(Nguồn ảnh: internet) |
Đọc “BẾN MY LĂNG”
thơ YẾN LAN
BẾN MY LĂNG
Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.
Ông không muốn run người ra tiếng địch
Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao,
Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch
Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao.
Trôi quanh thuyền những lá vàng quá lạnh
Tơ vương trời, nhưng chỉ rải trăng trăng,
Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh,
Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng.
Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã,
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly,
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.
Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách,
Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng,
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách,
Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng.
Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng
Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng./.
*
LỜI BÌNH:
Bến My
Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết
rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng thì
đầy rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái
buồn để gió lén mơn râu.
Trước tiên ta thầy một con thuyền nằm yên nơi một bến sông vắng vẽ. Ánh
trăng bát ngát đổ lên thuyền, đổ trên ông lái đò đang say ngủ và rơi đầy trên
mặt sách. Đọc thơ ta biết ông lái đò đọc sách. Vậy đây không phải là một ông
lái đò bình thường. Cái câu “Trăng thì
vàng rơi đầy trên mặt sách” tự nhiên làm ta kính nể ông lái đò ngay, và tự
nhiên làm cho ta thấy có cái gì bí ẩn đánh động trí tò mò. Bến sông bây giờ
không tầm thường như bao bến sông khác. Nó mang đậm chất thơ vì nó là My Lăng
nghĩa là đẹp và rất lạnh, lạnh đến đóng thành băng. Nó mang đậm chất thanh cao,
hào hùng ví ông lái đò là người đọc sách. Vậy có thể ông lái đò là một nhân sĩ
đang ẩn danh nuôi chí lớn.
Khổ đầu của bài thơ vẽ nên một bức tranh tỉnh lặng, nhưng nhìn bức
tranh tỉnh
lặng đó thì hồn ta động. Động là vì cảnh hiện ra lồng lộng, trăng tràn lan như
thật trước mắt ta, Động là vì ẩn trong giấc ngủ của ông lái đò, ta như có linh
cảm đến những biến động trong hồn ông chìm dưới đáy sự yên lặng đó. Bởi sự kiện
trăng rơi trên sách, ta có cảm tưởng giấc ngủ ông lái đò không có chút bình an nào mà chất chứa
trong lòng ông muôn vàn u uẩn.
(Tác giả Châu Thạch) |
Để chứng minh cho tấm lòng u uẩn của ông lái đò, Yến Lan khẳng định trong
bốn câu thơ sau:
Ông không
muốn run người ra tiếng địch
Chở mãi
hồn lên tắm bến trăng cao,
Vì đìu
hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch
Trời võ
vàng, trời thiếu những vì sao.
Thường một người biết thổi sáo hay là địch thì họ sẽ thổi lúc buồn hay lúc
vui, còn khi mà họ cảm thấy chán chường
thì họ không thổi bao giờ. Hai câu thơ trên cho ta thấy ông lái đò là
một người tài hoa. Tài hoa vì ông đọc sách và biết thổi địch, lại thổi rất hay nên tiếng địch của ông
“chở mãi hồn lên tắm bến trăng sao”.
Ở đây ông lái đò “không muốn run người ra
tiếng địch” giữa cảnh thơ mộng đầy trăng thì ta biết ông đang có tâm trạng
chán chường. Rượu đã hết, ông lái đò ngủ say nhưng không phải ông say rượu, vì
ông còn tỉnh táo để biết mình không muốn thổi địch trước cảnh trời đìu hiu, võ
vàng và thiếu những vì sao. Diều đó chứng tỏ có tâm sự trĩu nặng hồn ông khiến
ông chán chường muốn quên đời trong giấc ngủ say. Câu thơ “Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao” cũng gián tiếp nói lên sự
chán chường và phương hướng bị mất trong con người cô đơn trên bến vắng.
Bốn câu thơ diễn tả tâm trạng yếm thế của ông lái đò, cũng làm cho người
đọc cùng mang tâm trạng đó, khiến cho cái bến sông rất đẹp dưới trăng tỏa một
làn hơi lạnh, khiến cho ta cũng se lòng trước cái võ vàng, cái thiếu vắng trời
sao hay đúng ra, sự võ vàng và thiếu vắng
trong lòng ông lái đò kia.
Qua khổ thơ thứ ba tác giả hoàn toàn tả cảnh, đúng như lời mà nhà phê bình
văn học Hoài Thanh- Hoài Chân nhận xét trong
quyển “Thi nhân Việt Nam”: “Cảnh
như muốn theo lời mà tan ra. Nó chỉ mất một tí rõ ràng để được thêm rất nhiều
thơ mộng. Yến Lang cũng làm thơ lối ấy, nhưng Yến Lang đi quá xa”:
Trôi
quanh thuyền những lá vàng quá lạnh
Tơ vương
trời, nhưng chỉ rải trăng trăng,
Chiều ngui
ngút dài trôi về nẻo quạnh,
Để đêm
buồn vây phủ bến My Lăng.
Tại sao Hoài Thanh- Hoài Chân nói “Yến
Lan đi quá xa”? Quá xa vì cảnh thật thơ mộng, nhưng cái thơ mộng đó còn
như trong giấc chiêm bao. Hai câu thơ đầu nói đến tơ trăng quá lạnh. Câu thơ
thứ ba chỉ hình bóng buổi chiều trôi như ở tít một chân trời tâm tưởng. Câu thứ
tư có chữ My Lăng làm cho đêm buồn như đóng băng lóng lánh. Cả khổ thơ cho ta
một không gian mộng và với câu thơ “Chiều
ngui ngút trôi về nẻo quạnh” tác giả còn cho ta thấy dược thứ thời gian có
hình sắc “ngui ngút” bay về nơi xa tít ở chân trời. Đọc thơ ta cảm thấy lạnh
bao nhiêu thì đẹp bấy nhiêu, quạnh bao nhiêu thì đẹp bấy nhiêu, hầu như hồn ta
đang lắng vào giấc mơ và bay về bên My lăng.
Rồi thì, trong cảnh yên tịnh đó diễn biến bất ngờ xảy ra:
Nhưng
đêm kia đến một chàng kỵ mã,
Nhúng
đầy trăng màu áo ngọc lưu ly,
Chàng
gọi đò, gọi đò như hối hả
Sợ trăng
vàng rơi khuất lối chưa đi.
Trong văn chương, người kỵ mã thường là hình tượng của hiệp sĩ, của chiến
binh. Ở đây chàng kỵ mã đẹp làm sao! Đẹp ở chiếc áo dát đầy trăng, đẹp ở tiếng
gọi đò hối hả như chàng đang mang một trong trách trên người nên cần qua sông
gấp, đẹp ở chổ sự nôn nóng cũng đầy chất thơ: “Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi”. Bốn câu thơ cho ta nhìn hình
ảnh chàng ky mã lồng lộng dưới trăng và chất thơ hiển hiện trên áo, trong âm
thanh tiếng gọi đò và cả trên con đường bên bờ kia của bến My Lăng. Tiếng gọi
đò hối hả làm cho cảnh đang tỉnh thành động. Tiếng động làm cho bức tranh sống,
và sự sống vọng trong bức tranh tỉnh làm cho bức tranh hóa rộng ra, mênh mông
và xa vắng.
Qua khổ thơ thứ năm tác giả để nghịch cảnh xảy ra, một người ngủ say và một
người cứ goi đò trong đêm vắng:
Ông lão
vẫn say trăng, đầu gối sách,
Để thuyền
hồn bơi khỏi bến My Lăng,
Tiếng
gọi đò, gọi đò như oán trách,
Gọi đò
thôi run rẩy cả ngành trăng.
Khổ thơ nầy cho ta liên nghĩ đến điều gì? Liên nghĩ đến vận mệnh. Vận mệnh
của một cuộc gặp. vận mệnh của một đời người, vận mênh của quốc gia không tuy
thuộc vào ta, có khi tùy thuộc vào phút giây nào đó. Bài thơ không cho ta biết
hai người có liên quan nhau không nhưng bài thơ cũng cho ta đoán định đây là
hai con người nghĩa khí. Một người có học, canh cánh bên lòng nổi u uẩn. Một
người đang mang trọng trách trong mình.
Nếu họ gặp nhau và đưa nhau qua đò biết đâu sẽ làm việc lớn, và chuyến đò kia
sẽ là chuyến đò định mệnh. Vì họ không gặp nhau, vì định mệnh không cho họ hội
ngộ nên ông lái đò phải:
Bến My
Lăng còn lạnh, bến My Lăng
Ông lái
buồn đợi khách suốt bao trăng.
Như vậy, người khách kia đi đâu không biết nhưng ông lái đò đã phí cả thơi
gian, phí đi kinh sử, mất đi chí lớn, u uất nép mình chèo đò bao năm trên bến
My lăng để đợi một người khách sang sông, người khách sẽ làm cuộc đời ông thay
đổi. Đó là nhân vật nào ta đâu biết. Một tri kỷ? một đồng chí? Một lảnh tụ
chăng? chứ dứt khoát không phải chỉ là một chàng kỵ mã bình thường.
“Bến My Lăng” của Yến Lan có
thể cho là một bản anh hùng ca, bi hùng ca hay là một bài thơ lảng mạn tuyệt
vời. Ai hiểu sao tùy người ấy nhưng đọc nó, ta nghĩ đến hàng ngàn bến sông trên
đất Việt suốt chiều dài lịch sử bị đô hộ của dân ta,hàng vạn con người lăn mình
trong những đêm trăng, qua sông vì việc nước và hàng vạn nhân tài dấu mình đâu
đó, chờ ngày đem tài trí phụng sự quê hương. “Bến My lăng” rất đẹp, đẹp về cảnh, đẹp về người và đẹp về chí lớn
gởi trong thơ./.
*.
CHÂU THẠCH
(Tên thật: Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.
ĐT: 0929128967 - 05113894610
Email: truongvantran@hotmail.com
…………………………………………………………………………
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 21.02.2017
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét