(Nguồn ảnh: internet) |
ĐỌC “KHI ANH CHẾT”,
THƠ LÊ MAI
KHI ANH CHẾT
Khi anh chết, anh
vẫn còn thấy đói
Anh nhìn tôi như
hỏi: có còn gì?
Mắt lệ nhòa, tôi
còn biết nói chi
Bốn phía rợn tiếng
đề pa của pháo!
Khi anh chết anh
vẫn còn muốn nói
Tâm sự gì với vòi
vọi trời cao?
Gió thương anh nên
cố sức phều phào
Bốn phía rợn tiếng
đề pa của pháo!
Khi anh chết anh
vẫn còn muốn nhắn
Nhắn nhủ gì trong
nước mắt rưng rưng?
Mắt đột nhiên biến
sắc khoảng trời rừng
Bốn phía rợn tiếng
đề pa của pháo!
Anh chết vội tôi
chôn anh cũng vội
Không đào sâu chôn
chặt mộ cho anh
Biết làm sao anh
hỡi chiến tranh
Bốn phía rợn tiếng
đề pa của pháo!
*.
LÊ MAI
LỜI
BÌNH:
Tôi là một người
lính miền Nam, Lê Mai là một chiến binh miền Bắc,
không phải vì thế
mà không thể đồng cảm nhau, nhất là bài thơ của Lê Mai chỉ nói sự
nằm xuống của một con người. Đọc toàn bộ bài thơ, lúc đầu ta tưởng
chẳng có gì đáng phải khen, người chiến binh nào khi chết ở mặt
trận thì cũng thế. Thơ anh không tiếng rên, chỉ có một chút nước
mắt, khô cằn như sỏi đá. Tuy thế, chính sự khô cằn của bài thơ làm
cho tôi thấy buốt giá, thấy rợn người và bắt tôi phải viết, viết ngay
và viết khen.
(Tác giả Châu Thạch) |
Hãy vào khổ thơ
đầu tiên:
Khi anh chết, anh
vẫn còn thấy đói
Anh nhìn tôi như
hỏi: có còn gì?
Mắt lệ nhòa, tôi
còn biết nói chi
Bốn phía rợn tiếng
đề pa của pháo!
Đọc thoáng qua
nhiều người sẽ cho rằng nhà thơ nói đến “bụng đói” của người chiến
sĩ trong phút lâm chung. Không đâu, chết mà đói là sự bình thường cúa
tất cả những người trên chiến trận, không đáng gì để đưa vào thơ.
Nhà thơ muốn nói đến cái đói khác, cái đói của người chiến binh
nhập ngũ ở thời trai trẻ, kể từ đó cuộc đời họ hứng chịu cái
đói, nhưng cái đói vật chất không đáng kể mà cái đói tinh thần mới
quan trọng: Đói tháng ngày cận kề cha mẹ, đói tình yêu thắm thiết
của em, đói niềm vui sự sống ..., nói chung đói tất cả những gì mà
tuổi thanh niên cần nhận lãnh. Chữ đói trong thơ cho ta liên nghĩ đến
tất cả những vật chất và tinh thần mà người chiến binh chịu thiếu
hụt vì phải đầu quân. Tất cả từ ngữ trong khổ thơ nầy làm vệ tinh
cho chữ “đói” và chính
cái tứ “đói” của thơ ẩn chứa
một nỗi đau bi thiết đã làm cho vế thơ đầu của bài thơ xao động con
tim người đọc. Cái hay của thơ là ở đó, ở chổ nhờ một chữ bình dị
mà chủ đạo, qua chữ ấy cả khổ thơ gây cảm kích và đi vào lòng
người..
Bước qua khổ thơ
thứ hai cũng vậy, chữ “nói’’
không chỉ là mang ý nghĩa những lời cuối cùng của người chiến sĩ
sắp lâm chung. Chữ “nói” trong
khổ thơ nầy cũng hàm chứa nỗi oan khuất của người trai trẻ phải tắt
tiếng giữa cuộc đời:
Khi anh chết anh
vẫn còn muốn nói
Tâm sự gì với vòi
vọi trời cao?
Gió thương anh nên
cố sức phều phào
Bốn phía rợn tiếng
đề pa của pháo!
Ở đây tác giả
muốn bày tỏ sự khao khát giao lưu truyền thông giữa người sắp chết
và cuộc đời. Nếu không chết người lính sẽ còn bao nhiêu năm được nói
với cha, với mẹ, với bạn bè, với em và với cả tha nhân. Chữ “nói”
trong khổ thơ nầy cũng như chữ “no” ở khổ thơ trên mang toàn bộ ý
nghĩa của đời người. Người chiến binh trước khi trút hơi thở cuối
cùng vẫn còn “thấy đói” và “muốn nói”. Cái sự thấy và muốn
ấy, không chỉ là sự thấy đói và muốn nói của thế xác mà ý nghĩa
của thơ nặng về phần tinh thần, bày tỏ sức sống, ước vọng, nhu cầu
của một sinh linh bị cắt đứt trong giây phút phủ phàng. Trong thực
tế, trước phút lâm chung vì sự đau đớn người thương binh có thể không
thấy đói, không muốn nói gì nhưng sự “thấy
đói” và “muốn nói’” trong thơ
là nỗi thiếu thốn tinh thần dằn vặt theo năm tháng của đời làm
lính, là niềm trắc ẩn chất chứa trong lòng có khi nó hiển lộ, có
khi nó nằm trong tiềm thức. Tác giả bài thơ không chỉ bộc lộ nỗi
niềm đó cho duy một chiến hửu chết trên tay ông mà ông bộc lộ nỗi
niềm đó trong chính cõi lòng ông, là cảm nhận của ông, là biểu lộ
hộ tiếng than ai oán, bày tỏ toàn bộ sự bi ai cho tất cả chiến binh
đã chết trên hai chiến tuyến đối nghịch nhau, tố cáo sự bất công cắt
đứt đời người vô lý của chiến tranh đã làm cho các tử sĩ chưa thực
hiện được dự phóng mà mình ao ước thực hiện. Cái “thấy đói” và cái “muốn nói”ở phút cuối cuộc đời là
cái thấy và muốn hoàn thành sự nghiệp còn bỏ lại dở dang giữa
trần thế
Qua khổ thứ ba
của bài thơ tác giả đề cập đến ý muốn nhắn nhủ của người tử sĩ.
Người đọc thơ nên chú ý đến câu thơ “Nhắn
nhủ gì trong nước mắt rưng rưng?”:
Khi anh chết anh
vẫn còn muốn nhắn
Nhắn nhủ gì trong
nước mắt rưng rưng?
Mắt đột nhiên biến
sắc khoảng trời rừng
Bốn phía rợn tiếng
đề pa của pháo!
Ai cũng có thể
đoán được người tử sĩ sẽ nhắn nhủ nhiều điều cho cha mẹ, cho vợ
con, cho những người thân yêu còn ở hậu phương. Thế nhưng tác giả lại
viết “nhắn nhủ gì” và đánh một
dấu hỏi (?) to tướng, làm như không biết sự thường tình ấy đã được
viết ra trong vô vàn tác phẩm. Vâng, tác giả biết đấy, nhưng ông muốn
dùng một ẩn ý trong thơ để nói đến những lời nhắn nhủ cao hơn về
những điều thiêng liêng hơn vợ con, cha mẹ, như là non sông đất nước
chẳng hạn. Những lời nhắn nhủ ấy, có thể trăm ngàn tử sĩ không nói
thành lời nhưng nó chất chứa đầy trong dòng nước mắt của họ. Những
điều nhắn nhủ đó là những điều ẩn chứa trong câu thơ “tâm sự gì với vòi vọi trời cao” ở
khổ thơ trên. Những lời nhắn nhủ “tâm
sự gì với vòi vọi trời cao” đó chính là ước muốn của họ gởi
lại cho người còn sống thực hiện cho tổ quốc, cho non sông, cho lý
tưởng mà họ từng theo đuổi chưa thành. Cái ước muốn hoặc là bồng
bột, hoặc là tiềm ẩn trong lòng suốt cuộc đời binh nghiệp của người
chiến sĩ, khi chết họ nói ra trong ánh mắt gởi lại cho bạn mình,
trong ánh mắt chan chứa yêu thương nhìn cõi đời lần cuối.
Khổ thơ chót đề
cập đến sự chôn vội vã:
Anh chết vội tôi
chôn anh cũng vội
Không đào sâu chôn
chặt mộ cho anh
Biết làm sao anh
hỡi chiến tranh
Bốn phía rợn tiếng
đề pa của pháo!
Chôn vội vã là
sự thật của chiến trường. Chôn vội vã là một ý chỉ sự khắc nghiệt
của chiến trường, cũng là một ý chỉ sư khẩn trương của người còn
sống. Chôn vội vã rồi đổ tội cho chiến tranh, “Biết làm sao anh hỡi chiến tranh” là tiếng ta thán chỉ
trích chiến tranh. Chiến tranh đã dồn con người vào thế bỏ bạn, làm
cho con người phải tự biến mình thành vô cảm khi chôn bạn mình một
cách qua loa tạm bợ.
Cả bốn khổ thơ
đều có câu cuối “Bốn phía rộn
tiếng đề pa của pháo!” khiến bài thơ như dồn dập tiếng nổ lớn,
làm cho sự khẩn trương, cấp bách như đang xảy ra và chiến trường như
đang ở gần bên người đọc. Đó là nghệ thuật dụng chữ làm cho bài thơ
sôi động nhưng mặc khác, về dụng ý: tiếng pháo dồn dập đổ xuống
trận địa chận sự “thấy đói”,
chận sự “muốn nói”, chận sự “muốn nhắn” và làm cho “chôn vội” là hình ảnh của tất cả
sự phủ phàng đổ ập xuống người chiến binh tử sĩ. Tiếng pháo dập
xuống thể hiện cho sự chèn ép, sự bất công, sự đàn áp thô bạo cắt
ngang ước muôn, tư duy, và cướp mất quyền làm người của người tử sĩ. Tiếng pháo chính là thần
chết mang đầy dẫy cái xấu của chiến tranh, làm những điều phi lý, đê hèn, đè bẹp ước muốn, bóp chết lời
nói, cắt ngang sự sống của con người.
Bài thơ “Khi Anh Chết” của Lê Mai không
chỉ diễn tả “nỗi buồn chiến tranh
viết bằng thơ” mà con là tờ cáo trạng chiến tranh viết bằng thơ.
Tờ cáo trạng viết những lời khô khan, đanh thép nhưng chất chứa tiềm
ẩn nỗi đau của vết thương không hề lành được. Không hề lành được vì
người chiến binh đã chết mất rồi trong tiếng đề pa bốn phía rợn
người của pháo./.
*
CHÂU THẠCH
(Tên thật: Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.
ĐT: 0929128967 - 05113894610
Email: truongvantran@hotmail.com
.
…………………………………………………………………………
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 01.06.2017
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét