(Nguồn ảnh: internet) |
THÁI QUỐC MƯU
CHIA SẺ CÙNG
HỌC GIẢ, GIÁO SƯ
NGUYỄN KHẮC THUẦN
Kính
gởi: Giáo Sư,
Học Giả, Tiến Sĩ Nguyễn Khắc Thuần,
Thưa ông.
Thật lòng, sau khi
viết về 3 chữ Thần Đạo Bi tôi không muốn viết
thêm về những sai lầm của
ông trong bộ LÊ QUÝ ĐÔN TUYỂN TẬP. Bởi, tôi không muốn ông khó xử.
Nhưng, qua THƯ TRAO ĐỔI của ông gởi đến tôi, tôi nghĩ, ngoài tôi có thể ông đã
gởi đến nhiều người khác. Nếu tôi không phúc đáp THƯ TRAO ĐỔI của ông, có lẽ
những vị đã đọc thư ấy, rất có thể hiểu lầm tôi. Vì vậy, buộc tôi phải CHIA SẺ
CÙNG ÔNG QUA BÀI VIẾT NẦY. Xin ông vui lòng cảm thông.
(Tác giả Thái Quốc Mưu) |
Trọng kính
Thái Quốc Mưu
*
* *
Ghi chú
quan trọng:
- Bài viết
được tham khảo từ Bộ sách “…….” (chưa xuất bản) của Giảng Sư, Học Giả Minh Di,
Úc Châu.
- Đặc
biệt, do chỗ thân tình giữa chúng tôi, những trích đoạn trong bài viết nầy, đã
được sự đồng ý và cho phép của Giảng Sư, Học Giả Minh Di.
- Do sách
chưa xuất bản. Tuyệt
đối cấm không ai được trích dẫn bài viết nầy.
- Bất cứ
kẻ nào vi phạm, chúng tôi sẽ truy tố trước pháp luật đúng theo Hiệp Ước Quốc Tế Về Vi Phạm Bản
Quyền.
*
* *
Sau khi bài NHỮNG
SAI LẦM CỦA HỌC GIẢ NGUYỄN KHÁC THUẦN, được phổ biến trên hệ thống truyền
thông toàn cầu (Internet). Cụ thể ở các trang Web:
- Đặng Xuân Xuyến
Blogspot. Của văn thi hữu Đặng Xuân Xuyến.
(Đăng ngày thứ Sáu
24-02-2017)
- Hai Bờ Giấy. net.
Của văn thi hữu Ca Dao.
(Tôi viết ngày June
2, 2015 và gởi đăng sau đó)
- Văn Chương
Việt.org (tôi không nhớ chủ biên)
Link: http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham & action=detail & id=22074
(Đăng ngày 01 tháng 9 năm 2015)
Đó là những trang Web. Tôi chánh thức gởi bài.
*
* *
Sau khi Học Giả,
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Khắc Thuần
đọc bài SỰ SAI LẦM CỦA HỌC GIẢ NGUYỄN KHẮC THUẦN (ở đâu đó). Mới đây,
tháng 12/2017, Ông đã phản hồi qua mail của tôi.
Trước khi khi đi vào bài CHIA SẺ dưới đây. Tôi xin
đăng lại nguyên
văn, thư Trao Đổi của Tiến sĩ Nguyễn Khắc Thuần. Và, xen kẽ vào
đó là lời chia sẻ của tôi gởi đến ông.
(Giáo sư Nguyễn Khắc Thuần) |
- CHỮ TÔ
ĐẬM LÀ NGUYÊN VĂN BÀI VIẾT CỦA GIÁO SƯ, TIẾN SĨ NGUYỄN KHẮC THUẦN.
- CHỮ
NGHIÊNG LÀ PHẦN CỦA THÁI QUỐC MƯU CHIA SẺ VỚI GIÁO SƯ, TIẾN SĨ
NGUYỄN KHẮC THUẦN.
Tình cờ khi lên mạng
Google xem, tôi đọc được bài phê bình của ông Thái Quốc Mưu và ông Đông Di về bản dịch trọn bộ LÊ QUÝ
ĐÔN TUYỂN TẬP (gồm 8 tâp) của tôi do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam ấn hành.
Tôi rất vui vì điều ấy cũng có nghĩa hai ông đã đọc sách của tôi dù theo lời
chú thích cuối bài viết, hiện nay ông Thái Quốc Mưu đang định cư tại Hoa Kỳ. Tôi nghĩ việc trao đổi hay
phê bình là hoạt động rất bình thường và nhờ vậy chúng ta mới tránh bớt được sai
sót. Tuy nhiên, tôi tự thấy cũng cần có vài lời trao đổi lại với ông Thái Quốc
Mưu.
Thứ nhất, ông đã
rất cẩn thận giới thiệu lý lịch nghề nghiệp của tôi trong bài viết của mình dù
điều đó không cần thiết. Vả chăng, ông đã sao chép gần như nguyên văn bản lý
lịch này trên mạng Google, nhưng đó lại là bản lý
lịch không biết do ai viết, hoàn toàn không đúng với thực tế.
Xin nêu một chi tiết nhỏ: tôi chưa bao giờ là bộ đội cũng chưa bao giờ là người của tạp
chí Văn nghệ Quân Giải phóng. Nhưng, điều quan trọng nhất là các nhà nghiên cứu làm việc cẩn trọng
không ai dễ dãi sử dụng tư liệu trên mạng. Tôi không có ý
khẳng định là mạng luôn viết sai, chỉ có một nhận xét nho nhỏ là trên đó chỗ
chưa đúng hơi nhiều.
Thái Quốc Mưu (TQMưu) chia sẻ:
* Thưa Gs. ông viết chính xác! Phần lý
lịch của ông tôi copy trên Google. Hiện, tôi không nhớ trang nào. Bởi tôi,
không thể tìm tiểu sử của ông ở nơi khác. Một vài chi tiết trong tiểu sử ông có vài sai lầm nhỏ như ông đã
nêu. Tuy nhiên, tôi cũng chân thành xin lỗi ông.
* Khi bình luận một
nhân vật nào, người viết nên
đặt phần tiểu sử của nhân vật ấy trên bài viết. Mục đích, cho độc giả biết nhân
vật được phê bình đó là ai? Có xứng đáng để họ viết
không? Tôi nghĩ đó là điều cần thiết. Thưa ông.
Trong bài phỏng vấn của một PV. Của Viện Nghiên Cứu Kỷ Lục. Ông đã trả
lời:
PV: Nghe nói trước đây Ông từng có một thời sống trong chiến khu với
nhiệm vụ cầm bút phục vụ chiến trường, có phải đó là thời mở đầu quá trình
cầm bút của Ông hay không?
Ts. NKTh: “Xin nêu một chi tiết nhỏ: tôi chưa bao giờ là bộ đội cũng chưa bao giờ là người của
tạp chí Văn nghệ Quân Giải phóng. (TQMưu: Câu trả lời của Giáo sư đã cho thấy, chính ông đã
đọc nên mới biết có người
viết về tiêu sử của ông, qua câu trả lời phóng viên: “là bộ đội, là người
của tạp chí Văn nghệ Quân Giải phóng”.
Thế thì, xin phép ông cho tôi được hỏi: “Ông đã đọc, thấy
người ta viết sai về mình. Tại sao ông không yêu cầu họ phải chỉnh lại cho đúng
phần viết về Tiểu sử của ông? Tôi nghĩ, đó là điều ông nên làm? Khi ông đã đọc,
thấy họ viết về ông. Ông không phản ảnh, có nghĩa là ông đã chấp nhận họ viết
về ông chính xác. Thưa,
đùng vậy không ông?)
Chiến tranh là vậy,
ai cũng phải sẵn sàng làm tất cả những gì có thể làm, miễn thật sự có ích cho
sự nghiệp cứu nước. Trên mạng
Internet chẳng hiểu ai đó đã viết rằng tôi từng có
một thời là người lính, cầm
vũ khí xông pha ra trận nhưng tôi chưa bao giờ có được vinh dự lớn lao đó. Tôi
chỉ có may mắn được thực hiện nghĩa vụ công dân, làm việc theo sự phân công của
xã hội lúc ấy là cầm bút đi phục vụ chiến trường.
Thứ hai, một bộ sách
nặng hơn 10 kg, các ông
thấy có hai chỗ sai và cộng hai chỗ này lại vẫn chưa được 10 chữ, dẫu phát
hiện đúng đi chăng nữa cũng không nên lấy đó làm chuẩn để khái quát toàn bộ
công trình. Thấy ai đó có một sợi tóc bạc rồi hùng hồn
tuyên bố rằng tóc người
đó đã bạc trắng hết, xã hội công bằng sẽ không dễ gì ủng
hộ đâu. Tôi không muốn và cũng không thích tranh luận ồn ào nhưng nhân đây cũng xin nói lại cho rõ
như sau:
- Bình đẳng như tất
cả những người yêu quý và kính trọng nghề nghiệp, tôi luôn cố gắng làm tất cả
những gì cần làm và có thể làm. Trong LÊ QUÝ ĐÔN TUYỂN TẬP. tôi đã chú giải hết
những gì tôi thấy cần chú giải và dù muốn hay không, tôi cũng phải đọc thật
nhiều thư tịch cổ. Nhiều bậc đại khoa Trung Quốc rất khen ngợi tôi,
còn hai ông chưa vừa lòng
chắc hẳn vì ông còn đọc nhiều hơn tôi. (TQMưu: Thưa Gs.
Khi viết đoạn trên đây, tôi nghĩ ông hơi chủ quan khi viết: “tôi
cũng phải đọc thật nhiều thư tịch cổ”. Tôi thiển
nghĩ, ông chưa đọc được nhiều thư tịch cổ. Và, dường như, ông hơi tự hào khi, có “Nhiều bậc đại khoa Trung Quốc rất khen ngợi tôi”. Rất tiếc, tôi không biết những bậc đại khoa đó là những ai? Nhưng,
nhìn vào thực tế, nếu quả thật “nhiều
bậc đại khoa ấy rất khen ngợi”
ông, thì, tôi xin lỗi ông cho phép tôi được nghĩ: 1)- Đầu óc những vị
đại khoa vô danh ấy có vấn đề. 2)- Có thể các ông đại khoa vô danh
ấy cũng biết những chú giải sai lầm của ông. Nhưng, họ thiếu tinh thần dũng
cảm, hoặc, cả nể không dám thẳng thắn nêu ra những sai lầm mà họ thấy được. Họ
khen ông là khen cách xã giao, cách “nói cho vừa lòng nhau”. Bởi, thực tế,
trong LÊ QUÝ ĐÔN TUYỂN TẬP có rất nhiều sai lầm. Tôi khẳng định
như vậy! Thật tình tôi không muốn nêu ra tất cả những sai lầm trong bộ sách đó
của ông. Nhưng, đoạn văn trên của ông đã “ÉP” tôi phải nêu ra. Và, tôi sẽ
chứng minh thêm những sai lầm trong bộ sách ấy ở phần sau).
- Nhưng, chú giải thư tịch cổ của Việt Nam
nếu chỉ dựa vào thư tịch cổ của Trung Quốc có lẽ chưa ổn. Dù được các bậc túc
Nho thương yêu nên trực tiếp giảng dạy nhưng tôi không bao giờ chấp nhận lặng
lẽ ngồi yên một chỗ nghiền ngẫm trước tác của các cây đại bút thuở xưa. Nhờ
chịu khó lại cũng nhờ may mắn, tôi đã tích trữ được một kho
thần tích trên 500 bản và sắc phong nhiều đến hơn ngàn
bản. Tôi đã công phu gạn lọc để loại bỏ những bản giả rồi phiên âm, dịch thuật,
hiệu đính và chú giải, nay bước
đầu công bố một phần nhỏ, quyển TỔNG TẬP SẮC PHONG VIỆT NAM của tôi đã
nặng 150 kg, hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam (Hà Nội).
Các bản thần tích và sắc phong làm giả có số lượng không nhỏ, có năm số bản giả nhiều đến hàng trăm. Ví
dụ năm 1782 sau khi được kiêu binh đưa lên ngôi Chúa, Trịnh Tông (cũng tức
Trịnh Khải) đã cho lấy hàng trăm tờ sắc phong để
khống tặng cho kiêu binh và họ về điền tên thân thích của mình vào. Dân gian
nói chung và kiêu binh nói riêng luôn luôn dựng bia theo cách của dân gian và
kiêu binh. Ba chữ Thần đạo bi do ông Thái Quốc Mưu
và ông Đông Di căn cứ vào các thư tịch cổ Trung Quốc để chú giải tuy có vẻ rất đúng nhưng chỉ đúng với sách
vở của Trung Quốc xưa chứ không đúng với thực tế của Việt Nam ta. Tôi dịch và
chú giải thư tịch cổ của người Việt trên cơ sở văn bản xưa kết hợp với kết quả
khảo sát thực tế chứ có phải ngồi dịch sách của người Hoa đâu. (TQMưu: Thưa Gs. Tôi không phủ nhận trí tuệ,
công trình của ông trong bộ sách Lê Quý Đôn, nhưng tôi tiếc
cho công trình nghiên cứu của ông chưa hoàn hảo. Và, tôi tự thấy trách nhiệm phải vạch ra
những chỗ chưa hoàn hảo ấy. Tôi nghĩ đoạn ông viết: “năm 1782 sau khi được kiêu binh đưa lên ngôi Chúa,
Trịnh Tông (cũng tức Trịnh Khải) đã cho lấy hàng
trăm tờ sắc phong để khống tặng cho kiêu binh và họ về điền tên thân thích của
mình vào. Dân gian nói chung và kiêu binh nói riêng luôn luôn dựng bia theo
cách của dân gian và kiêu binh”.
“Để rồi ông giải thích những tấm BIA của bọn kiêu binh đó là Thần Đạo Bi,
tôi nghĩ không có tính thuyết phục. Ngôn ngữ là sự đồng thuận. Cách chú giải
của ông trong ba chữ “Thần Đạo Bi”, tôi nghĩ khó thuyết phục nhiều
người. Bởi, ta không thể lấy sự việc khác đem ra so sánh rồi giải nghĩa
theo ý của riêng mình. Ba chữ “Thần Đại Bi” là cổ ngữ, ta phải giải
nghĩa ba chữ đó theo nghĩa chính của ba chữ ấy là gì? Sau đó, mới ghi thêm phần
phụ chú theo cách nghĩ riêng của mình, như thế mới chính xác. Hơn nữa THẦN ĐẠO BI chỉ thành
lập cho những người xứng đáng được lập bia, khắc lại tiểu sử trên bia để lại
cho hậu thế, họ đều là những người có danh vọng, hoặc, trong giới quyền quí,
hoặc trong giới trí thức có những phát kiến, việc làm hữu ích cho xã
hội. Còn ông đem ba chữ Thần Đạo Bi để chỉ những tấm bia của bọn kiêu
binh. Tôi nghĩ có vấn đề. Thưa Giáo sư!
- Tôi không có ý phủ
định hoàn toàn ý kiến của ông Thái Quốc Mưu nhưng thiết nghĩ là mọi vấn đề luôn có nhiều cách hóa
giải khác nhau. Tôi hy vọng sẽ có dịp được gặp gỡ và trò
chuyện với ông bởi khi trò chuyện, thế nào tôi cũng sẽ học được từ ông những
điều phù hợp với mình.
1. Tôi về hưu nay đã ngót hai mươi năm, tuy vẫn còn
được mời đến giảng cho các lớp Cao học và Nghiên cứu sinh nhưng dẫu sao cũng đã
thuộc lớp nhà giáo cao niên. Nghề nghiệp và chút vị thế xã hội nho nhỏ khiến
tôi phải luôn luôn chú ý giữ hình ảnh của mình, trang phục và ẩm thực, ngôn từ
và tác phong, giao tiếp và chữ nghĩa... đều phải thận trọng. Tôi nghĩ là trong
khắp thiên hạ, ai ai cũng sẵn lòng nghĩ và làm như tôi. Khen điều đúng nhưng đừng để bị đời chê là nịnh,
không ủng hộ điều sai nhưng đừng để bị thiên hạ phê bình
thiếu tôn trọng người
khác dù đối tượng ta nói tới còn rất trẻ. Cụ thân sinh
của tôi là bậc túc Nho, tôn sư
của tôi cũng là bậc túc Nho,
sinh thời vẫn luôn nhắc nhở tôi phải ghi nhớ điều này.... (TQMưu: Tôi
không dám xúc phạm đến những vị tiền bối, nhưng, thú thật, những vị được gọi là
TÚC NHO ta lấy cơ sở gì để gọi họ như thế?Học vị? Hoặc, lý
do nào khác? Riêng phụ thân chúng tôi, người Hoa chính thống, tốt nghiệp Cử Nhân ở Bắc Kinh, thế
nhưng, tôi chưa hề nghe ai gọi phụ thân chúng tôi là “Bậc Túc Nho”. Trước tháng
4/75, Bào huynh tôi làm Hiệu Trưởng hai trường Hoa Ngữ tại Chợ Lớn, Bào đệ tôi
là Giáo Sư Hán Việt dạy vài trường Trung Học ở Mỹ Tho, Sàigòn,
tôi cũng chẳng nghe ai bảo họ là TÚC NHO cả. Mặt khác, ông lấy tên Đông Di
nào đó, viết trong thư Trao Đổi của ông gởi cho tôi, không đúng! Vị Học giả -
vừa là thân hữu vừa là bậc đàn anh, bậc
Thầy của tôi - đã cho phép tôi trích dẫn bài viết trong bộ sách….. (chưa xuất bản) của anh ấy - Ông có bút danh MINH
DI, trước 4/1975 từng là Giảng Sư Cao Học, Đại Học ở vài Viện Đại Học. Tôi
chẳng biết khi đề cập đến tên ai đó, mà ta viết không đúng tên của họ, có phải
là không được lịch sự. Đúng không? Thưa Giáo sư?)
Đọc bài của ông Đông
Di và ông Thái Quốc Mưu,
tôi thấy hơi xa lạ với bầu khí trao đổi học thuật chân thành nên sức thuyết
phục chưa cao. Hai ông và tôi đều là những người nặng lòng
với chữ nghĩa. Chữ nghĩa đàng hoàng bao giờ cũng chỉ chuyển tải những giá trị
nhân bản và nhân văn. Thay vì tranh luận, tôi chỉ xin gửi tới hai ông lời cảm
nhận ngắn này.
Thân ái
Ts. Nguyễn Khắc
Thuần
*
* *
Trước, tôi chân thành biết ơn Giáo sư Nguyễn Khắc
Thuần đã có lời chia sẻ với tôi. Dưới đây, tôi xin làm rõ câu ông viết:
- “Thứ hai, một bộ
sách nặng hơn 10 kg, các
ông thấy có hai chỗ sai và cộng hai chỗ này lại vẫn chưa được 10 chữ, dẫu phát
hiện đúng đi chăng nữa cũng không nên lấy đó làm chuẩn để khái quát toàn bộ
công trình.” Và, tôi đã trả lời: (TQMưu: Thưa Gs. Tôi nghĩ, khi viết đoạn trên đây, ông
hơi chủ quan. Thực tế, trong LÊ QUÝ
ĐÔN TUYỂN TẬP, ông có rất nhiều sai lầm. Tôi khẳng
định như vậy!)
DƯỚI ĐÂY, TÔI XIN CHỨNG MINH THÊM NHỮNG SAI LẦM CỦA
HỌC GIẢ, TIẾN SĨ, GIÁO SƯ NGUYỄN ĐÌNH THUẦN TRONG BỘ SÁCH
LÊ QUÝ ĐÔN TUYỂN TẬP. (ở đây. tôi chỉ cô đọng và trích dẫn
thật đơn giản).
* Tiến sĩ, Học giả
Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Sách LÍ QUẬT
(1) của Hoành Cừ Tử (2) viết rằng……”. (Qu. 5. Tài Phẩm. trang 10).
Chú thích.
(1). LÍ QUẬT nghĩa
là cái hang chứa đạo lí”. SAI!
* Chia sẻ của Thái
Quốc Mưu:
- Danh xưng đầy đủ của tác phẩm trên đây là “Kinh Nghĩa
Lí Quật”. Tiếng “Lí Quật” có nghĩa là “ngôn luận đầy nghĩa lý
cao xa”. Chẳng có hang hốc gì cả. Hai tiếng “Lí
Quật” xuất từ tập “Thế Thuyết Tân Ngữ” của Lưu Nghĩa Khánh (403 - 444).
*
* *
* Tiến sĩ, Học giả
Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Sách NGỤ GIẢN
của họ Thẩm viết rằng……”. (Qu. 5. Tài Phẩm.10).
Chú thích.
- “Chúng tôi chưa được rõ về tác giả người họ Thẩm và tác phẩm NGỤ GIẢN của ông”.
* Chia sẻ của Thái
Quốc Mưu:
- Tôi, xin cấp tư liệu cho ông. “Họ Thẩm ở đây là Thẩm Tác Triết (? - ?), người thời Triệu
Tống (960 - 1279). Từ điển nhân danh Trung Hoa thì không thấy có
tên Thẩm Tác Triết. Tiểu sử của Thẩm Tác Triết chỉ được thấy vài giòng sơ lược trong một số thư tịch về Thư mục và Từ
điển về các Văn học gia.
- Thẩm Tác Triết
(Khoảng trước sau năm 1147
Công nguyên còn tại thế).
- Thẩm Tác Triết
(Văn Hiến Thông Khảo ghi là Trọng Triết), tên Tự là Minh Viễn, tên Hiệu là Ngụ
Sơn, người ở Hồ Châu; năm sanh, năm tử
của ông đều không được rõ, đại để trong khoảng trước, sau Niên
hiệu Thiệu Hưng ông vẫn còn
sống! Đậu tiến sĩ năm thứ 5 Niên hiệu Thiệu Hưng, trong khoảng Niên hiệu Thuần Hi với chức Tả Phụng
Nghị Lang ông đổi về tỉnh Giang Tây làm việc tại Cơ quan Chuyển vận. Nhân làm
thơ đụng chạm viên Trưởng Cơ quan Ngụy Đạo Bật, bị hài tội, đưa qua bên Tam quan
định đoạt, ông vì thế bất đắc chí mà qua đời.
- Tác phẩm của Thẩm
Tác Triết có Ngụ Sơn
Tập 30 Quyển (theo Văn Hiến
Thông Khảo), Ngụ Giản 10 Quyển (theo Tứ Khố Tổng Mục), về mặt khảo chứng
có những nhận thức đặc biệt”.
- Vĩnh Dung (1743 -
1790) và nhóm biên soạn cuốn “Tứ Khố Toàn Thư Giản Minh Mục Lục” có một số nhận định chi tiết hơn về Thẩm Tác Triết và
cuốn “Ngụ Giản, 10 quyển, Thẩm Tác Triết đời Tống soạn, viết như sau:
- Tài học và biện
luận của ông tương tự Tô Thức,
việc ông chê Vương An Thạch là thiển lậu, chỉ
trích Trình tử, cho
tới việc luận đàm về các phương
diện Dưỡng sinh, nỗi say mê Thiền, về các phương diện này, lí luận của ông đều
giống (Tô) Thức, nói chung đây là cái dư hưởng của Phái Mi Sơn! Về mặt khảo
cứu, ông có rất nhiều kiến giải tinh thẩm, xác đáng, chỉ mỗi việc lấy Thiền
giải Dịch là rườm rà, không thể coi như mẫu mực được.
*
* *
... sinh thời vẫn
luôn nhắc nhở tôi phải ghi nhớ điều này. ... sinh thời vẫn luôn nhắc nhở
tôi phải ghi nhớ điều này.
* Tiến sĩ, Học giả
Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Nay thấy trong KIÊN
HỒ TẬP (13) có chép về……”. (Qu. 5. Tài Phẩm. 15).
Chú thích.
- “(13) Cũng có dịch
giả phiên âm là KIÊN BIỀU TẬP nhưng căn cứ vào mặt chữ Hán, chúng tôi đọc là KIÊN HỒ TẬP. Dẫu
vậy, chúng tôi cũng đồng ý rằng phải viết là KIÊN
BIỀU TẬP mới đúng”.
* Chia sẻ của Thái
Quốc Mưu:
- Trường hợp Giáo sư cho “KIÊN BIỀU TẬP” đúng, còn
“KIÊN HỒ TẬP” là sai? Thế thì tại sao ông không viết là “KIÊN BIỀU
TẬP”? Cớ sao ông viết KIÊN HỒ TẬP rồi giải thích lòng vòng cuối cùng
lại khẳng định KIÊN BIỀU TẬP là ĐÚNG? Ngoài ra, ông có biết chữ HỒ
không thể đọc là BIỀU, vì hai chữ nầy hoàn toàn khác nhau. Chữ “HỒ”
nghĩa là trái Bầu - thuộc Bộ Qua (dưa), bên trái là chữ “KHOA” có một số nghĩa như xa xỉ, nói quá (khoa trương) đẹp đẽ…
Còn chữ “BIỀU” thì khác; chữ BIỀU cũng Bộ Qua,
ở bên trái là chữ “PHIÊU” nghĩa là sáng rõ, là nhanh…
*
* *
* Tiến sĩ, Học giả
Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Bấy giờ, Gia Quốc
Công Vũ Văn Mật làm Trấn Thủ ở Tuyên Quang vẫn theo chính sóc của Nguyên Hòa
((7)....... “. (Qu. 5. Tài Phẩm. 23).
Chú thích.
- “ (7) Chính sóc
của Nguyên Hòa nghĩa là theo chính sóc của ông Hoàng Đế có niên hiệu là Nguyên
Hòa… Nguyên nghĩa, theo chính sóc nghĩa là theo lịch, đúng ra là tính
thời gian theo niên hiệu. Tính theo niên hiệu nào là thần phục Hoàng Đế đặt
niên hiệu đó”.
* Chia sẻ của Thái
Quốc Mưu:
- Giáo sư Thuần viết: “Chính (chữ Chính ông viết có dấu sắc) sóc của
Nguyên Hòa nghĩa là theo chính sóc của ông Hoàng Đế có niên hiệu
là Nguyên Hòa…”. Trong khi chữ CHÍNH (có dấu sắc), phải đọc là CHINH (không
dấu sắc) mới đúng! CHINH là ngày đầu năm, SÓC là ngày đầu tháng (Theo Từ
Điển Từ Nguyên).
- Hồ Tam Tỉnh (1230
- 1302) chú thích “Tư
Trị Thông Giám”, viết:
“Thời cổ, một triều đại mới lên, để biểu thị lẽ “Ứng Thiên thừa vận” thì
định lại Lịch pháp với hàm ý rằng bậc Vương giả nắm được chính sự khởi đầu từ ta, cho nên bỏ LỊCH CŨ ban hành LỊCH
MỚI - Chẳng hạn Hạ triều định tháng Dần là tháng Giêng, tiếp theo đó Thương
triều lại chọn Sửu làm tháng Giêng, Chu triều thì cho Tí là tháng
Giêng, còn Tần triều thì tháng Giêng là tháng Hợi…
*
* *
* Tiến sĩ, Học giả
Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Nguyên nghĩa,
theo chính sóc nghĩa là theo lịch, đúng ra là tính thời gian theo niên hiệu.
Tính theo niên hiệu nào là thần phục Hoàng Đế đặt niên hiệu đó”.
* Chia sẻ của Thái
Quốc Mưu:
- Giáo sư giải thích như thế chưa đúng hẳn, mà phải nói là thần
phục cả một triều đại đã qui định mốc CHINH SÓC cho Lịch
pháp đó, tức từ lúc triều đại đó lên nắm vận mệnh Quốc gia, vì lẽ mốc Chinh Sóc
vốn đã được định từ vị hoàng đế khai sáng triều đại, các vua kế tiếp cứ đó mà
theo.
*
* *
* Tiến sĩ, Học giả
Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Chiêm Thành tuy
là một nước nhỏ nhưng nhân
tài cũng không ít”. (Qu. 5. Tài Phẩm. 29).
* Chia sẻ của Thái
Quốc Mưu:
- Trong nguyên tác
viết như sau: “Chiêm Thành
nhất quốc nhân tài dịch phi thiểu dã!”.
Dịch nghĩa:
- “Nhân tài của cả nước Chiêm Thành cũng không phải là ít!”. Không hề
có “tuy là một nước nhỏ” ở đây. Thưa Giáo sư.
*
* *
* Tiến sĩ, Học giả
Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Nhà ở của (Lê)
Niệm có tên là Thoát Hiên, ngụ ý hâm mộ ý chí khí Đào Chu
(1)......”. (Qu. 5. Tài Phẩm. 32).
Chú thích.
- “(1) Đào Chu nói ở đây là Phạm Lãi, người Trung Quốc thời Xuân Thu. Ông là người đã
giúp Việt Vương Câu Tiễn hạ
được Ngô Phù Sai, nhưng sau đó thì bỏ đi chu du khắp Ngũ
Hồ chứ không chịu ra làm quan cho Việt Vương Câu Tiễn”.
* Chia sẻ của Thái
Quốc Mưu:
- Đáng lẽ Giáo sư
phải chú giải thêm vì sao Phạm Lãi được gọi là Đào Chu? Đúng không ạ!
*
* *
* Tiến sĩ, Học giả
Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Sách VIỆT ĐIỆN
U LINH TẬP nói: lúc Lý Nam
Đế cùng anh là Lý Thiên Bảo chạy vào Cửu Chân...”. (Qu. 6. Phong Vực. 76).
Chú thích.
- “Cửu Chân là tên
của một quận do nhà Hán cắt đặt. Đất của quận Cửu Chân nay đại thể tương ứng
với tỉnh Thanh Hóa”. SAI!
* Chia sẻ của Thái
Quốc Mưu:
- Ông đã sai về Địa
lý cổ! Diện tích Quận Cửu Chân thời Hán không đúng như ông chú thích.
- Quận Cửu Chân từ
buổi đầu thành lập vào năm 110 trước công nguyên, trải dài xuống hơn 300 năm, cho tới hết thời kỳ Đông Hán (25 -
220), trước sau lãnh hạt vẫn bao gồm 3 tỉnh: Thanh Hóa,
Nghệ An, và Hà Tĩnh ngày nay. Trên Bản đồ, Quận Cửu Chân trải từ vĩ tuyến 20o
tới vĩ tuyến 18o. (Trung Quốc Lịch Sử Địa Đồ Tập. Tần. Tây Hán. Đông Hán).
- Đến thời Tam Quốc
(220 - 280), Ngô triều (222 - 280) phân cắt Quận Cửu Chân mà lập Quận Cửu Đức.
Trong “Tam Quốc Chí” không ghi Quận Cửu Đức lập năm nào.
- Trên Địa đồ Lịch
Sử, Quận Cửu Đức gồm 2 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay, địa thế trải từ vĩ tuyến
19o 26’ tới vĩ tuyến 18o - lãnh hạt hầu như toàn tỉnh Nghệ An trải xuống tới gần hết tỉnh Hà Tĩnh
ngày nay.
- Như vậy, Lãnh hạt Quận Cửu Chân,
từ thời điểm đó, đến năm 271 nói trên, chỉ còn một phần đất của tỉnh Thanh Hóa
ngày nay.
*
* *
* Tiến sĩ, Học giả
Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Sách NGU HÀNH
CHÍ của người thời Tống là
Phạm Hành Nhân viết rằng…………”. (Qu. 6. Phong Vực. 100).
* Chia sẻ của Thái
Quốc Mưu:
- Theo nguyên tác ở
bản Hán văn viết như sau: “Tống Phạm Thành Nhân Ngu Hành Chí vân……”. Nhưng, Bản Hán văn ở đây đã
in sai:
- Chữ “Nhân” (Người) ở câu trên, chính là chữ “Đại” (Lớn), nói rõ
hơn, chữ “Đại”. Nhưng do in SAI chữ
ĐẠI, trong nguyên bản đã bị mất nét ngang. Và như vậy, câu trên trong bản Hán văn phải là: “Tống
Phạm Thành Đại “Ngu Hành Chí” vân vân…” mới ĐÚNG!
- Nghĩa là: “Sách Ngu
Hành Chí’ của Phạm Thành Đại đời Tống”…
- Phạm Thành Đại
(1126 - 1193) là tác giả của Tập “Ngu Hành Chí”, mà Tên gọi đầy đủ là Quế
Hải Ngu Hành Chí, một tác phẩm quan trọng nói về vùng Biển Nam (Nam Hải)
thời cổ, trong đó có đất Giao Chỉ, vào thế kỷ XII. Vì vùng Nam Hải có
nhiều Quế do đó trong tựa sách có 2 chữ “Quế Hải”.
*
* *
* Tiến sĩ, Học giả
Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Theo quẻ Kiền (1)
đòi thời mở vận / Pháp hào sư (
lấy luật dụng binh”.
(Qu. 6. Phong Vực.
175).
Chú thích.
- “(1) Quẻ Kiền (hay
quẻ Càn) là một trong Bát quái : Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn và Đoài.
Quẻ Kiền được coi là biểu trưng
của trời, của quyền lực lớn, của cha, của con trai, của sự chắc chắn và bền
vững”.
- “(2) Pháp hào sư là phép cầm quân. Hào sư trong Bát quái là hào
nói về phép cầm quân”.
* Chia sẻ của Thái Quốc
Mưu: Chú thích của
Học giả, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Khắc Thuần chưa chính xác.
- Quẻ Kiền, hay Quẻ
Càn, đề cập ở câu trên không phải Quẻ Càn trong Bát Quái, mà là Quẻ
Càn trong “Lục Thập Tứ Quái” (64 QUẺ DỊCH). Nói khác đi, Quẻ Càn nói ở đây
là Quẻ Càn có 6 hào (hào là 2 loại nét liền ¾ và nét đứt - - , đơn vị
cấu thành 1 Quẻ), là loại Quẻ trong Dịch
học gọi là “Trùng Quái”. Gọi là “Trùng Quái” vì loại Quẻ 6 hào nầy do 2 quẻ,
mỗi quẻ có 3 hào, hợp lại thành. Chữ “trùng” ở đây có nghĩa là “tầng, lớp”, ý
nói lấy 1 quẻ đơn đặt lên một quẻ đơn khác thành 1 lớp, 1 tầng nữa!
- Quẻ Càn mà ông
giải thích ở trên là Quẻ Càn chỉ có 3 hào, là quẻ gọi là đơn quái.
- Thứ đến, xin ông
độc giả biết “Hào sư
trong Bát quái” là hào gì?
Ông nói hào nầy nằm “trong Bát quái”, thế thì, Bát Quái 8 X 3, 24 hào xin
ông chỉ cho hào nào là “Hào sư”?
- Trong Kinh Dịch
không có một hào nào gọi là “Hào sư”
cả. Thưa ông Giáo sư Tiến sĩ.
- Chữ “Sư” trong tiếng “hào sư” tức chỉ Quẻ Sư (Khôn /
Khảm). Sư có nghĩa là “đám đông”, là “quân đội” (quân đội cũng là một đám
đông).
- Có 2 cách giải
thích tiếng “hào sư”:
1). Hào của Quẻ Sư.
2). Hào là đơn vị
của Quẻ, không có hào thì không thành Quẻ, do đó, “hào sư” ở đây chỉ Quẻ Sư.
Phân tích rõ nữa:
Câu thơ nói: “Pháp hào Sư, lấy luật
dụng binh”.
Hào Sơ lục Quẻ Sư nói:
- “Sơ lục. Sư xuất dĩ luật, phủ, tang hung!”.
- “Hào Sơ lục. Quân ra trận thì
phải có kỷ luật, không có kỷ luật thì sẽ nguy!”.
Nếu đọc Kinh Dịch
thì sẽ hiểu ra ngay câu thơ
nói cái gì, chỉ cái gì! Như đã dẫn, ở đây câu này rõ ràng chỉ vào hào Sơ,
tức hào đầu tiên của Quẻ Sư.
BÀI # 2
* Tiến sĩ, Học giả
Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Lời dạy của thánh
hiền, gốc ở TRUNG DUNG (1) …… Lời dạy của Phật giáo và Lão giáo (3)
(trọng ở sự) thanh tĩnh hư
vô, siêu việt, tịch diệt mà không hệ lụy sự vật, cũng là những lời dạy cao
minh, để giữ độc thiện kì than (4) thôi”.
(Qu. 9. Thiền dật.
187).
Chú thích.
- “ (1) Trung
dung là một trong TỨ THƯ
(Luận ngữ, Đại học, Trung dung và Mạnh Tử). Sách này vốn có nguồn gốc từ Kinh
Thư trong NGŨ KINH……”. SAI!
- “ (4) Độc
thiện kì thân nghĩa là chỉ lo làm điều tốt đẹp cho tấm thân”.
* Chia sẻ của Thái
Quốc Mưu:
- Ông đã chú thích SAI!
Trung Dung không phải “có nguồn gốc từ Kinh Thư”! Trung Dung vốn là 1 Thiên trong sách “Lễ Ký”.
- Ông chú thích (4)
“Độc thiện kì thân nghĩa là chỉ lo làm
điều tốt đẹp cho tấm thân”. Chưa đủ!
- Câu “độc thiện
kì thân” là một câu trong sách “Mạnh Tử”: “Cổ chi nhân, đắc chí, trạch
gia ư dân; bất đắc chí, tu thân kiến ư thế! Cùng tắc độc thiện kì thân, đạt tắc
kiêm thiện thiên hạ”. / Mạnh Tử. Tận
Tâm. Thượng. XIII. 09 /.
- “Người xưa, gặp thời đắc chí thì
ân huệ trải khắp cho dân; không gặp thời thì tu thân làm gương cho đời! Gặp hoàn cảnh khốn cùng thì
riêng lo cho bản thân mình được tốt đẹp, gặp thời hiển đạt thì làm cho cả thiên
hạ cùng tốt đẹp”.
- Ở đây, nói “riêng
lo cho bản thân mình được tốt đẹp” là nói cái tốt đẹp tinh thần, là nói về
sự “tu dưỡng đạo đức, trau
dồi học vấn”, để chờ thời ra giúp đời. Ý ở đây cũng như câu: “Quân tử tàng
khí ư thân, đãi
thời nhi động” trong “Kinh Dịch”.
- Lê Quí Đôn học vấn
uyên bác, quán “Tứ Thư, Ngũ Kinh”,
thông “Thích, Lão”, cho đến bút kí, tiểu thuyết... không
loại nào Lê Quí Đôn lại không đọc qua, cho nên, nếu không đọc nhiều thì không
thể hiểu kiến giải, tư tưởng của ông
(Lê Quý Đôn). Bất cứ người nào chỉ dựa vào sự hiểu biết Hán văn,
mà trình độ chưa khả quan, mà chú thích Hán Văn, thường không chính xác.
*
* *
* Tiến sĩ, Học giả
Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Vưu Đồng (4) nói:....... “. (Qu. 9. Thiền Dật. 189).
Chú thích.
- “(4) Vưu Đồng: tên một triết gia của Trung Quốc thời cổ
đại”. Hoàn toàn SAI!
* Chia sẻ của Thái
Quốc Mưu:
- Thưa ông Tiến sĩ Nguyễn Khắc Thuần, Vưu Đồng
(1618 - 1704) chưa bao giờ là “một triết gia”. Không sống vào thời
Trung Quốc cổ đại, như ông chú thích.
- Vưu Đồng (1618 - 1704) tên Tự là Đồng Nhân, và một tên Tự nữa là Triển Thành,
tên Hiệu là Hối Am, Tây Đường Lão Nhân, Cấn Ông (có Sách chép Cấn
Trai), quê ở Trường Châu (Ngô
huyện, tỉnh Giang Tô). Ông là một thi từ gia, một nhà soạn Hí khúc
(tức Kịch), và phê bình Hí khúc vào sơ kỳ Thanh triều. Năm 1679, ông đậu Khoa Bác học Hồng Từ,
nhận chức Kiểm Thảo tại Hàn Lâm Viện, là chức quan có trách vụ biên soạn Quốc sử,
vị dưới chức Biên Tu một bậc. Sau đó Vưu Đồng tham gia việc biên tập “Minh Sử”,
được 3 năm thì xin về.
- Về Thi văn tập,
Vưu Đồng có: Tây Đường Toàn Tập. Hạc Dậu Đường.
- Về truyền kỳ tiểu
thuyết, có: Quân Thiên Lạc.
- Về Tạp kịch, có: Độc
Li Tao. Điếu Tì Bà. Đào Hoa Nguyên. Hắc Bạch Vệ. Thanh Bình Điệu. Vở kịch
sau cùng còn có tên Lý Bạch Đăng Khoa Ký.
*
* *
* Tiến sĩ, Học giả
Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Sách THƯỢNG THƯ CỐ THỰC (1) nói rằng…… (Qu. 9. Thiền Dật. 191).
- Sách THÁI BÌNH
QUẢNG KÍ (2) nói:……”. (Như
trên. 192).
Chú thích.
- “(1) THƯỢNG THƯ CỐ THỰC: Chúng tôi chưa được rõ về sách này.
- “(2) THÁI BÌNH
QUẢNG KÍ là công trình biên soạn chung của nhiều triết gia Trung Quốc, thời
Tống. Đây là một trong những bộ sách rất lớn”.
Chia sẻ của Thái Quốc
Mưu: Tôi xin cấp tư liệu cho ông:
1)- Tập “Thượng Thư Cố Thực” của Lý Xước (? - ?) triều Đường viết, nội dung ghi chép những dật
văn, tạp sự thời Đường, thỉnh thoảng có xen vào vài câu khảo đính, nhưng nhìn
chung luận đàm về Thư pháp và Hội
Họa chiếm phần lớn Sách này. Tự thuật tuy đa số là tạp sự nhưng thường trưng
dẫn nghĩa cổ, dẫn chứng quảng bác, có rất nhiều tư liệu về phương diện khảo
chứng.
- Danh xưng “Thượng Thư” trong tên tựa sách của Lý
Xước là tên Tự hay tên Hiệu của một
người. Ông nầy là huyền tôn (chắt) của Trương Gia Trinh (666 - 729), tên ông
đến nay chưa khảo được! Lý Xước mỗi lần đi đây đó thường tới ở nhà Thượng Thư,
ghi chép những gì ông nầy nói mà soạn thành tập “Thượng Thư Cố Thực”.
2)- Về “Thái Bình
Quảng Ký”, chú thích của ông trong chú thích (2) nầy, như chẳng chú thích gì cả, chưa nói là có điểm SAI!
- Khi ông chú thích
“tác phẩm được nhiều triết gia biên soạn”, có thể gây hiểu lầm đây là một tác phẩm Triết học.
- Bộ “Thái Bình
Quảng Ký” do một Ban biên tập soạn, Lý Phưởng (925 - 996) chủ biên. Khởi soạn năm 977, năm sau thì
soạn xong, nhưng đến năm 981 mới
khắc bản in. Nội dung phân theo đề tài, và gồm 92 đề tài lớn, phụ hơn 150 tiểu
loại, sưu tập hết sức phong phú, trưng dẫn dã sử, truyền kì, tiểu
thuyết từ các triều Hán, Đường cho tới đầu triều Tống, cộng được vào khoảng
trên dưới 500 tác phẩm trong đó có
nhiều tác phẩm đã thất truyền, nhờ bộ “Quảng Ký” nầy mà
thấy lại những tác phẩm đã thất truyền đó.
- Cùng năm 977 Lý
Phưởng cũng được lệnh Thái Tông (939 - 997; tại vị: 976 - 997) soạn bộ “Thái
Bình Ngự Lãm”. Ban biên tập gồm 14 người - trong đó Lý Phưởng, Hổ Mông đồng chủ biên. Khởi soạn ngày 17 / 3 năm
977, hoàn tất ngày 19/12 năm 984.
*
* *
* Tiến sĩ, Học giả
Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Mộc-hoạn là
niệm châu (7)”. (Qu. 9. Thiền Dật. 211).
Chú thích.
- “(7) Niệm châu nghĩa
là vừa tụng niệm vừa lần tràng hạt”. SAI!
* Chia sẻ của Thái
Quốc Mưu:
- Bộ “Phật Học Đại
Từ Điển” của Đinh Phúc Bảo (1874 - 1952) viết:
- “Mộc Hoạn Tử. (Thực
vật). Hựu danh vô hoạn tử, mộc thụ năng tịch tà quỉ cố danh “vô hoạn”. Kì thực
khả dĩ vi niệm châu, vị chi mộc hoạn tử. Phạm danh a lê sắt ca tử (arista)”.
Dịch nghĩa:
- “Mộc Hoạn tử.
(Thực vật). Cũng gọi vô hoạn tử, gỗ cây có thể trừ tà quỉ bởi thế mà có tên là
“vô hoạn” (không lo lắng). Trái của cây có thể dùng để làm xâu chuỗi, được gọi
là mộc hoạn tử. Tiếng Phạn gọi là a lê sắt ca tử (arista)”.
Phụ chú:
- Chữ “Hoạn”
trong “Mộc Hoạn Tử” gồm bên trái là bộ “Mộc”, bên phải là chữ “Hoạn”
có nghĩa là điều lo rầu, tai nạn, là bệnh…, như nói “hậu hoạn”, “bệnh hoạn”, “họa hoạn”.
- Niệm châu còn
gọi Số châu, Phật châu.
- Trong thư tịch cổ Trung Quốc - trong Kinh Sử và trong Y
Dược Học, mộc hoạn tử có rất nhiều danh xưng khác nhau. Trong phần lớn
các sách “Bản Thảo” (tức Sách thuốc) tên chính thức của mộc hoạn tử là “vô
hoạn tử”.
- Lý Thời Trân (1518
- 1593) cho biết một vài tên gọi khác của vô hoạn tử, như: “Tục danh Quỉ kiến sầu. Thích gia thủ vi số châu, cố
vị chi Bồ đề tử”.
- Bản Thảo Cương Mục. Qu. XXXV Hạ. Mộc: Kiều mộc loại. Vô
hoạn tử.
- “Tên gọi bình dân
là Quỉ kiến sầu. Người
ở bên Phật giáo lấy (trái của) cây này làm xâu chuỗi niệm, do đó gọi là Bồ đề
tử”.
- Mộc hoạn tử là 1 dược liệu, tên khoa học là Sapindus mukorossi
Gaertn.
Công dụng.
Trái (hơi độc). Giải nhiệt, trừ đàm; cầm tiêu chảy; trị bạch
hầu, cổ họng kéo đàm; viêm khí quản, ho dai dẳng; viêm bao tử và đường ruột cấp
tính; dùng ngoài da để trị chứng ngứa làm da nổi sần, con nít ốm o (cam tích).
Rễ. Giải nhiệt, giải
độc, tiêu đàm, ho hen; làm tan máu bầm; cảm mạo nóng sốt cao, và chứng huyết trắng của phụ nữ, và rắn độc cắn.
Vỏ cây. Trị bạch
hầu, ghẻ ngứa, phong cùi.
Lá cây. Dùng ngoài
da đắp lên vết rắn cắn.
(Tham khảo Toàn Quốc
Trung Thảo Dược Danh Giám. Tra mã
số 7198022)
- Tập “Thảo Dược học” trên đây liệt kê tất cả 77 tên gọi của
cây vô hoạn tử, phân theo 2 phương diện:
1). Tên gọi trong
Sách vở (Văn hiến danh): 26 tên gọi.
2). Tên gọi Địa
phương: 51 tên gọi.
*
* *
* Tiến sĩ, Học giả
Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Bà-lợi-chất-ba-la
nghĩa là viên sinh thụ (5) “ (Qu. 9. Thiền Dật. 212).
Chú thích.
- “(5) Viên sinh
thụ (in chữ Hán) có lẽ là viên hương thụ (chữ Hán) mới đúng. Viên hương thụ nghĩa là cây gỗ tròn
mà thơm”. SAI!
*
* *
* Thái Quốc Mưu chia sẻ:
- Thưa ông Tiến sĩ, Chữ đúng là “Viên Sinh Thụ”,
không là “Viên hương thụ” như ông sửa.
- Bộ “Phật Học Đại
Từ Điển” của Đinh Phúc Bảo viết: “Viên Sinh Thụ (tạp danh). Thụ danh.
Tại ‘Đao Lợi Thiên’ kiến thành chi Đông bắc.
- Câu Xá Luận thập
nhất viết: Đông bắc Viên Sinh thụ.
- Đồng Tụng sớ viết:
Thành ngoại Đông bắc hữu Viên Sinh thụ, thị tam thập tam Thiên thụ dục
lạc sở dã. Kì Viên Sinh Thụ bàn
căn thâm, quảng ngũ thập du thiện na, tủng cán thượng thăng, chi diệp bàng bố,
cao, quảng lượng đẳng bách do
thiện na, đỉnh diệp khai hoa, diệu hương phân phức. Thuận phong huân mãn
bách do thiện na, nghịch phong thời do biến ngũ thập”.
Dịch nghĩa:
- “Viên Sinh Thụ
(tên tạp). Tên cây. (Cây) ở phía Đông bắc thành cõi “Trời Đao Lợi”.
- Câu Xá Luận quyển
XI nói: Cây Viên Sinh
ở phía Đông bắc.
- Lời chú giải cũng
trong bài Tụng quyển này viết: Ngoài
thành, ở mé Đông bắc có cây Viên Sinh, là nơi 33 cõi Trời hưởng thụ dục lạc. Cây Viên Sinh này rễ ngoằn ngoèo, ăn
sâu, trải rộng 50 du thiện na, thân cây vút cao cành lá vươn bốn phía, thân
cao, cành trải rộng cả trăm do thiện na, hoa nở trên cành lá cao chót vót, mùi
thơm ngạt ngào! Thuận gió thì hương bay xa 100 do thiện na, còn
gió ngược thì
cũng lan xa 50 do thiện na”.
Phụ chú: Du thiện na là 1 đơn vị đo độ dài, có thuyết nói là
40 dặm, tục Ấn Độ định là 30 dặm.
- Du thiện na còn
được gọi là Do thiện na, Du tuần, Do tuần, Do diên, Du đồ na).
*
* *
* Tiến sĩ, Học giả
Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “.... Về sau các
học giả như Huệ Viễn (3), Tăng
Triệu (4) mới bắt đầu cóp nhặt lời của Trang, Liệt (5), mà thêm vào”. (Qu. 9.
Thiền Dật. 216).
Chú thích.
- “(3) Huệ Viễn là
pháp danh tình cờ trùng hợp của hai nhà sư Trung Quốc. Một người gốc họ Lý (thế kỷ VII), tác giả PHÁP
TÍNH LUẬN và một người gốc họ Giả
(thế kỉ X), tác giả của ĐẠI THỪA KINH NGHĨA. Chưa rõ
sách nầy chỉ Huệ Viễn nào. SAI!
- “(4) Tăng Triệu là
tên của một nhà sư người Trung Quốc
sống vào cuối thế kỉ IV, đầu thế kỉ V, đệ tử của Kumârajiva (Cưu Ma La Thập,
cũng gọi là Dao Tần). Tăng Triệu có công dịch kinh sách nhà Phật Bắc Phạn ra
tiếng Trung Quốc”.
* Chia sẻ của Thái
Quốc Mưu:
- Huệ Viễn mà Lê Quí
Đôn đề cập chẳng phải là Huệ Viễn nào trong 2 nhà sư ông đã chú thích.
- Huệ Viễn nói ở
đây, trong sách của Lê Quí Đôn, là Huệ Viễn sống trong khoảng thời kỳ Đông Tấn
(317 - 420), tức trong khoảng từ đầu thế kỉ thứ IV đến đầu thế kỉ thứ V.
- Sư Huệ Viễn này chính là Sơ tổ (Tổ đầu tiên) của
Tịnh Độ Tông trong Phật Giáo. Về năm sinh, năm viên tịch của Tổ Huệ Viễn đến
nay vô khả khảo.
- “Kiến Văn Tiểu
Lục” đã liệt kê nhân vật theo thứ tự thời gian. Trước là đề cập Huệ Viễn thời Đông Tấn, kế tới Tăng Triệu
(384 - 414) thời Thập Lục Quốc (304 - 436).
- Tiếp đó, ông giải
thích: Cưu Ma La Thập (344 - 413) “cũng gọi là Dao Tần”.
- Diêu Tần là tên
triều đại, chứ không là tên khác của Cưu Ma La Thập. Cao tăng này là Quốc sư của triều Hậu Tần (384 - 417). Thời
Thập Lục Quốc có 2 triều Tần, một là Tiền Tần (351 - 394) do Phù Kiện (317 -
355; tại vị: 351 - 355) khai sáng, và triều kia là Hậu Tần do Diêu Trường (330
- 393; tại vị: 384 - 393) sáng lập. Để khỏi lẫn lộn, Sử gia gọi Tiền Tần là Phù
Tần, và Hậu Tần là Diêu Tần, tức gọi theo tên họ của vị hoàng đế khai
sáng triều đại. Ông viết Dao Tần. SAI!
*
* *
* Tiến sĩ, Học giả
Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Phủ Đại Lý của
tỉnh Vân Nam
(6) ở gần với Thiên Trúc (7), tập tục đề cao Phù Đồ (8) “. (Qu. 9. Thiền Dật.
216).
Chú thích.
- “(8) Phù Đồ
(Dagoba) là tháp thờ Phật, tháp thờ di cốt của các vị tổ dòng tu Phật giáo”.
* Thái Quốc Mưu chia sẻ:
- Phù Đồ là tiếng
dịch khác của Phật Đà, tức chỉ Đức Phật; bởi vậy Phật giáo còn được gọi là Phù
Đồ đạo, những người theo Phật giáo được gọi là Phù Đồ.
- Phù Đồ còn có các
tên gọi Phù Đầu, Phật Đồ, Phù Đà, Bộ Đà, Hưu Đồ, và Vật Tha…Về sau tiếng Phù Đồ lại mới được dùng
để chỉ Phật Tháp.
- Ngoài ra, Phật
tháp, Hán Việt còn có Toát đổ ba - gọi tắt thì gọi Toát đổ, và 1 số nữa như Suất đô bà, Tố đổ ba, Tẩu đấu bà...... tất cả đều
là phiên âm từ tiếng “Stupa”.
(Tham khảo Đinh Phúc
Bảo, Phật Học Đại Từ Điển).
- Vương An Thạch (1021 - 1086) có mấy bài Luật thi đề
cập tiếng Toát đổ, Toát đổ ba:
Đạo Lâm chân cốt táng thanh tiêu,
Toát đổ thiên thu vị tịch liêu.
/ Vương
Lâm Xuyên Tập. Qu. XVII. Luật thi 4. Bắc Sơn tam vịnh. Bảo công tháp /.
Đạo Lâm xương thánh gởi mây xanh,
Tháp Phật thiên thu chẳng lặng tanh.
Và một bài khác:
Chu Ngung trạch tác a lan nhã,
Lũ ước thâm qui toát đổ ba.
/ Sđd. Qu. XXIX. Luật thi 16. Dữ Đạo Nguyên quá
Tây Trang toại du Bảo Thặng /.
Chu Ngung nhà lấy làm tăng xá,
Những hẹn mong về tháp Phật đà….
*
* *
* Tiến sĩ, Học giả
Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Cao tăng nước ta
không phải ít…………. Nay chỉ thấy có mấy bài thơ của các bậc tài giỏi chép trong LOẠI HÀM (13)
……”. (Qu. 9. Thiền Dật. 216).
Chú thích.
- “(13) LOẠI HÀM:
chúng tôi chưa được đọc sách
này”.
* Thái Quốc Mưu chia sẻ: Tôi cấp tư liệu cho ông:
- Bộ “LOẠI HÀM” đề
cập trên đây là tên gọi tắt của “Uyên Giám Loại Hàm”, 1 bộ Loại thư do Thanh Thánh tổ (1654 - 1722; tại vị: 1661 -
1722) ra lệnh soạn, hoàn tất năm 1710.
- Bộ “Uyên Giám Loại
Hàm” do nhóm Trương Anh (1637 -
1708) căn cứ các điều lệ của Bộ “Đường Loại Hàm” của Du An Kỳ (? - ?) đời
Minh, tăng điều mục mà soạn thành.
- Uyên Giám là tên
một cái Thư trai (Phòng
đọc sách) trong Cung.
- Bộ “Loại Hàm” sau
này gồm 450 Quyển, phân thành 43 Bộ, tóm 2,536 tiểu loại, tập lục văn chương,
sự tích các triều Minh (1368 - 1644), Nguyên (1279 - 1368) về trước, mục trưng dẫn cực kì
phong phú! Số quyển của Uyên Giám Loại Hàm tuy chỉ non nửa của Bộ Thái Bình Ngự
Lãm (1000 Quyển) nhưng về thiên
chương thì “Loại Hàm” lại nhiều gấp 2 lần “Ngự Lãm”.
- Đã đi vào lãnh vực
Cổ học nói chung và Sử học Trung Quốc nói riêng thì một học giả không thể không
biết những tên gọi tắt của các tác phẩm cổ, chẳng hạn:
- Thuyết Văn là tên
giản lược của Thuyết Văn Giải Tự.
- Thích Văn là tên
giản lược của Kinh Điển Thích Văn.
- Ngự Lãm là tên
giản lược của Thái Bình
Ngự Lãm.
- Hoàn Vũ Ký là tên
giản lược của Thái Bình
Hoàn Vũ Ký.
- Ngu Hành Chí là tên giản lược của Quế Hải Ngu Hành Chí.
- Thông Khảo là tên
giản lược của Văn Hiến Thông Khảo.
*
* *
* Tiến sĩ, Học giả
Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Phân thân đi giáo
hóa ở Nhật Nam
(2). (Qu. 9. Thiền Dật. 218).
Chú thích.
- “(2) Nhật Nam là
tên một trong số ba quận (Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam) vốn là đất xưa của Âu
Lạc bị nhà Hán cắt đặt để đô hộ. Đất Nhật Nam nay đại để tương ứng với khu
vực từ Nghệ An vào đến hết Thừa Thiên - Huế”. SAI!
* Chia sẻ của Thái
Quốc Mưu:
- Quận Nhật Nam thời Tây
Hán không nhỏ như ông viết.
- Căn cứ Bản đồ Lịch
sử thời Tây Hán, Quận Nhật Nam ,
từ Bắc xuống Nam ,
trải từ: Vĩ tuyến 18o đến vĩ tuyến 12o 48’. Tức từ một mảnh đất rất nhỏ, không
đáng kể, ở miền Nam của tỉnh Hà Tĩnh, trải xuống tỉnh Quảng Bình, đến một phần
miền Bắc tỉnh Khánh Hòa (Nha Trang) hiện nay.
- Trong khi đó, sau
khi nước Lâm Ấp được thành lập năm 192 khoảng cách Bắc – Nam của Quận Nhật Nam
đã thu ngắn lại, trải từ vĩ tuyến 18o tới vĩ tuyến 16o – tức giới địa ở phía
Nam chỉ tới Hải cảng Đà Nẵng hiện nay, tức lãnh địa mất đi trải dài 3o 12’.
(Tham khảo:
- Trung Quốc Lịch Sử
Địa Đồ Tập. Đệ nhị Sách. Tần. Tây Hán. Đông Hán thời kỳ.
- Tây Hán thời kỳ.
Bản đồ 35 – 36. Giao Chỉ Thích Sử Bộ.
- Đông Hán thời kỳ.
Bản đồ 63 – 64. Giao Châu Thích Sử Bộ].
- Ông Tiến sĩ nói, “Quận
Nhật Nam
là đất xưa của Âu Lạc” SAI! Không có Chân Lạp nào ở đấy cả!
Và…
Ông viết: “Đất
Nhật Nam
nay đại để tương ứng với khu vực từ Nghệ An vào đến hết Thừa Thiên – Huế”.
- Ở đoạn trên tôi đã
đưa ra sự thay đổi về mặt Địa lý Hành chánh của Quận Nhật Nam từ thời kỳ
Tây Hán qua Đông Hán. Các thời sau 2 thời này lại có thay đổi nữa.
- Sau đó, tiếp đến
các thời Tam Quốc (220 - 280), đời Tây Tấn (265 - 317) phân giới của Quận Nhật
Nam lại thay đổi.
- Căn cứ Bản đồ Lịch
sử thì Quận Nhật Nam thời Tam Quốc trải từ Bắc xuống Nam: Vĩ tuyến 18o đến
vĩ tuyến 16o 36’, tức ranh giới phía Nam, giới hạn ở sông Thọ Lãnh tỉnh Quảng
Trị hiện nay, sát bên trị sở Tỉnh. Thọ Lãnh tức sông Thạch Hãn hiện nay.
Thời kỳ nầy Quận Nhật Nam
thuộc Ngô triều (222 - 280) ở mạn Nam Đại Giang.
- Năm 278, Ngô triều
phế Quận Nhật Nam, nhập Quận Cửu Đức. Sau khi tiêu diệt Ngô triều vào tháng 3
năm 280 thì 2 năm sau, đến năm 282, Tấn triều cho hồi phục Quận Nhật Nam.
Phụ chú.
- Ngô triều đầu hàng
quân Tấn ngày Nhâm Thân (mồng 7) tháng 3 năm Canh Tý (280).
Tham khảo Tam Quốc
Chí. Qu. XLVIII. Ngô thư. Qu. III. Tam
chủ Truyện. Tôn Hạo].
- Đến triều Đông Tấn
(317 - 420) Nhật Nam không còn thuộc Trung Quốc, đất cũ của Quận từ Vĩ tuyến
16o trở xuống Lâm Ấp chiếm lãnh hết.
Tham khảo:
- Trung Quốc Lịch Sử
Địa Đồ Tập. Đệ tam Sách. Tam Quốc. Tây Tấn thời kỳ.
- Tam Quốc thời kỳ –
Ngô. Bản đồ 30 – 31. Giao Châu
- Tây Tấn thời kỳ.
Bản đồ 57 - 58. Giao Châu / Quảng Châu..
*
* *
* Tiến sĩ, Học giả
Nguyễn Khắc Thuần, viết:
- “Sơn vũ
Thu phong ngọ dạ phất
thiềm la,
Sơn vũ tiêu nhiên chẩm
lục la.
………………………
Dịch nghĩa:
Nửa đêm (1) gió thu tạt vào riềm mái nhà
Nhà núi lặng lẽ gối lên thảm xanh
…………………………… “. (Qu. 9. Thiền Dật. 241)
Chú thích.
- “(1) Ngọ dạ
(chữ Hán) là chữ của nguyên tác nhưng chúng tôi cho là bán dạ (Hán tự) mới đúng vì
bán dạ nghĩa là nửa đêm còn ngọ dạ là vô nghĩa.
Xin sửa là bán dạ”. SAI!
* Chia sẻ của Thái
Quốc Mưu:
- Thưa ông Tiến sĩ, tôi chẳng hiểu vì
sao Chữ người ta viết
ĐÚNG ông lại sửa cho
nó thành SAI!
- Nửa đêm đúng là
“Ngọ dạ”.
- Từ điển Từ
Nguyên: Ngọ dạ. Bán dạ”. // Nghĩa là: “Nửa đêm”.
- Từ điển Từ Hải: “Ngọ dạ. Vị bán dạ dã”. // Nghĩa là: “Ý nói nửa
đêm”.
- Từ điển Từ Vị: “Ngọ dạ. Dạ bán”. // Nghĩa là: “Nửa đêm”.
- NGỌ nguyên
nghĩa là giữa trưa, người ta đã
lấy cái ý “Giữa” nầy ghép với chữ “dạ” để chỉ “giữa đêm”, “nửa đêm”.
- Cũng thế, thời cổ
10 ngày được gọi là một “tuần”, sau đó người ta đã lấy cái ý “10” nầy ghép
trong các tiếng chỉ tuổi như
“ngũ tuần” là “50 tuổi”, “lục tuần” là “60 tuổi”...…
- Tiếng Ngọ dạ trong
thi ca:
a). Trong bài “Tần
Cung” Lý Hạ (790 - 816) đời Đường (618 - 907) có các câu:
Phi song phức đạo truyền trù ẩm,
Ngọ dạ đồng bàn nhị chúc hoàng.
Song cao lối gác chuyền đồ uống,
Đêm nửa khay đồng ánh nến vàng.
b).Trong bài “Vịnh
Trúc” Đường Ngạn Khiêm (? - ?) cuối thời Đường có các câu:
Nguyệt minh ngọ dạ sinh hư lại,
Ngộ thính phong thanh thị vũ thanh.
Nửa đêm trăng sáng mơ hồ tiếng,
Tiếng gió nghe lầm ấy tiếng mưa.
c). Vi Trang (836 -
910) trong bài “Ức Tích”:
Tích niên tằng hướng Ngũ Lăng du,
Ngọ dạ thanh ca nguyệt mãn lâu.
Ngũ Lăng năm cũ từng phiêu du,
Tiếng hát nửa đêm trăng khắp lầu.
Phụ chú. Thanh ca là ca mà không có nhạc khí đệm.
Hai câu này dẫn
trong “Kim Thánh Thán Tuyển Phê Đường Tài Tử Thi” (Qu. VII Hạ).
- Trong Bản Chú giải
“Vi Trang Tập Tiên Chú” của Nhiếp An Phúc 2 chữ “Ngọ dạ” chép là “Tý dạ”, cũng
có nghĩa là “nửa đêm”
- Trưng dẫn trên đây, theo ông cho rằng “ngọ dạ là
vô nghĩa”. SAI!
*
* *
Thưa Giáo Sư, Học Giả, Tiến Sĩ Nguyễn Khắc Thuần,
Những điều ông chú
giải sai trong LÊ QUÝ ĐÔN TUYỂN TẬP, tôi đã trích dẫn trên đây chỉ là
một phần, trong nhiều chú giải sai lầm khác của ông. Trường hợp có điều chi ông không hài lòng,
xin miễn thứ. Và, vui lòng, liên lạc với tôi qua Email: danviet1995@aol.com.
Kính chúc sức khỏe
ông cùng gia đình.
Kính mến!
*
THÁI QUỐC MƯU
Địa chỉ:
6395 GlenBrook Dr.
Tucker, GA 30084, USA - Hoa Kỳ.
Email:
danviet1995@aol.com
Điện thoại: 404-747-5025
.
…………………………………………………………………………
- © Tác giả giữ bản
quyền.
- Cập nhật theo nguyên
bản tác giả gửi qua email ngày 02.01.2018
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét