(Nguồn ảnh: internet) |
CUNG PHÚC VÀ
MỘ PHẦN
Trong bài NHỮNG
THẮC MẮC THƯỜNG GẶP VỀ CUNG PHÚC
(xem: /nhung-thac-mac-thuong-gap-ve-cung-phuc.html) tác giả Đặng Xuân
Xuyến trả lời khá đầy đủ những thắc mắc thường gặp về sự “phù trợ” của cung
Phúc tới số phận đời người nhưng ông không chú trọng vấn đề mộ phần vì theo
ông: “Nói về mồ mả (âm đức, âm phúc) của
lá số, sách Tử Vi khá dài dòng về thế đất, mộ huyệt... kết hay không kết? Kết
như thế nào? Đương số và dòng họ (dương đức, dương phúc) được thừa hưởng ra làm
sao?... Rất nhiều sách đã đề cập khá cụ thể, chi tiết nên tôi không đề cập đến
vì thực sự không cần thiết. Muốn biết cụ thể, bạn giở sách Tử Vi, phần cung
Phúc - Đức ra đọc, sẽ tiện mà lại dễ hiểu.”. Để bổ sung những
thắc mắc mà bạn đọc muốn biết về mộ phần của cung Phúc, Đào Anh Dũng tôi xin
tổng hợp bài viết với tựa đề CUNG PHÚC VÀ MỘ PHẦN để bạn đọc tham khảo.
Xem cung Phúc có
phần quan trọng biết mình ảnh hưởng phúc đức đời nào, mộ phần
vị ấy ra sao. Đều tùy thuộc vào phúc đức thực tế của vị ấy, lại xem phần
mộ, nếu như ở cuộc đất đẹp khác với cuộc đất lạc lõng. Trong việc
này, có vai trò của vòng Tràng Sinh. Nhưng xin mở đầu trình bày
từ các chính tinh để có sự liên tục.
Vì mộ phần thì
có thể di dời, cho nên địa hình mộ trong lá số là địa hình ban đầu
khi chôn cất (theo phong tục không cải táng) hay địa hình khi cải táng đầu tiên.
Ví như cuộc đất lạc mộ, có thể di chuyển đến nơi đắc đạ hơn, thì tất
nhiên số mệnh có sự cải thiện.
Các sao trong cung
Phúc có ý nghĩa về đời tiên tổ (mấy đời tính cả bao gồm cả đời mình,
như ông nội là tổ 3 đời), cũng như ý nghĩa hình thể, để hiểu hết
hình thể cung Phúc, nên có kiến thức vềphong thủy nhất định.
I. CÁC
CHÍNH TINH:
1.
Tử Vi:
- Mộ thượng
tổ (tổ cả họ, chi họ). Nếu hãm: viễn tổ, có khi là tổ xa
xôi hiện gia phả không cho biết rõ ràng được. Dương mộ.
- Có sơn khí khá
lớn, tùy vùng mà định đoạt, nếu là vùng sơn cước, ắt có khí từ tổ sơn
to lớn triều lại, nếu trung du, đồi núi vừa phải, cũng có sơn phong
chủ chốt của vùng ấy, nếu xét bình địa thì có Thủy khí triều tụ, và có
chỗ đột khởi vì theo phong thủy thì "cao nhất thốn vi sơn", nghĩa
là có gờ đất nổi dậy, khá rõ với địa bàn bàng phẳng chung quanh.
Mộ có sơn rõ rệt thì sơn đó thuộc ThổTinh.
+ Tử đắc địa,
không có cách xấu xâm phạm: mộ tổ đã xa mà còn phát.
+ Tử gặp Kình Đà
Hỏa Linh Không Kiếp: mộ thất lạc, hoặc có người "chôn ké" cuộc đất
bên mộ. Nếu mộ thất lạc, có Lục sát mà có thêm Tuần Triệt: tìm lại được.
+
Tử ngộ Triệt: mất mộ, chết không chỗ chôn, hay sa vào hoang
địa.
+ Tử Mão Dậu:
mộ để cạnh đền chùa, thờ tự, hay chôn đất chùa.
2. Liêm Trinh:
- Mộ 7, 8 đời,
thuộc về cao tổ (có nhà cho mộ chú, bác không
phổ biến)
- Đất Hỏa tinh, vùng núi thì sơn cao, nhọn, ngọn lởm chởm
(nếu thêm Hỏa Tinh hay các sao Hỏa càng rõ). Về bình địa: đất khô, gồ ghề,
có màu vàng đỏ, nổi cao. Dương mộ.
+Liêm gặp Tồn,hay
Tướng: mả đắc địa.
+ Liêm
ngộ Sát, Phá, kiêm hao sát tinh: mộ đất bỏ hoang vu, ít coi sóc
3. Thiên
Đồng:
- Mộ tổ 4
đời. Đắc địa, cách đẹp: 3 đời.
-
Mộ để đất bình địa,lại có thủy khí (nước), tượng trưng: chỗ đất
lõm (đê nhất thốn vi thủy), kinh nghiệm đa phần cho thấy có nước thực
sự gần mộ. Về đồng bằng: chôn đất thấp. Về trung du, miền núi: đất
bình nguyên, rải rác tinh phong thấp nhỏ thuộc về Thủy Tinh (uốn nếp lòng
vòng). Dương mộ.
4. Vũ
Khúc:
- Tổ 5
đời.
- Đất cao ráo, khô,
thóang đãng, hơi trống, nổi khum khum. Vùng đồi núi: núi cao, mỏm tròn trịa,
trông như chõ, như chuông, lại giống như ngọc ấn. Dương
mộ.
+ Vũ - Triệt: hành
lộ khùng khuỳnh quanh mộ: ý nói có đường đi uốn khúc bên cạnh.
+ Vũ ngộ Tham
Khoa: đất phát anh hùng, họ nhiều tay anh hào.
+ Vũ - Tham: phát
về võ, đi xa càng phát.
+ Gặp Kình Đà Kị Hình
Khốc Hư: cuộc đất hỏng.
+ Tuần - Triệt-
Phá: cuộc đất không toàn vẹn, nhưng phát thủ công kĩ thuật hay tay.
5. Thái
Dương:
- Mộ ông (3
đời), hãm: 4 (ông cố). Sách bàn thêm, nếu ông còn thì có đắc địa vẫn là ông cố;
nếu miếu địa, không sát tinh: mộ cha, đồng thời phải thân chinh đến khu
vực nghĩa địa xem có phải mộ tốc phát hay không, mới có thể quyết.
- Đất bằng phẳng,
quang đãng, phương kì, thuộc dương long dương hướng. Thảy Dương mộ.
+ Tuần triệt: đất
hoang lạc.
+ Hóa Kị: chôn sai
thế, sai hướng.
6. Thiên
Cơ:
- 6 đời.
- Đất phát mộc, cỏ cây
xanh tươi. Dương mộ. Đất bình nguyên.
+ Cơ - Triệt -
Toái: hậu đầu mộc xiên (tinh phong hình Mộc đâm chĩa sai hướng về sau mộ)
họ hay hạn chết chóc, gỗ đè, ngã cây, ngã lầu, về hạn cũng rất cẩn
thận.
+Thai Dưỡng Cái
Hồng: phát.
+ Dương Đà: hết
phát.
7. Thiên
Phủ:
- Mả tổ (đóan
như Tử Vi). Hãm: viễn tổ không xác định.
- Cuộc đất lớn.
Vùng núi: cuộc tổ sơn. Không nhất thiết Thổ Tinh. Cũng
dương mộ.
Cách cục: xem
như Tử Vi.
8. Thái Âm:
- Mộ bà nội.
Miếu (mẹ đã mất) + quan sát thực địa tốc phát: mộ mẹ.
- Phúc phát
chỉ ứng dụng cho ngành thúc (chi dưới), người em, và người thuộc mệnh Kim
hay sao Kim thủ Mệnh.
- Đất uốn cong,
chạy dài, phì mãn, hình như cặp mày (bán nguyệt), cuộc đất trong mắt thường
hay mắt phong thủy đều thấy hữu tình, mĩ miều. Âm long, âm hướng.
+ Tuần Triệt: hoang
vu, lạc lõng.
+ Kị: chôn sai cách
cục, úng thủy.
+ Khốc Hư Đà
Kình Hình Kị hay lạc Không Vong: phù hoa giả tạo, chủ sinh ra người ưa
phù phiếm,văn chương sáo rỗng, có xu hướng đồng bóng mê tín, mắt kém, thực chất
không phát.
9. Tham Lang:
- 6 đời. Lạc nhàn:
7
- Đất khuyển hình
(con chó), tức cũng mộc tinh. Sắc đen. Nhiều cây cỏ. Vùng núi: tinh phong cao
dày, mộc hình (dù Tham Lang thuộc Thủy)
- Tham Vũ Khoa
Quyền: mộ phát, song toàn văn võ.
- Ngộ Tử, Vũ: phát
hay lắm.
- Không - Kiếp hay
Tuần Triệt: cao thấp không đều, lổn nhổn, mạch bị cắt, nhưng không tác họa
ghê gớm gì.
- Ngộ Liêm:
xương cốt đã hư nát rồi, thậm chí mộ chôn tượng trưng, hoặc mộ để đất
rất hung hiểm, đáng ngại.
10.
Cự Môn:
- 7 đời.
- Bình địa: đất vuông
vức như giải chiếu, sắc đất vàng. Cao nguyên: đồi núi vuông vức, mỏm bằng.
Thường gần công sở, công trình công.
11. Thiên
tướng:
- 5 đời.
- Ở đâu
cũng vậyđều thuộc đất bằng phẳng và cao, cuộc đất trông như cái ấn
(con dấu cổ).
Nếu không hãm đều
là mộ phần chôn cất đúng hướng đúng vị.
+ Ngộ Phá
Triệt: xương tiểu lẫn lộn cả đất xấu, hư nát.
12.
Thiên Lương:
- 7, 8 đời.
- Đất rời rạc khô
nỏ, pha cát sỏi. Đắc, không bị xâm phạm: mộ phần chôn kiểu đất có hậu chẩm
rất tốt (Chẩm: "gối", chữ này viết rất giống
chữ Trữ "thoi dệt vải "nhưng không phải chữ ấy). Đây
là 1 cách mộ đẹp. Tất cả miếu vượng đắc hãm: đất có hình xà (không
phải xà là "rắn" mà là "xà nhà" (thượng lương): có
gờ đất nổi chạy dài.
13. Thất
Sát:
- mà xa đời (cũng
7, 8 đời).
- đất khô, nóng,
sắc đỏ, cuộc đất tròn thẳng và dài. Kim hình kiêm Hỏa.
+ Sát - Phá - Phục
ngộ Triệt: gây nên họa chiến chinh (tử trận) cho con cháu.
+ Cùng Tử vi -
Khoa - Quyền: long hổ chầu phục, hổ lớn hơn long, chủ phát về võ, anh
hùng.
+ Không, Kiếp, Đà,
Diêu, Tuế: chỉ có tả thanh long, nghèo hèn, họ hiếm người.
14. Phá
Quân:
- xa đời.
- đất tản lạc, hình
thểvô địch, sơn phong khó hiện như thù ti mãtích, hay bị sụt lở. Xếp
vào Thủy tinh bên phong thủy.
+ Triệt - Phá: mộ ven
đường, gọi là "lộ bàng mộ".
II. TRUNG
TINH:
1. Văn
Xương: đất cứng, hình tròn
2. Văn
Khúc: thủy đáo đường (thủy lượn quanh mộ)
4. Thiên
Khôi: hình mũ, nổi cao, hình đầu người. Phát
văn.
5. Thiên
Việt: đất hình búa rìu, phát võ.
Các sao trên đều
chủ về mộ tổ 3 đời (ông nội), nếu tụ tập đông đủ Khôi
Việt Xương Khúc: ông nội để phúc to, nhà ấy con cháu khiến tông đường
rạng rỡ.
6. Văn
Tinh: mộ có bút sơn, thường là bút học vấn
hơn là bút phù thủy.
7.
Tả phù - Hữu bật: đất vừa phải không cao, không
có đồi núi to lớn, hình như vành khăn vấn đầu ngày xưa, hay đồi núi lờ mờ nhỏ bé.
8. Lộc
Tồn: vuông vắn cân phương, sách nói cuộc đất
thương khố (kho)
9. Hóa
Lộc: Hình Cờ, hình Thương Khố. Có sách nhận nhầm "Thương" (kho)
này với binh khí (lưỡi thương: 1 loại binh khí hay thấytrong Tam Quốc).
10. Hóa
Khoa: cuộc đất có bảng.
11. Hóa
Quyền: cuộc đất có "an bản" (tức yên ngựa), có
người đã lưu truyền là"văn bản" là không hiểu hình gì, có nhẽ do
nghe nhầm.
12. Kình
Dương: - Mộ có cách voi phục. Đắc: có bút sơn
loại tốt. Chủ phát khoa bảng, ăn học thành tài. Hãm: tinh phong dòm ngó
tức như con chó đá (thạch đầu khuyển) tức mỏm nhọn lởm chởm chầu chực vào,
hay gây sự va chạm và khó khăn, có khi hay phát những "tài lạ"
như phù thủy, đạo sĩ, mê điều huyền hoặc (ví như phát các ông
nói ra các đạo rất kì quặc), cũng có khi phát bút họa sĩ, trừ dư là
họ tài văn bất mãn, thi khó đậu, bất đắc chí.
- Có thêm Hỏa Linh
Tấu: bút này mới là hay và sinh văn tài hay chữ lắm.
- Hồng Loan, Kình
dương: thế đất mày ngài (nga mi) tức bán nguyệt. Gọi là "nga mi tác
án"
- Kình hay Đà ngộ Không:
có mả đạo táng, tức là có mả chôn trộm (người khác ké trộm)
13. Đà
La: hình răng lược, pha cát.
- Đà ngộ Mộ,
Dưỡng (đ.c): có người để trộm mả
- tùy chính tinh,
nếu hãm, hoặc gia Không Kiếp: mả để sai lạc
14. Hỏa
- Linh: đất khô, nóng, sắc đỏ, mả phát hình bút. Có
bút sơn triều tấu, nhất là Linh tinh, sinh bút hay lắm, nhưng chính tính
phải miếu vượng, không ngồi thủy địa.
15.
Không - Kiếp: Hãm địa xảy ra các trường hợp: mất
mộ (thất lạc), chết hiểm không được hương khói, mộ âm hồn,
mả chôn sai quá đỗi lạc đất hung hiểm, mả chôn sơ sài bên đường,
thậm chí không được chôn cất. Đắc: có mất mộ. Trừ dư là mộ phần
khô khan nóng nảy quá, không có thủy khí
- Ngộ Kiếp Không
hay Tuần triệt: mất mộ vùng hoang địa.
- Kiếp Không Khốc Hư Hình
Kị (hay Kình Đà): bạch tang.
- Quan phù -
Tử phù: tổn thọ, lạc mộ
- Không kiếp Mã:
mả lạc vô cùng, có long có hổ nhưng cả 2 đều ngoảnh mặt đi, sinh
người ăn chơi, phiêu dạt, thích giang hồ tứ xứ, hoặc đi xa sinh
kế vất vả, hay chết đường, tai nạn giao thông (gọi là lộ tử).
16. Đào
Hoa: mả nổi lùm như bình bát.
17. Hồng
Loan: bán nguyệt, các cách cục chim muông trong phong
thủy. Thêm Thanh long là có thứ thủy (nước) trong sạch tụ thủy.
18. Long
trì: gần ao chuôm, hay giếng
19. Phượng
các: gần nhà của, lâu đài, đất đỏ, cách cục chim muông.
- Phát
về mộ mới, tức chữ gọi là"tân phần" (giống
như Hỉ Thần, Hoa cái)
20.
Quang - Quí: có ân nhân đê mộ cho, có nhân đức
tổ tiên phù hộ: "ân quang báo ứng tiền nhân ân quang
sinh nghĩa 10 phần báo ân"
21. Quan
- Phúc: Mả chôn gần đền miếu chùa chiền thần hoàng,
nơi thờ tự nói chung, nhà có phúc lớn. chịu ảnh hưởng Mả 2
đời. Đất có địa linh.
- Quan Đà Kị:
mả táng hắc vân, tức kiểu mộ u ám, cũng hay sinh đầu óc ưa huyền
bí, u hoặc, đồng bóng.
22. Thai
- Tọa: trên trời sao Tam Thai có 3 ngôi, sao Bát
Tọa 8 ngôi, rất đẹp, nhưng cổ nhân nói mộ được cách Tam Thai Bát Tọa
như trong sách phong thủy mô tả e rất khó, vì theo sách phong thủy
cuộc đất Tam Thai - Bát Tọa rất khó kiếm. Cuộc đất Thai Tọa này cũng là
chỗ "đấng vàng" mà sấm Trạng Trình có nói, vậy kiểu đất này hiếm
hoi lắm. Thực tế Thai Tọa chỉ là mộ yên ổn thôi.
23. Hoa
Cái: hình lọng, hình hoa, hình bát. Cũng chưa chắc
chắn, chỉ là cuộc đất đẹp đúng kiểu cách nói chung. Phát
mộ mới. Cung Phúc có cách tiền Cái hậu Mã rất đẹp. Mả ấy phát
nhanh lắm, làm sang (phát quí hơn phú).
24. Thai
Phụ: tamgiác
25.
Phong Cáo: vuông
26.
Thiên hỉ: đất phù sa, đất bãi (bằng sa) mả phát,
phát về mộ mới.
Trên đây là những
lời luận còn rất đơn sơ, thiếu sót, muốn xem tinh hơn phải kết hợp thêm kiến thức
phong thủy, có thể xem bản đồ 12 cung Tử Vi tương
tự như bản đồ phong thủy, lại tham khảo tính chất ngũ hành, ví
như sao hành Hỏa thì tinh phong cũng thuộc Hỏa, hình thế địa lí là Hỏa, lại
căn cứ âm dương của sao mà định là dương long hay âm long, dương hướng hay âm
hướng.
Về địa đồ, lấy
2 cung giáp làm tả hữu, lấy cung xung chiếu làm minh đường, tam hợp làm
cách cục. Lấy sao Thanh long làm Tay Long, sao Bạch
hổ làm Tay hổ, coi ở phương vị nào tất long hổ ở về phương
vị ấy.
Lại lấy Tràng Sinh
làm khởi tổ, lấy Thanh long làm Long hành (long đang đi), nghĩa là chỗ đó
chưa để huyệt được.Xem đến phương nào nhập Mộ là khí tụ,lại xem có
sao Thủy cung Thủythì mới có ThủyKhí.
Bất cứ đắc
vượng thế nào, cần có Phượng Cái và nhất là Song Hỷ thì mộ mới kết
phát rõ rệt.
Hiện nay thời thế đổi
khác, không mấy ai xem về phong thủy mộ phần, và điều kiện xã hội
cũng không cho phép, nhưng về phần mộ sợ nhất là Mộc Dục là kết
nạp Bại Thủy, còn đáng sợ hơn Tử.
Người xưa có luận về Vòng
Tràng sinh và đại hình phong thủy, nhưng cốt yếu chưa phải ở đấy, mà ở chỗ ảnh
hưởng rộng rãi về cõi phúc ra sao, rất là quan hệ.
1. Tràng Sinh: Tràng Sinh -
Đế Vượng ta hay nói đa đinh. Nhưng tràng sinh là chỗ ngũ hành sinh
ra, khí vẫn đương non nớt và chủ sự di động, không hợp với cung Phúc.
Về hình thế hay nói có thủy bao bọc, nhưng xét đây chưa phải chỗ thủy
tụ, cũng chỉ là chỗ thủy đương xuôi chảy. Xét sơn khí, đây cũng chưa phải
chỗ núi dừng kết huyệt.
Về nhân sinh,
cung Phúc có Tràng sinh tất sinh người có trí, lại năng động, ưa điều
tiến bộ, nhưng chưa chu đáo, cuộc sinh kế tuy có sáng kiến mở mang, song
hao sức bươn chải, làm nhiều hơn tụ. Mệnh nhị hợp với tràng sinh lại tốt,
hay may mắn khỏe lẹ, được phúc đức phò trợ. Trừ dư không được hưởng
phúc tổ nhiều, mả có kết phát cũng người khác được hưởng.
2. Mộc dục: Phúc bại, ưa
sắc dục, trong họ hay có tình duyên ngang trái. Bản thân cũng vất vả, đời trôi
nổi, coi thêm cung Tật để định bệnh sắc dục, yếu sinh lí, hay mắt kém,
thận suy, phát tác vào tuổi trung niên. Khí nhà không còn vượng. Tính nết bồng
bột
3. Quan đới: Khí nhà đã
bộc lộ khởi từ vị trí này. Chủ mạnh mẽ về đường
thanh quí, nhưng khả năng giải họa chỉ bình thường thôi. Bản thân
triển vọng, có bôn ba cũng thành công đã hẹn.
4. Lâm quan: Là ngũ phúc
đáo đường. Tính giàu độc lập, cơ nghiệp bền vững, lâu dài, đảm đương cán
đáng. Chủ phú quí thọ, giải họa rất mạnh.
5. Đế Vượng: đừng tưởng
Vượng tại Phúc là hoàn mĩ. Các đời đều có đế vượng trong Phúc thì
họ đa đinh, nhân mãn nhưng bất tài, dòng họ không lấy gì làm phát.
Đương số nếu cung Mệnh đẹp thì thành công sớm nhưng dễ chịu cảnh
chóng tàn. Về phúc thọ vẫn được thừa hưởng, khả năng giải họa vẫn có,
thời không được như Lâm quan thôi.
6. Suy: mả này
còn phát. Nếu cung Mệnh đẹp không hề gì, vẫn thành công như thường.
7. Bệnh: số cực, không
có phúc phò trợ
8. Tử: Không phải
Tử mà xấu, vẫn có phát nhỏ. Thường có âm đức vừa phải, nhưng kị đi với Tử phù.
9. Mộ: phúc đẹp,
mệnh đẹp thì phát phúc, âm đức mạnh, giải họa.
10. Tuyệt: mộ vô khí, bị
xâm hại. Đương số thân tự lập, nhưng chí lớn nếu xét mệnh đẹp, không
thì cố sức vẫn bất toại. Ở đây phải biết nếu sao trong
cung ấy đắc vượng thì không tuyệt nữa.
11. Thai: Cách này phù
hợp kẻ Sát Phá Tham và Không Kiếp đắc vượng. Chính tinh ở Phúc vượng
thì số rất hay, có mộ mới kết phát, phúc phát độ trung niên, khi đó lên
rất chóng. Cung Phúc sao chính tinh hãm gia sao xấu thì cả đời bất hiển. Chính
tinh hãm, thêm có trung tinh đắc cách phò trợ, mệnh đẹp vẫn nên quan nhưng tai
họa bất ngờ, bệnh tật và không hạnh phúc về nhân sinh.
12. Dưỡng: là cách phúc
đẹp, ngay cả khi sao Tuyệt thủ mệnh vẫn không phải mệnh tuyệt khí, do
đó mà ta thấy nhiều người mệnh có sao Tuyệt vẫn hiển đạt bình thường. Đây ví
như khí phúc còn đương vun vén tài bồi.
Những sao
kể trên phải kết hợp với chính tinh, cách cục các sao, lại xem thêm cung
Mệnh cho việc luận đóan được chu tất. Ví như Tràng Sinh - Đế vượng
cư phúc chưa phải là hay, nhưng nếu chính tinh hãm địa thì Sinh vượng có
thể phù nó, nhưng chính tinh miếu vượng địa thì Đế Vượng Tràng
Sinh ở đây lại tiết giảm sức của sao đó, hay chóng nở chóng tàn. Sao
lạc nhàn gặp Lâm quan, Dưỡng, Quan đới thì không nhàn, sao miếu vượng gặp các
vị này thì duy trì sức được bền lâu. Cứ trên nguyên tắc ấy không câu
nệ đắc hãm thái quá. Đem áp dụng vào cung Mệnh cũng vậy, nhưng các
sao vòng Tràng Sinh ở cung Mệnh lại ngụ ý khác, xem ra cũng
tương tự Tử Bình, như Lâm quan thì hay khoác lác, đại ngôn,
ham hố địa vị, Quan đới tuy hiển nhưng nếu thêm Kiếp sát thiên hình là dây
oan, thêm Đào hồng kị thì tình oan trái... Đó là việc riêng của cung Mệnh,
không phải ở Phúc
*
ĐÀO ANH DŨNG
Địa chỉ: Thị tứ Phùng Hưng, xã Phùng Hưng,
huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Email: anhdungdao131@yahoo.com.vn
.
…………………………………………………………………………
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi qua email ngày 23.02.2017
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét