, nên được thăng làm Tịnh Châu Mục. Đổng Trác thấy triều đình suy yếu, y cũng đã có dã tâm xâm chiếm Trung Nguyên, cho nên khi có cơ hội, y đã vào Lạc Dương và nhanh chóng nắm được toàn bộ binh quyền ở Lạc Dương.
Sau khi đón xa giá Hán thiếu Đế, vì chạy loạn khi hoàng cung bị đốt. Hán Thiếu Đế thấy Đổng Trác thì tỏ ra vô cùng sợ hãi. Người em của Hán Thiếu Đế là Lưu Hiệp thì tỏ ra không hề sợ sệt. Qua lần gặp đó. Đổng Trác thấy Lưu Hiệp là người oai phong, y liền quyết định phế bỏ vua Hán Thiếu Đế.
Vì vậy vào năm 190 Đổng Trác đã phế bỏ vua Hán Thiếu Đế. Đày Hán Thiếu Đế xuống làm thứ dân, cho ra khỏi kinh thành Lạc Dương, nhưng ngay sau đó, Hán Thiếu Đế đã bị Đổng Trác cho người bỏ thuốc độc giết chết. Hán Thiếu Đế chết khi mới 15 tuổi làm vua được hai năm, trong hai năm làm vua Hán Thiếu Đế sử dụng hai niên hiệu khác nhau là Quy Hy, 189 và Chiêu Ninh từ 189 - 190. Vì bị phế truất và bị đưa ra khỏi kinh thành nên Hán Thiếu Đế không được chôn ở các lăng tẩm và không có lăng tẩm.

13. HÁN HIẾN ĐẾ
 (189 - 220)
Hán Hiến Đế, sinh năm 181, tên là Lưu Hiệp là con thứ của Hán Linh Đế. Thân mẫu là Vương Mang Nhân, khi Hán Linh Đế còn sống Lưu Hiệp được phong là Trần Lưu Vương.
Năm 189 Đổng Trác vào kinh đô, phế bỏ vua Hán Thiếu Đế, Đổng Trác lập Lưu Hiệp lên làm vua tức là Hán Hiến Đế. Hán Hiến Đế lên làm vua kỳ thực chỉ là bù nhìn, vì quyền hành nằm hết trong tay Đổng Trác, Đổng Trác là một tên đại quan thần lộng quyền cho nên các thế lực cát cứ đã hợp nhau lại đánh Đổng Trác. Vì thế Đổng Trác đã quyết định ép vua Hán Hiến Đế dời đô về Trường An. Sau khi đến kinh đô mới là Trường An, Hán Hiến Đế bị Đổng Trác, lúc đó làm tướng quốc, Đổng Trác cho người cai quản vua Hán Hiến Đế rất chặt chẽ.
Hán Hiến Đế cũng là một  hoàng đế anh minh, thông minh lanh lợi và có phong độ của một bậc đế vương. Hán Hiến Đế cũng có ý định tiêu diệt Đổng Trác để giành lại quyền lực cho mình, nhưng thế lực không có nên đành chịu. Năm 192 Hán Hiến Đế bị bệnh nặng, nhưng may mắn qua khỏi, cũng trong năm đó Đổng Trác bị Lã Bố giết, nhưng sau đó bọn tay sai của Đổng Trác là Lý Thôi và Quách Dĩ đem quân báo thù cho Đổng Trác. Vì vậy nhân dân ở kinh đô Trường An lại bị lâm vào cảnh bị chém giết cướp bóc. Hán Hiến Đế được một số đại thần đưa về kinh đô cũ là Lạc Dương. Nhưng các cung điện ở Lạc Dương, khi Đổng Trác ép Hán Hiến Đế về Trường An y đã ra lệnh đốt hết cung điện, dinh thị và nhân dân trong khoảng 200 dặm xung quanh Lạc Dương. Một kinh thành phồn hoa tráng lệ và một vùng dân cư trù phú đông đúc đã bị lửa thiêu trụi, trở thành một vùng không còn tiếng gà gáy chó sủa. Cho nên sau mấy năm Hán Hiến Đế quay lại Lạc Dương, thì khắp nơi chỉ là tường xiêu ngói vỡ, gai góc mọc đầy. Hán Hiến Đế không có cung điện phải ở trong một ngôi nhà cũ nát. Các bá quan văn võ thì không có nơi ở. Phải dựng lều nơi các góc tường cũ để che mưa che nắng, khó khăn lớn nhất là không có nguồn lương thực, Hán Hiến Đế phải cử người đi khắp nơi, kêu gọi các địa phương cung cấp lương thực cho triều đình. Nhưng các địa phương còn đang tranh giành quyền lợi lẫn nhau nên không đoái hoài gì tới Hán Hiến Đế. Vì vậy có nhiều ngày Hán Hiến Đế và các bá quan phải nhịn đối và nhiều người đã chết.
Lúc bấy giờ Tào Tháo đang đóng quân ở Hứa Thành (nay là Hứa Xương, tỉnh Hà Nam) biết tin đó liền cho người đi đón thiên tử về Hứa Thành. Tào Tháo lấy cớ mượn danh thiên tử để trấn áp chư hầu đó là năm 196. Tào Tháo có được thiên tử trong tay, thế lực ngày càng mạnh, tạo điều kiện tiến lên thực hiện mọi tham vọng và hoài bão về chính trị của mình.
Chính vì vậy vua Hán Hiến Đế lúc đầu rơi vào tay Đổng Trác, sau đó lại rơi vào tay Tào Tháo, một tên gian hùng thời loạn. Hán Hiến Đế thấy Tào Tháo quá chuyên quyền, nên cùng ngoại thích Đổng Thừa bí mật bàn mưu diệt trừ Tào Tháo, Hán Hiến Đế cắn tay lấy máu viết một tờ mật chiếu, giầu vào một đai áo rồi ban tặng cho Đổng Thừa chiếc đai áo đó. Đổng Thừa bại lộ và bị Tào Tháo giết chết.
Tào Tháo định phế bỏ vua Hán Hiến Đế nhưng sau đó lại thôi và y đem con gái của mình gả cho vua Hán Hiến Đế. Hán Hiến Đế bị ép phải lập con của Tào Tháo lên làm Hoàng hậu.
Từ đó Hán Hiến Đế luôn bị Tào Tháo cho người theo dõi kiếm soát mọi hành động, nên Hán Hiến Đế chỉ thực sự là một hoàng đé bù nhìn. Cho đến năm 220 Tào Tháo chết, con của Tào Tháo là Tào Phi, liền phế bỏ vua Hán Hiến Đế, tự lập làm vua và lập nên nhà Nguỵ (220 - 265) nhà Đông Hán đến đây đã hoàn toàn bị diệt vong và lịch sử Trung Quốc bước vào một thời kỳ mới thời Tam Quốc.
Còn Hán Hiến Đế ngay sau đó được Tào Tháo tha mạng cho ra khỏi kinh thành. Năm 234 Hán Hiến Đế mất, hưởng thọ 53 tuổi, sau khi chết Hán Hiến Đế được chôn ở Thiền Lăng.
*
NGUYỄN XUÂN
Địa chỉ: Thôn Lạc Cầu, xã Giai Phạm
huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.
Email: phamchienthang1980@yahoo.com.vn
.




…………………………………………………………………………
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 28.12.2015 
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.

0 comments:

Đăng nhận xét