(Lý Thường Kiệt phạt Tống ; Nguồn tranh: internet) |
ĐẠI NẠN TRUNG HOA THỜI TRUNG SỬ
(Việt Nam và đại nạn Trung Hoa)
Ngô Quyền chiến
thắng quân Nam Hán (Trung Hoa) tại Bạch Đằng Giang năm 938 (mậu tuất) và xưng
vương năm 939 (kỷ hợi), đóng đô ở Cổ Loa (thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội ngày
nay). Từ đây, nước Việt vĩnh viễn thoát ra khỏi cảnh đô hộ của Trung Hoa, nhưng
các triều đình Trung Hoa vẫn tiếp tục nhiều lần đem quân sang xâm lấn nước
Việt.
(Giáo sư Trần Gia Phụng) |
Lần thứ
nhất (981)
Sau cuộc đảo chánh
không đổ máu lật đổ nhà Đinh (968-980), Lê Hoàn lên làm vua năm 980 (canh thìn),
tiếp tục đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình ngày nay). Về sau, ông thường được sử sách
gọi là Lê Đại Hành.
Biết tình hình Đại
Cồ Việt (quốc hiệu từ thời vua Đinh Tiên Hoàng) đang xáo trộn vì chuyện đổi
ngôi, vua Trung Hoa là Tống Thái Tông (trị vì 976-997) sai sứ đem thư qua
khuyến dụ và đe dọa. Lê Hoàn (trị vì 980-1005) lấy danh nghĩa con của vua Đinh
Tiên Hoàng là Vệ Vương Đinh Toàn, xin nhà Tống (Sung, 960-1279) cho nối ngôi
vua cha. Tuy nhiên triều đình nhà Tống nắm rõ tình thế nước Nam, biết Lê Hoàn
đã giành ngôi của Đinh Toàn, con của Đinh Tiên Hoàng, nên sai người đem một thư
khác qua nói rằng “…Họ Đinh truyền nối
được ba đời [ý chỉ Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Liễn, Đinh Toàn], trẫm muốn cho Đinh Toàn
làm thống súy, khanh [chỉ Lê Hoàn] thì làm phó. Nếu Đinh Toàn không đáng tướng
tài, hãy còn tính khí trẻ con thì nên cho ngay mẹ con và thân thuộc y sang đây…”
Lê Hoàn biết không
thể tiếp tục thương lượng, nên chỉ còn con đường duy nhất là chuẩn bị lực lượng
để kháng Tống. Trong khi đó, quân Tống chia làm hai đường thủy bộ tiến vào nước
ta năm 981 (tân tỵ). Đường bộ do Hầu Nhân Bảo cùng Tôn Toàn Hưng tiến theo ngả
Lạng Sơn, còn đường thủy do Trần Khâm Tộ và Lưu Trừng từ mặt biển tiến vào bằng
đường sông Bạch Đằng.
Trên đường bộ, Hầu
Nhân Bảo tiến đến Chi Lăng (Lạng Sơn), trúng phải kế trá hàng, lọt vào vùng
phục kích của quân Việt, và bị bắt giết. Quân Việt phản công mạnh mẽ, quân Tống
thiệt hại nặng, hai bộ tướng của Hầu Nhân Bảo là Quách Quân Biện và Triệu Phụng
Huân bị bắt. Sau trận Chi Lăng, các lực lượng thủy bộ của nhà Tống đều rút lui.
Tuy chiến thắng, Lê
Hoàn vẫn phải sai sứ, dưới danh nghĩa của vua Đinh Toàn, sang nhà Tống năm 982
(nhâm ngọ) xin trả lại hai tướng đã bắt được, và xin triều cống. Nhà Tống chỉ
phong cho Lê Hoàn làm tiết độ sứ. Mãi đấn hơn 10 năm sau vào năm 993 (quý tỵ),
Lê Hoàn mới sai sứ giả trình bày với vua Tống rằng Đinh Toàn quyết định nhường
ngôi cho mình. Tống Thái Tông (trị vì 976-997) biết việc Lê Hoàn nắm quyền đã
lâu, nhưng không có cách gì khác hơn, nên sai sứ sang phong Lê Hoàn làm Tĩnh
Hải Quân tiết độ sứ Giao Chỉ Quận Vương.
Lần thứ
hai (1076-1077)
Trong thời gian nầy
nhà Tống tiếp tục cai trị Trung Hoa. Vua Tống Thần Công (trị vì 1068-1085)
phong cho Vương An Thạch (Wang An Shi) làm tể tướng năm 1069. Vương An Thạch
(1021-1086) muốn mưu tìm một chiến công ở ngoài biên cương để hỗ trợ chính sách
cải cách ở trong nước của ông ta, chuẩn bị tấn công Đại Việt.
Tại Đại Việt, nhà
Lý (1010-1225) đã khá vững vàng. Triều đình vua Lý Nhân Tông (trị vì 1072-1127)
biết được tin nầy, liền quyết định ra tay trước. Tháng 11 năm ất mão (1075),
triều đình cử Lý Thường Kiệt đánh Khâm Châu và Liêm Châu (thuộc Quảng Đông ngày
nay); và cử Tôn Đản đánh Ung Châu (tức Nam Ninh thuộc Quảng Tây ngày nay) tháng
giêng năm bính thìn (1076). Sau khi hạ thành, cả hai ông cho bắt người, lấy của
rồi rút lui về Đại Việt.
Tháng chạp năm bính
thìn (đầu năm 1077), Tống Thần Tông sai Quách Quỳ làm Chiêu thảo sứ và Triệu
Tiết làm Phó chiêu thảo sứ, đem quân sang trả thù. Lý Thường Kiệt chận quân
Tống ở sông Như Nguyệt (sông Cầu chảy qua xã Như Nguyệt, Bắc Ninh).
Quách Quỳ chuyển
quân đến sông Phú Lương (khúc sông Hồng ở Thăng Long). Lý Thường Kiệt tiếp
đánh, nhưng thế giặc rất mạnh. Máy bắn đá của địch phá chiến thuyền Việt, và
làm cho nhiều binh sĩ nước ta tử trận. Sợ binh sĩ nãn lòng, Lý Thường Kiệt phao
tin có thần nhân báo mộng và cho bốn câu thơ (bằng chữ Nho):
“Nam quốc sơn hà
nam đế cư
Tiệt nhiên định
phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ
lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan
thủ bại hư ”
Có người dịch
là:
“Sông núi nước Nam
vua Nam ở
Rành rành định phận
ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang
xâm phạm
Chúng bay sẽ bị
đánh tơi bời.“
Quân lính nghe được
những câu thơ nầy, đều hăng hái đánh giặc. Lực lượng nhà Tống bị chận đứng. Hai
bên cầm cự với nhau bất phân thắng bại. Triều đình nhà Lý đề nghị bãi binh. Nhà
Tống thấy khó thắng, đồng thời binh sĩ ở lại lâu, không hạp thủy thổ, đành chấp
thuận. Như thế, cuộc xâm lăng của nhà Tống đầu năm 1077 bắt nguồn từ việc Lý
Thường Kiệt cầm quân gây hấn nhà Tống một năm trước đó.
Lần thứ
ba (1258)
Phía tây bắc Trung
Hoa, tại Mông Cổ, đại hãn Mông Kha (Mangu, trị vì 1251-1259) cử em là Hốt Tất
Liệt (Qubilai) cầm quân tấn công Trung Hoa năm 1251. Hốt Tất Liệt sai đại tướng
Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqadai), cầm một cánh quân đánh chiếm nước Đại Lý ở
Vân Nam
năm 1257. Ngột Lương Hợp Thai sai sứ sang yêu cầu Đại Việt thần phục Mông Cổ,
nhưng vua Đại Việt lúc đó là Trần Thái Tông (trị vì 1226-1258) không chịu.
Ngột Lương Hợp Thai
liền theo đường sông Thao, tiến quân đánh nước Việt tháng 12 năm đinh tỵ (qua
năm 1258). [Sông Thao là tên gọi đoạn sông Hồng từ biên giới Hoa Việt đến ngã
ba sông Hồng và sông Đà.] Không chịu nổi sức tấn công vũ bão của quân Mông Cổ,
Trần Thái Tông bỏ kinh đô Thăng Long rút về Hưng Yên, cách Thăng Long khoảng 60
km về phía nam. Quân Mông Cổ chiếm Thăng Long, cướp phá giết hại người Việt
không kể già trẻ lớn nhỏ.
Trước thế nguy,
Trần Thái Tông hỏi ý kiến của Trần Thủ Độ nên hòa hay chiến. Ông cương quyết
trả lời: “Đầu thần chưa rơi, xin bệ hạ
đừng lo.” Chẳng bao lâu, quân Mông Cổ không quen thời tiết nước ta, bị bệnh
tật mỏi mệt. Trần Thái Tông ra lệnh phản công, đánh đuổi quân Mông Cổ về lại
Trung Hoa.
Lần thứ
tư (1285)
Năm 1259, Mông Kha
từ trần. Hốt Tất Liệt được hội đồng quý tộc Mông Cổ bầu lên làm đại hãn năm
1260. Hốt Tất Liệt tức Nguyên Thế Tổ (trị vì 1260-1294), đổi quốc hiệu là
Nguyên (Yuan), đem quân xâm chiếm hoàn toàn nước Trung Hoa vào năm 1279.(1)
Trong khi đó, tại
nước ta, Trần Thái Tông nhường ngôi cho con là Trần Hoảng, lên làm thái thượng
hoàng năm 1258 (mậu ngọ). Trần Hoảng lên ngôi tức Trần Thánh Tông (trị vì
1258-1278). Thượng hoàng Thái Tông từ trần năm 1277 (đinh sửu). Thánh Tông lên
làm thái thượng hoàng, và nhường ngôi cho thái tử Trần Khâm năm 1278 (mậu dần)
tức Trần Nhân Tông (trị vì 1278-1293).
Nguyên Thế Tổ sai
sứ là Sài Thung (Chai Chong) sang Đại Việt cuối năm 1278, hỏi vua Trần Nhân
Tông tại sao không xin phép nhà Nguyên mà tự tiện lên ngôi? Sài Thung còn buộc
nhà vua phải sang chầu hoàng đế nhà Nguyên mới được yên việc. Trần Nhân Tông
tiếp sứ tử tế, nhưng cương quyết không chịu sang chầu nhà Nguyên.
Năm 1282 (nhâm
ngọ), nhà Nguyên cử sứ sang nói rằng nếu vua nhà Trần không sang Trung Hoa, thì
cho người đại diện sang chầu. Trần Nhân Tông cử chú họ là Trần Di Ái cầm đầu
phái đoàn sang triều đình nhà Nguyên. Nguyên Thế Tổ lập tòa tuyên phủ ty, đặt
quan để sang giám trị các châu huyện nước ta. Nhân Tông không nhận, trả họ về
Trung Hoa. Nguyên Thế Tổ liền phong Trần Di Ái làm An Nam quốc vương, và sai
Sài Thung đem 1,000 quân, hộ tống Trần Di Ái về nước. Sài Thung đi vào bằng
đường Lạng Sơn. Quân nhà Trần chận đánh; Sài Thung bị bắn mù một mắt, phải quay
về nước, còn Trần Di Ái bị bắt.
Lúc đó, Nguyên Thế
Tổ muốn bành trướng xuống Đông Nam Á, nhân cơ hội nầy, phong cho con là Thoát
Hoan (Toyan) làm Trấn Nam Vương, lấy cớ mượn đường xuống Chiêm Thành, đem quân
tấn công nước Việt tháng 12 năm giáp thân (qua năm 1285). Lần nầy quân Nguyên
tấn công bằng hai đường: Thoát Hoan từ phía bắc đánh xuống, Toa Đô (Sogatu) đã
qua đánh Chiêm Thành bằng đường biển từ năm 1282, nay quay ngược trở lên đánh
Đại Việt.
Thoát Hoan dẫn quân
qua ải Chi Lăng (Lạng Sơn), nhắm Thăng Long trực chỉ. Tướng Trần Quốc Tuấn
(Hưng Đạo Vương) lui về Vạn Kiếp (Hải Dương, nơi sông Lục Nam và sông
Thương gặp nhau). Trần Nhân Tông cho người mời Trần Quốc Tuấn đến bảo: “Thế giặc mạnh như vậy, ta hãy chịu hàng để
cứu muôn dân.” Trần Quốc Tuấn trả lời: “Nếu
bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu thần trước hãy hàng.”
Quân Mông Cổ đánh
hạ Vạn Kiếp, tiến chiếm Thăng Long. Trần Quốc Tuấn rước vua về phía nam, xuống
Thanh Hoa (sau nầy là Thanh Hóa). Toa Đô từ Chiêm Thành đem quân tiến lên, bị
Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật (em vua Thánh Tông) chận đánh ở cửa Hàm Tử (Đông
An, Hưng Yên). Trần Quốc Tuấn liền đề nghị nhân đà thắng lợi nầy, tung quân
khôi phục kinh thành. Trần Nhân Tông sai thượng tướng Trần Quang Khải (em vua
Thánh Tông, anh của Nhật Duật) cùng với Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, đem quân
từ Thanh Hoa đi vòng theo đường biển, ngược sông Hồng tiến đánh quân Mông Cổ
tại bến Chương Dương (khu vực Thăng Long), rồi lên bộ bao vây thành Thăng Long.
Thoát Hoan thua chạy lên Kinh Bắc. Trong khi đó, Trần Quốc Tuấn đánh Toa Đô tại
Tây Kết (vùng Hưng Yên ngày nay). Toa Đô bị giết, Ô Mã Nhi (Omar) bỏ trốn. Trần
Quốc Tuấn tiếp tục phản công, sai hai tướng Nguyễn Khoái và Phạm Ngũ Lão phục
binh đánh tan quân Thoát Hoan ở Vạn Kiếp, trước khi Thoát Hoan trốn về nước.
Lần thứ
năm (1288)
Tức giận về sự thất
bại vừa qua, Nguyên Thế Tổ cử Thoát Hoan một lần nữa cầm quân qua đánh phục thù
vào tháng 11 năm đinh hợi (1287). Quân nhà Nguyên tiến vào nước ta bằng ba
hướng: ở giữa, Thoát Hoan tiến xuống Lạng Sơn; phía tây, một cánh quân từ Vân
Nam theo đường sông Hồng tràn vào, do Ái Lỗ (Aruc) chỉ huy; và phía đông do Ô
Mã Nhi đi trước, vượt biển Đông tiến vào sông Bạch Đằng. Theo sau có Trương Văn
Hổ tải 17 vạn thạch lương cung cấp cho quân sĩ.
Lực lượng nhà Trần
vẫn do Trần Quốc Tuấn tổng chỉ huy. Thoát Hoan chiếm Vạn Kiếp, sai Ô Mã Nhi
theo sông Lục Đầu đánh xuống Thăng Long. Thượng hoàng cùng vua Trần Nhân Tông
phải vào Thanh Hoa lánh nạn. Quân Mông Cổ đốt phá Thăng Long rồi rút lui về Vạn
Kiếp.
Ô Mã Nhi đem chiến
thuyền trở ra biển đón thuyền lương của Trương Văn Hổ. Ngang qua Vân Đồn (Quảng
Yên, nay là Vân Hải, Quảng Ninh), Trần Khánh Dư chận đánh, nhưng quân Việt bị thua.
Gặp được thuyền lương, Ô Mã Nhi cùng Trương Văn Hổ quay trở vào đất liền. Rút
kinh nghiệm vừa qua, Trần Khánh Dư để cho Ô Mã Nhi mở đường đi trước, đợi đến
khi Trương Văn Hổ tải lương theo sau, Trần Khánh Dư mới đổ phục binh, cướp hết
lương thực và khí giới. Trương Văn Hổ bỏ trốn về Trung Hoa.
Quân Nguyên càng
ngày càng cạn lương thực. Thoát Hoan kiếm cách cầu viện triều đình nhà Nguyên,
nhưng Trần Quốc Tuấn đã cho chận các đường giao thông ở Lạng Sơn. Thoát Hoan
liền quyết định rút quân. Tháng 3 năm mậu tý (1288) Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi
xuôi sông Bạch Đằng, ra biển về trước. Trần Quốc Tuấn theo kế Ngô Quyền trước
kia, sai Nguyễn Khoái dùng cọc gỗ đẽo nhọn rồi bịt sắt và cắm giữa dòng sông.
Nguyễn Khoái lừa Ô Mã Nhi đến chỗ phục binh có đóng cọc, đổ quân tấn công khi
thủy triều xuống. Trần Quốc Tuấn lại tăng viện, đánh tan chiến thuyền Mông Cổ,
và bắt sống Ô Mã Nhi.
Được tin nầy, Thoát
Hoan liền theo đường bộ rút quân về Trung Hoa. Dọc đường quân Mông Cổ bị chận
đánh một vài nơi, nhưng cuối cùng Thoát Hoan cũng thoát được. Trần Quốc Tuấn
hội các tướng, dẫn quân rước vua Trần Nhân Tông và thượng hoàng Thánh Tông trở
về Thăng Long.
Lần thứ
sáu (1407)
Năm 1400 (canh
thìn), đại thần Lê Quý Ly tức Hồ Quý Ly lật đổ vua Trần Thiếu Đế (trị vì
1398-1400), chấm dứt nhà Trần. Nhà Trần bắt đầu từ vua Thái Tông (trị vì
1225-1258) đến vua Thiếu Đế, truyền được mười hai đời, trong 175 năm.
Lê Quý Ly lên làm
vua, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, đổi quốc hiệu từ Đại Việt thành Đại Ngu,
lấy lại họ Hồ là họ của tổ tiên ông, tức Hồ Quý Ly. Làm vua được một năm, Hồ
Quý Ly lên làm thái thượng hoàng, nhường ngôi lại cho con là Hồ Hán Thương (trị
vì 1401-1407).
Trong khi đó, bên
Trung Hoa, Minh Thái Tổ (trị vì 1368-1398) qua đời năm 1398, cháu nội lên kế vị
là Minh Huệ Đế (trị vì 1399-1403). Huệ Đế làm vua chẳng được bao lâu thì bị
người chú, con của Minh Thái Tổ, lật đổ và thay thế, tức Minh Thành Tổ (trị vì
1403-1424). Minh Thành Tổ là một người đầy tham vọng, còn tham vọng hơn cả Minh
Thái Tổ.
Bang giao Việt Hoa
càng ngày càng căng thẳng vì nhà Minh đòi hỏi nhiều điều quá đáng. Năm 1404
(giáp thân), một hoàng thân nhà Trần là Trần Khang, dùng đường bộ trốn sang
kinh đô Trung Hoa, đổi tên là Trần Thiêm Bình, tự xưng là con của Trần Nghệ
Tông, tố cáo Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần và tố cáo những lời trần tình của Hồ
Hán Thương là dối trá.
Minh Thành Tổ sai
Lý Kỳ sang nước Việt thăm dò. Lý Kỳ sang nắm tình hình, rồi về nước phúc trình
cuộc đảo chánh của nhà Hồ. Hồ Hán Thương gởi biểu qua nhà Minh tạ tội, và xin
đón Thiêm Bình về làm vua. Năm 1406 (bính tuất) Minh Thành Tổ sai tướng Hàn
Quan, đem năm ngàn quân hộ tống Trần Thiêm Bình về nước. Trần Thiêm Bình vừa về
đến biên giới, liền bị Hồ Hán Thương ra lệnh bắt giết. Hồ Hán Thương cử Trần
Cung Túc cầm đầu phái bộ sang Trung Hoa biện bạch về sự giả trá của Trần Thiêm
Bình. Phái bộ bị nhà Minh giữ lại không cho về.
Tháng 9 năm đó
(bính tuất), Minh Thành Tổ cử Chu Năng làm đại tướng, cùng hai phó tướng là
Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân sang xâm lăng nước ta. Trước khi qua biên
giới, Chu Năng bị bệnh từ trần, Trương Phụ được cử lên thay. Quân Minh tiến
xuống thành Đa Bang (Sơn Tây), một đồn lũy được Hồ Hán Thương cho xây năm 1405
(ất dậu), làm tiền đồn bảo vệ Thăng Long. Trương Phụ và Mộc Thạnh chia nhau hai
mặt tấn công Đa Bang. Khi quân Việt dùng voi phản công, quân Minh dùng hỏa pháo
bắn lại. Voi sợ lửa bỏ chạy. Thành Đa Bang thất thủ, đưa đến việc thất thủ
Thăng Long.
Hồ Nguyên Trừng,
con trai đầu của Hồ Quý Ly, anh của Hồ Hán Thương, đem quân chận người Minh ở
sông Mộc Phàm (Mộc Hoàn, Hà Nam ngày nay), nhưng bị thua phải lui về cửa biển
Muộn Hải, Nam Định. Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương cùng các quan bỏ chạy vào Thanh
Hóa. Quân Minh đuổi theo. Hai bên gặp nhau ở Lỗi Giang, một phân lưu của sông
Mã (Thanh Hóa). Quân nhà Hồ thua nữa. Hồ Quý Ly cùng hai con chạy vào Nghệ An.
Tháng 5 năm đinh hợi (1407), quân Minh bắt được Hồ Quý Ly ở cửa biển Kỳ La
(huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh), và bắt Hồ Hán Thương ở núi Cao Vọng (huyện Kỳ Anh, Hà
Tĩnh), cùng toàn bộ gia đình họ Hồ. Quân Minh không giết cha con Hồ Quý Ly mà
chỉ giải về Trung Hoa.
Cần chú ý là khi
xâm lăng nước Việt lần nầy, Minh Thành Tổ đã đưa ra cho các tướng viễn chinh ba
chỉ dụ đề ngày 21-8-1406, 16-6-1407 và 24-6-1407 căn dặn và nhắc nhở các tướng
Minh thi hành chính sách đồng hóa của nhà Minh và tiêu diệt toàn bộ văn hóa
nước Việt. Chẳng những quân Minh vơ vét của cải, vàng ngọc, mà còn tịch thu gần
như toàn bộ sách vở văn chương, học thuật, tư tưởng và cả giới trí thức cũng
như nghệ nhân người Việt đem về Trung Hoa. Đây là chính sách đồng hóa của nhà
Minh trên toàn cõi đế quốc của họ.(Sẽ viết trong bài tiếp.)
Lần thứ
bẩy (1788)
Nguyên vào năm 1786
(bính ngọ), Nguyễn Huệ dẫn quân Tây Sơn ra bắc lần thứ nhất, đánh tan quân
Trịnh, tỏ ý phù Lê. Trong khi quân Tây Sơn còn ở Bắc hà, vua Lê Hiển Tông (trị
vì 1740-1786) từ trần, cháu đích tôn lên thay là Lê Chiêu Thống (trị vì
1787-1788). Khi quân Tây Sơn rút về, họ Trịnh nổi lên trở lại. Lê Chiêu Thống
viết thư nhờ Nguyễn Hữu Chỉnh, một cựu tướng nhà Lê, nay đã đầu quân theo Tây
Sơn, đang đóng ở Nghệ An, ra Thăng Long, giúp diệt trừ họ Trịnh.
Chụp lấy thời cơ,
Nguyễn Hữu Chỉnh đánh đuổi nhanh chóng quân chúa Trịnh, và trở nên chuyên quyền
không khác gì họ Trịnh. Được tin nầy, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ sai tướng Võ
Văn Nhậm cùng với Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân ra đánh Nguyễn Hữu Chỉnh vào cuối
năm 1787 (đinh mùi). Hữu Chỉnh bị bắt giết, vua Lê Chiêu Thống bỏ trốn. Võ Văn
Nhậm đặt Sùng Nhượng Công Lê Duy Cận, chú của Chiêu Thống và là anh của bà Ngọc
Hân (vợ Nguyễn Huệ), lên làm giám quốc, đứng đầu triều đình nhà Lê.
Vua Chiêu Thống
trốn lẩn quẩn ở vùng Lạng Giang. Mẹ của vua Chiêu Thống (hoàng thái hậu) bồng
con của nhà vua chạy sang Long Châu (Trung Hoa) cầu cứu nhà Thanh (1644-1911).
Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị trình lên vua Thanh Cao Tông tức Càn Long
(Ch’ien-lung / Qianlong, trị vì 1736-1795) rằng đây là cơ hội thuận tiện, mượn
cớ giúp Lê Chiêu Thống để xâm chiếm “An Nam”. Vua Càn Long, liền ra lệnh cho Sĩ
Nghị động binh bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu và Vân Nam tiến đánh
Đại Việt tháng 10 năm mậu thân (1788). Tôn Sĩ Nghị chia quân làm ba đạo, vào
nước ta bằng các đường Tuyên Quang, Cao Bằng và Lạng Sơn.
Trước sức tiến quân
ồ ạt của Tôn Sĩ Nghị, Ngô Văn Sở theo kế hoạch của Ngô Thời Nhậm, một mặt cho
người đưa thư đến Tôn Sĩ Nghị xin hoãn binh, vừa để kéo dài thời gian, vừa để
nhử địch, một mặt khác bỏ ngỏ Thăng Long, rút quân về Tam Điệp ở Ninh Bình, bảo
toàn lực lượng, chờ viện binh của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ.
Tôn Sĩ Nghị tiến
quân đến Kinh Bắc (Bắc Ninh). Vua Chiêu Thống ra đón tiếp và cùng Tôn Sĩ Nghị
vào Thăng Long ngày 20-11-mậu thân (17-12-1788). Hai ngày sau, 22-11 (19-12),
Tôn Sĩ Nghị làm lễ tấn phong cho Lê Chiêu Thống làm An Nam quốc vương.
Được tin nầy,
Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế tại Phú Xuân ngày 25-11-mậu thân (22-12-1788), lấy
hiệu là Quang Trung (trị vì 1788-1792), rồi tự mình đem quân tiến ra Bắc, nhanh
chóng đánh đuổi tan tác quân viễn chinh nhà Thanh, tạo nên chiến thắng Đống Đa
lịch sử (mồng 5 tháng giêng năm kỷ dậu, 1789), giải phóng Thăng Long và giữ
vững bờ cõi nước ta.
Kết luận:
Như thế, từ năm 939
(Ngô Quyền xưng vương) cho đến năm 1788 (Quang Trung xưng vương), trong vòng
850 năm, các triều đình Trung Hoa đã gởi quân xâm lăng nước Việt chúng ta tất
cả bảy lần. Chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm như sau:
1) Khi nào nước
Việt có sự thay đổi triều đại, hay tranh chấp quyền lực nội bộ, hay nước Việt
suy yếu, các vua Trung Hoa liền lợi dụng thời cơ để xâm lăng, nhất là khi con
cháu của các triều đại bị truất phế chạy qua Trung Hoa cầu cứu.
2) Dù lúc tấn công
nước Việt, lực lượng Trung Hoa rất mạnh, như dưới thời nhà Nguyên (Mông Cổ),
nhà Minh, hay nhà Thanh, dù người Việt lúc đầu thất bại và phải rút lui, nhưng
tổ tiên chúng ta luôn luôn cương quyết đánh đuổi xâm lăng Trung Hoa, dù phải
kháng chiến gian khổ để bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo vệ tổ quốc.
3) Trong sáu lần
Trung Hoa tấn công nước ta, lần đầu tiên do triều đình Trung Hoa muốn trả đũa
việc Lý Thường Kiệt đem quân tấn công Trung Hoa trước. Từ kinh nghiệm nầy, sau
đời nhà Lý, các triều đại từ nhà Trần trở đi, tuy cương quyết duy trì chủ quyền
quốc gia và độc lập dân tộc, nhưng không khiêu khích, để tránh bị bắc phương
trả đũa. Chỉ khi nào bắc phương xâm lăng, thì Đại Việt chống trả. Đặc biệt là
sau khi đánh đuổi quân Trung Hoa về nước, Đại Việt vẫn gởi sứ thần sang Trung
Hoa ngoại giao, mà ngày xưa gọi là triều cống, để tránh tái diễn chiến tranh.
4) Những kinh
nghiệm chống quân xâm lược Trung Quốc đã được Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc
Tuấn, trước khi từ trần năm 1300, tóm lược với vua Trần Anh Tông: “Đại khái quân giặc cậy vào trường trận, quân
ta cậy vào đoản binh, đem đoản binh đánh lại trường trận, là việc thường trong
binh pháp. Nhưng cần phải xét: nếu thấy quân giặc tràn sang như gió, như lửa,
thì thế giặc có thể dễ chống cự được; nếu giặc dùng cách chiếm cứ dần, như tằm
ăn dâu, không vơ vét của dân, không mong đánh được ngay, thì mình phải dùng
tướng giỏi, phải xem xét tình thế biến chuyển như người đánh cờ, tùy theo thời
cơ mà chế biến cho đúng, làm thế nào thu hút được binh lính như cha với con một
nhà, mới có thể dùng để chiến thắng được. Vả lại bớt dùng sức dân để làm cái kế
thâm căn cố đế, đó là thượng sách giữ nước không còn gì hơn.” (2)
Theo Trần Hưng Đạo,
Trung Hoa xâm lăng nước ta bằng hai cách: Thứ nhất, quân Trung Hoa “tràn sang
như gió, như lửa”. Thứ hai, quân Trung Hoa “chiếm cứ dần, như tằm ăn dâu, không
vơ vét của dân, không mong đánh được ngay”.
Trong hai cách nầy,
cũng theo Trần Hưng Đạo, cách thứ nhất, tức quân Trung Hoa sang đánh nước ta
như vũ bão, thì “có thể dễ chống cự được”. Ngược lại, nếu Trung Hoa tiến quân
từ từ vào nước ta, theo kiểu tằm ăn dâu, chúng ta sẽ khó chống đỡ hơn. Trong
trường hợp đó, theo Trần Hưng Đạo, muốn chiến thắng địch thủ thì chúng ta phải
tạo nội lực quốc gia bằng cách xây dựng tình đoàn kết dân tộc (như cha với con
một nhà), và nuôi dưỡng sức dân (bớt dùng sức dân) để làm kế lâu dài mà giữ
nước. Tuy nhiên, muốn tạo sự đoàn kết toàn dân và muốn nuôi dưỡng sức dân, thì
người dân phải được hưởng tự do, được công bình trước pháp luật, mới cảm thấy
có trách nhiệm bảo vệ đất nước, hăng hái bảo vệ độc lập dân tộc.
Tập đoàn lãnh đạo
cộng sản Trung Hoa chủ trương bành trướng, còn hơn cả các triều đình quân chủ
Trung Hoa ngày xưa: thôn tính Tây Tạng, xâm lăng Tân Cương, đánh chiếm hải đảo…
Năm 1979, đạo cộng sản Trung Hoa mở cuộc tấn công đại quy mô, dạy cho đạo cộng
sản Việt Nam một bài học, nhưng gặp phản ứng không thuận lợi. Rút kinh nghiệm
từ đó, hiện nay đạo cộng sản Trung Hoa quay qua thực hiện kế hoạch “tằm ăn
dâu”. Dần dần đạo cộng sản Trung Hoa chiếm đất phía bắc Việt Nam (ải Nam Quan),
chiếm biển phía đông Việt Nam (Vịnh Bắc Việt), lấn núi phía tây Việt Nam
(Trường Sơn), nghĩa là bao vây Việt Nam ba mặt bắc và đông, tây.
Tình trạng nầy thật
nguy hiểm cho tương lai Việt Nam .
Hy vọng những kinh nghiệm lịch sử của người xưa, nhất là những lời Đức Trần
Hưng Đạo đã dặn dò vua Trần Anh Tông năm 1300, có thể còn hữu ích cho người
Việt, nhằm tìm cách phòng bị và chống lại mối đe dọa thường trực từ Bắc phương.
--------------
Chú thích:
1. Khi Hốt Tất Liệt xâm lăng Trung Hoa, đặt Trung Hoa
dưới ách thống trị của Mông Cổ năm 1279 nghĩa là mặc nhiên sáp nhập Mông Cổ vào
Trung Hoa. Năm 1368, Chu Nguyên Chương lật đổ nhà Nguyên (Mông Cổ), lên làm
vua, tức Minh Thái Tổ (trị vì 1368-1398), lập ra nhà Minh. Nhà Minh cai trị
luôn Mông Cổ. Trường hợp nầy cũng xảy ra với nhà Thanh ở Mãn Châu. Cuối đời
Minh, Lý Tự Thành nổi lên ở Thiểm Tây, tự xưng vương năm 1643. Năm sau (1644),
Lý Tự Thành kéo quân chiếm Bắc Kinh, vua Minh Hoài Tông (trị vì 1628-1644) tự
tử. Tướng nhà Minh là Ngô Tam Quế thông đồng với người Mãn Thanh (nhà Thanh) ở
phía bắc, để dẹp Lý Tự Thành. Lý Tự Thành thua chạy, vua Thanh vào Bắc Kinh làm
lễ đăng quang tức Thanh Thế Tổ, niên hiệu Thuận Trị (trị vì 1644-1661). Từ đó,
nhà Thanh làm chủ Trung Hoa, Mãn Châu tự động sáp nhập vào Trung Hoa. Khi nhà
Thanh sụp đổ sau cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911, đất Mãn Châu cũng bị xem là
thuộc Trung Hoa.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông
giám cương mục, (Chữ Nho), Hà Nội: bản dịch của Nxb. Giáo Dục, 1998, tập 1, tt.
558-559.
3. Nxb. Sự Thật, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua [tài liệu của
đảng Cộng Sản Việt Nam ,
không đề tên tác giả], Hà Nội: 1979, tr. 16.
*
Mời thư giãn với nhạc phẩm GẶP NHAU TRONG RỪNG MƠ
của Bảo Chung qua tiếng hát Trọng Tấn - Tân Nhàn:
.
*
TRẦN GIA PHỤNG
Nguyên quán: tỉnh Quảng Nam.
Định cư tại: Toronto, Canada.
Email: trangiaphung@gmail.com
.
............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 27.07.2017.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét