(Chùa Hang, đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi ; Nguồn ảnh: internet) |
NGUYỄN VỸ
NHÂN CHỨNG
CỦA MỘT THỜI ĐẠI
(Tác giả Lê Ngọc Trác) |
Qua tác phẩm của
những nhà thơ, nhà văn, chúng ta thấy họ là những nhân chứng của thời đại. Nhà
thơ Nguyễn Vỹ là một trong những nhân chứng của một thời đại mà ông đã từng
sống.
Nguyễn Vỹ sinh năm
1910, trong một gia đình nhà Nho có truyền thống yêu nước ở làng Tân Phong (Tân
Hội), huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Nguyễn Vỹ là một người đa tài, suốt đời
sống bằng nghề văn và báo chí. Ông ký nhiều bút danh: Tân Phong, Lệ Chi, Cô
Diệu Huyền, Tâm Trí… Từ những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ 20, Nguyễn Vỹ đã
xuất hiện trên văn đàn, tham gia viết trên tạp chí Văn học, Tiểu thuyết thứ
Năm, Hà nội báo, Phụ nữ… ở Hà Nội. Và, là một cây bút chính luận sắc sảo trên
các tờ báo thời bấy giờ như: Le Sygne, L’ami du peuple, La patrie Annamite…
Thừa hưởng truyền
thống yêu nước của gia đình, dòng họ, Nguyễn Vỹ đã thể hiện tư tưởng chống
Pháp, chống phong kiến và chống cả Nhật Bản trong những bài báo của mình. Chính
vì vậy, năm 1937, ông bị nhà cầm quyền bắt giam 6 tháng tù ở Hà Nội vì một bài
báo chống Pháp. Năm 1940, ông lại bị Nhật Bản bắt cầm tù ở Phú Yên. Năm 1945
mới được tự do. Từ năm 1946, ông sống ở Sài Gòn. Nguyễn Vỹ đã sáng lập và điều
hành nhiều tờ báo: Dân ta, Bông lúa, Tạp chí Phổ thông, Tuần báo thiếu nhi
Thằng Bờm…
Nguyễn Vỹ bị tai
nạn giao thông tại Long An, qua đời vào ngày 4/2/1971. Ông để lại cho đời nhiều
tác phẩm với nhiều thể tài phong phú, đa dạng, phải nói là đồ sộ: Về thơ
có: Tập thơ
đầu - Premières Poésies (1934, thơ Việt - Pháp), Hoang vu (1962). Truyện ngắn: Vinh và nhục của Nguyễn Văn Nguyên (1936).
Tiểu thuyết gồm có: Đứa con hoang (1938), Người
yêu của hoàng thượng (1938), Thi
sĩ Kỳ Phong (1938), Chiếc
bóng (1941), Dây bí rợ (1957), Chiếc áo cưới màu hồng (1957), Hai thiêng liêng (1957), Mồ hôi nước mắt (1965). Chính luận
viết bằng tiếng Pháp: Kẻ thù là Nhật
Bản (1938), Cái họa Nhật
Bản (1938), Tấn kịch Việt -
Pháp (1947). Biên khảo: Những
người đàn bà lừng danh trong lịch sử (1970). Chứng tích thời đại: Tuấn, chàng trai nước Việt (1970), Văn thi sĩ tiền chiến (1970).
Nguyễn Vỹ là nhà
thơ, nhà văn và là nhà báo lão thành trong làng báo miền Nam . Ông được
người đời công nhận là một nhà báo dám nói lên sự thật. Về văn, Nguyễn Vỹ
chuyên viết tiểu thuyết xã hội. Nhà văn - Nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan
nhận định về tiểu thuyết của Nguyễn Vỹ như sau: “Ông là một người giàu tình cảm, nhìn cuộc đời bằng con mắt bi quan,
trái tim ông rung động khá nhiều…”. Cùng với tiểu thuyết và các thể tài
khác, Nguyễn Vỹ trước sau vẫn là một nhà thơ. Ông thật sự nổi tiếng về thơ. Từ
năm 1941, mặc dù có những nhận định có phần khắt khe về Nguyễn Vỹ, nhưng cả
Hoài Thanh - Hoài Chân và Vũ Ngọc Phan đều phải công nhận: “Nguyễn Vỹ là người có tài về thơ“.
Nhiều thế hệ yêu
thích bài “Sương rơi” và “Gởi Trường Tửu” của Nguyễn Vỹ.
Hoài Thanh - Hoài Chân cho rằng 2 bài thơ này thật sự là kiệt tác của Nguyễn
Vỹ. Hai bài thơ trên Nguyễn Vỹ viết với phong cách khác nhau. Ông đã tạo ra
nhạc điệu riêng trong “sương rơi”. Với
bài “Gởi Trường Tửu”,
theo thể thất ngôn trường thiên, Nguyễn Vỹ viết trong cơn say với tâm trạng bi
phẫn, u uất:
“…
Thời thế bây giờ
vẫn thấy khó
Nhà văn An Nam khổ như chó
Mỗi lần cầm bút nói
văn chương
Nhìn đàn chó đói
gặm trơ xương…”
Lời thơ thống
thiết, nói lên nỗi khổ của văn thi sỹ và những người làm báo trong bối cảnh đất
nước bị thực dân Pháp cai trị.
Trên con đường thi
ca, Nguyễn Vỹ đã từng viết:
“Ta hãy truyền một
thi hứng mới cho thế kỷ hai mươi
Ta hãy ký thác
trong vần thơ những tình sâu ý hiếm”.
Hai câu thơ trên
như một tuyên ngôn về thơ của Nguyễn Vỹ. Và, ông đã có những sáng tạo mới lạ,
đầy táo bạo trong thơ. Nguyễn Vỹ là người đề xướng trường phái thơ Bạch Nga
trên tạp chí tiểu thuyết Thứ Năm ở Hà Nội trong thập niên 30 của thế kỷ 20.
Nguyễn Vỹ đã viết những câu thơ 2 chữ và 12 chữ (Có người gọi là câu thơ 12 chân).
Sau này trên tạp chí Phổ Thông xuất bản ở Sài Gòn, Nguyễn Vỹ tiếp tục đề xướng
trường phái thơ Bạch Nga và thể thơ hình đối xứng. Bài thơ mang dạng hình học,
các hình ảnh ngộ nghĩnh, đầy mới lạ (Thơ hình đối xứng là lấy câu giữa của bài
thơ làm trục đối xứng của những câu thơ theo thứ tự đầu và cuối của toàn bài
thơ. Những bài thơ, nhìn toàn bài sau khi viết hoặc in trên giấy giống như
những bức họa, hoặc có hình lục lăng, tứ giác, hình thoi…). Trường phái mới lạ
này đã thoát ly khỏi những quy tắc thể thơ cổ truyền. Sau Nguyễn Vỹ, chúng ta
còn bắt gặp nhiều bài thơ “lạ” như thế của Phan Phụng Văn, Ngô Hữu
Đoàn và nhiều cây bút khác.
Trước khi bị tai
nạn giao thông qua đời đúng một năm, Nguyễn Vỹ viết bài thơ “Quảng Ngãi, quê hương tôi”. Lời
thơ tha thiết, ý thơ hùng hồn, Nguyễn Vỹ đã khắc họa được những nét đặc trưng
tiêu biểu về đất và người quê hương núi Ấn sông Trà:
“…
Quảng Ngãi - quê
hương tôi
Nhiệm màu guồng xe
nước
Tha thướt chập
chùng
Lên men đồng lúa
mướt
Lả lướt mênh mông
Quảng Ngãi - quê
hương tôi
Thương thương làn
mây trôi
Mơn cảnh đồi Thiên
Ấn
Vương vương sầu tơ
nắng
Nét Bút vùng phương
khôi
Quảng Ngãi - quê
hương tôi
Dòng sông rạo rực
Lưng Rồng uốn khúc
Rực rỡ ánh dương
ngời
Trùng trùng gấm vóc
Huyết lệ sử dân Hời
Từ Chiêm Thành khai
quốc
Dâng về ngôi Đại
Việt
Trọn ân tình Chúa,
Tôi
Quảng Ngãi - quê
hương tôi
Dân tình bất ly
Dân trí bất nhược
Dân đức bất suy
Dân tâm bất khuất
Khí thiêng nung đúc
Văn chương kiệt
phách hào hoa
Bất chấp cường
quyền, uy vũ
…”
Cùng với sự nghiệp
thơ, có một tác phẩm của Nguyễn Vỹ được nhiều người yêu thích và đánh giá cao,
đó là tác phẩm “Tuấn, chàng trai nước
Việt”. Tác phẩm này trước khi in thành sách trọn bộ 2 tập được
đăng tải từng kỳ trên tạp chí Phổ Thông đã thu hút được đông đảo người đọc.
Hình minh họa trong tác phẩm là một người thanh niên khôi ngô, tuấn tú, mặc
chiếc áo dài cổ truyền, đầu đội mũ cối rộng vành đã trở thành thân thuộc với
người đọc thời bấy giờ. Theo Nguyễn Vỹ thì tác phẩm “Tuấn, chàng trai nước Việt” không
phải là tiểu thuyết, không phải là hồi ký, cũng không phải là tự truyện. Nguyễn
Vỹ đã viết về những con người, những sự kiện chân thật với tư cách là nhân
chứng khách quan của thời đại. Chính vì vậy, ông gọi tác phẩm của mình là
“chứng tích thời đại“. Ông viết về xã hội Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ 20
đến năm 1945, viết về chân dung cuộc sống của một thế hệ cùng thời với ông, mà
ông đã gọi là “thế hệ Tuấn - chàng trai nước
Việt”. Nguyễn Vỹ đã ghi chép một cách đầy sáng tạo các sự kiện; phải nói là
ngồn ngộn sự kiện, đầy hấp dẫn, phong phú và đầy chân thật trong
“Tuấn, chàng trai nước Việt“. Ông trở thành người kể chuyện tài hoa, hấp
dẫn. Từ chuyện ăn mặc, thời trang, tóc tai, học hành, thi cử, chuyện làng xã,
chính trị… Từ đời sống sinh hoạt của một vùng đất, của một đất nước chuyên sống
bằng nông nghiệp lạc hậu, tiếp xúc với những phương tiện hiện đại, cơ giới, máy
móc tự động của phương Tây; đến tình cảm và suy nghĩ của một thế hệ đối với đất
nước và dân tộc.
Đọc tác phẩm này
của Nguyễn Vỹ, chúng ta thấy rõ hoàn cảnh, cuộc sống của Việt Nam từ trong
thời kỳ phong kiến, thuộc địa đến thời kỳ bùng nổ dân chủ, giành độc lập. Chúng
ta hiểu rõ tình hình kinh tế, văn hóa xã hội, cũng như những tập quán xã hội
của nước ta trong thời kỳ đầu thế kỷ 20. Tác phẩm “Tuấn, chàng trai nước Việt” đã trở thành nguồn tư liệu quý
giá giúp rất nhiều cho những nhà nghiên cứu, biên soạn, trích dẫn những phong
tục tập quán, những sinh hoạt trong đời sống, những chuyển biến lịch sử của đất
nước Việt Nam trong thời kỳ đầu của thế kỷ 20.
Với tác phẩm “Tuấn, chàng trai nước Việt”, nhà thơ
Nguyễn Vỹ là nhân chứng của một thời đại.
---------------
Tài liệu tham khảo
& trích dẫn:
- Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan (1942)
- Thi nhân Việt Nam
của Hoài Thanh - Hoài Chân (1942)
- Nguyễn Vỹ - Nhân tích của một vùng đất và một thời đại của Đỗ
Lai Thúy (Tạp chí VHNT số 7/2007)
- Tạp chí Phổ thông số 233/1970
*
LÊ NGỌC TRÁC
Địa chỉ: Khu
phố 5, phường Tân An,
thị xã Lagi, tỉnh Bình Thuận
Email: lengoctraclg@yahoo.com.vn
.
…………………………………………………………………………
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 05.10.2017
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét