(Nguồn ảnh: Lê Hoàng) |
TRAO ĐỔI VỚI ÔNG
LÊ THIÊN MINH KHOA
VỀ
THI PHÁP
(Tác giả Phạm Đức Nhì) |
Đọc được bình luận của
ông Lê Thiên Minh Khoa dưới bài Phản Biện của anh Châu Thạch trên Facebook và
trang Văn Nghệ Quảng Trị. Sau đó lại nhận được link bài viết từ người phụ trách
trang web Bông Tràm với lời nhắn “Kính gửi anh Phạm Đức Nhì bài anh Châu Thạch
đề nghị đăng”. Tuy nhiên, vì bận viết trả lời anh Châu Thạch nên hôm nay mới có
dịp trả lời ông Khoa. Rất mong ông thông cảm cho sự chậm trễ. Về phương cách
tranh luận, tôi sẽ ghi lại những nhận xét, phê bình của ông từng điểm một và
dưới đó là phản biện của tôi.
I/
Lê Thiên Minh Khoa:
(Nhà thơ Lê Thiên Minh Khoa) |
Thi pháp là một thuật
ngữ của một của một ngành học mới “thi pháp học”, một chuyên ngành hẹp của lý
luận văn học (và của cả Mỹ học nữa). Là thuật ngữ thì nó có nghĩa khái niệm
được chuyên ngành qui ước, không thể tự hiểu tự định nghĩa theo ý hạn hẹp chủ
quan mình như Ông Nhì đã phát biểu: “Thi pháp (poetics) là phương pháp, quy
tắc làm thơ - sử dụng vần, nhịp điệu (và các phương tiện thẩm mỹ khác của thơ)
nối kết các con chữ thành một thế trận để chuyển tải thông điệp và cảm xúc của
thi sĩ đến độc giả.” Cách hiểu của Ông Nhì có nhiều cái sai:
- Trước hết, không nên
chiết tự từ (vì thuật ngữ nầy đã có sẵn nghĩa qui ước của thuật ngữ do môn khoa
học nầy quy định) mà lại hiểu đơn giản: thi là thơ; pháp là phép, rồi suy ra:
thi pháp la quy tắc làm thơ!...
Phạm Đức Nhì:
Ông Khoa không cà kê dê
ngông nên tôi cũng đi thẳng vào đề tài. Truớc hết tôi xin đưa ra một số định
nghĩa về thi pháp (Poetics) thường được sử dụng trong các bài viết bàn luận văn
học:
Thi Pháp (Poetics):
1/
Định nghĩa theo
kiểu chiết tự của người Việt (Tự điển Việt – Việt):
Phương pháp, quy tắc làm thơ.
2/
The art of writing poetry.
The study of linguistic techniques in poetry or
literature.
tạm dịch:
Nghê thuật, phương cách sáng tác thơ.
Ngành nghiên cứu về kỹ thuật sử dụng ngôn ngữ
trong thơ hoặc văn chương.
3/
Literary criticism treating of the nature and
laws of poetry.
Ngành phê bình văn học chuyên về bản chất và luật
thơ.
4/
Poetics is the theory of
literary forms and literary discourse. It may refer specifically to the theory
of poetry, although some speakers use the term so broadly as to denote the
concept of "theory" itself.
Thi
Pháp là lý thuyết về các hình thức văn chương và nghị luận văn học. Nó
có thể đề cập cụ thể đến lý thuyếtthơ , mặc dù một số người dùng
thuật ngữ này với nghĩa rộng để diễn đạt chính ý niệm về lý thuyết.
Ông Khoa thấy đấy. Không
phải chỉ có các nhà phê bình văn học Nga mới có định nghĩa về thi pháp. Những
định nghĩa khác của thế giới ngoài Nga thường nhắm thẳng vào thơ, phương cách
sáng tác thơ, vào bản chất và luật thơ, nghĩa là vào đúng những gì tôi và anh
Châu Thạch đang trao đổi, những gì người yêu thơ quan tâm. Định nghĩa đầu tiên
của Tự Điển từ Đại Học Oxford lại còn rất giống định nghĩa kiểu chiết tự của
những người bình dân như tôi “Thi pháp là nghệ thuật, phương cách sáng tác
thơ”.
II/
Lê Thiên Minh Khoa:
Hiểu như vậy thì Thi
pháp (poetics) không chỉ là phương pháp, quy tắc làm thơ mà rộng hơn nữa: quan
niệm nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật, hình tượng tác
giả trong sáng tạo nghệ thuật là bốn vấn đề cốt lõi của tinh thần thi pháp
(Theo Đào Thái Sơn - Vài nét về Thi pháp học hiện đại). Còn nữa, đối tượng của
thi pháp không chỉ là thể loại thơ (trữ tình) mà còn mở rộng ra các thể loại khác:
truyện (tự sự), kịch và ký. Bởi vậy, ngoài kiểu nói: thi pháp Truyện Kiều, thi
pháp thơ Tố Hữu..., người ta còn nói: Thi pháp truyện ngắn, thi pháp tiểu
thuyết, thi pháp kịch… nữa.
Phạm Đức Nhì:
Các nhà phê bình văn học
Nga đã dùng thuật ngữ thi pháp với nghĩa mở rộng để Thi Pháp Học trở thành một
ngành học bao gồm thêm nhiều bộ môn văn học khác. Mặc dù ngành học này còn rất
mới, đã được thế giới nhìn nhận với thái độ “chờ xem”. (Định nghĩa của
Wikipedia đã bóng gió nói đến). Nhưng không phải vì thế mà cả thế giới không
được hiểu Thi Pháp - khi nói về thơ - với nghĩa nguyên thủy của nó là “phương
cách, quy tắc làm thơ” hoặc những định nghĩa liên quan đến thơ khác. Nói như
ông Khoa “không được tự hiểu, tự định nghĩa theo ý hạn hẹp chủ quan của mình”
là chỉ dựa trên Thi Pháp Học của Nga. Nhờ ông Khoa tý. Chẳng lẽ bây
giờ cả thế giới phải bỏ tất cả những quan niệm về Thi Ca của mình để đi theo
con đường Thi Pháp Học của Nga? Chỗ này hình như ông Khoa nói không đúng.
III/
Lê Thiên Minh Khoa:
Hơn nữa, thi pháp không
chỉ là "sử dụng vần, nhịp điệu (và các phương tiện thẩm mỹ khác của thơ)
nối kết các con chữ thành một thế trận" chỉ gồm các yếu tố thuần hình
thức, như ô Nhì định nghĩa mà thi pháp còn là "khoa học về cấu tạo của tác
phẩm văn học và hệ thống các phương tiện thẩm mỹ được sử dụng trong đó".
Chỉ nói riêng về từ "cấu tạo": Cấu tạo bao hàm cả yếu tố nội dung: ý,
tứ, nghĩa..., chứ không chỉ là hình thức, thủ pháp nghệ thuật thơ ca hoặc
"sử dụng vần, nhịp điệu".
Phạm Đức Nhì:
Bàn về thi pháp là chú trọng
về hình thức, nhưng không phải hình thức đơn thuần mà là hình thức đã có những
phương tiện thẩm mỹ trong thi pháp được thi sĩ “lắp đặt” vào đó. Chính việc sử
dụng (hay không sử dụng) những phương tiện thẩm mỹ ấy đã làm hay lên (hoặc dở
đi) các thành phần của nội dung như ý, tứ, nghĩa … - nói chung là giá trị nghệ
thuật của bài thơ. Nói khác đi, sử dụng (hay không sử dụng) vần, nhịp điệu (và
các phương tiện thẩm mỹ khác) có mối liên hệ nhân quả với giá trị nghệ thuật
của bài thơ.
IV/
Lê Thiên Minh Khoa:
Đúng ra phải nói là tính
nhạc của thơ, vì nhạc tính của thơ mới bao gồm đủ cả 4 yếu tố: âm (âm đầu, âm
chính, âm cuối), thanh, vần, nhịp của thơ, trong đó, thanh (nhóm thanh bằng,
nhóm thanh trắc, nhóm thanh cao, nhóm thanh thấp) và nhất là nhịp (tiết tấu) là
hai yếu tố quan trọng nhất, thiếu nó văn bản không thể thành thơ, chứ không
phải là vần và nhịp như Ông Nhì đã khẳng định trong định nghĩa trên. Chính chúng
đã góp phần làm cho thơ văn xuôi hội đủ điều kiện thành thơ, vì bài thơ có thể
không vần, không cần có sự hài âm, nhưng không thể thiếu yếu tố hài thanh và
tiết tấu.......
Phạm Đức Nhì:
Tôi nói “vần, nhịp điệu
(và các phương tiện thẩm mỹ khác)” là đã bao gồm mọi thành phần của thi pháp,
kể cả tính nhạc. Có điều, trong trường hợp này, tôi không sa đà vào chi tiết
không cần thiết như ông Khoa. Ông Khoa không đọc kỹ chứ không phải tôi thiếu
sót. Riêng tính nhạc, nếu sử dụng đúng liều lượng và khéo léo sẽ tăng giá trị
của bài thơ một chừng mực nào đó. Nhưng có điều chắc chắn, tính nhạc không phải
là yếu tố quyết định để văn bản có thể hay không thể thành thơ. Theo tôi, hai
yếu tố để văn bản được gọi là thơ là: 1/ Tâm tác giả đã ở trong
khung cảnh của bài thơ (tâm đối cảnh) và 2/ Có câu thơ “sinh tình”. (Góp Ý Với
Cuộc Đối Thoại “Thế Nào Thì Gọi Là Thơ”) (1)
Thí dụ:
TẠI SAO CÓ MƯA?
Nước từ biển bốc
hơi
Thành mây trắng
trên trời
Nếu gặp luồng khí
lạnh
Thì sẽ có mưa rơi
MUỐN LÀM MÂY TRẮNG
Ta muốn làm mây
trắng
Bay về Huế mộng mơ
Chờ đến khi nắng
hạn
Đổ xuống một trận
mưa
(Không biết xuất xứ)
Ông Khoa thấy đấy! Cả 2
bài đều có vần, tính nhạc tương đối ngang nhau (không có gì đặc biệt) nhưng có
một bài không phải là thơ. Tại sao? Tại vì tính nhạc không phải là yếu tố quyết
định văn bản là thơ hay không phải là thơ. Ở đây chất “tình” đã đóng
vai trò quyết định. Tại Sao Có Mưa? chỉ là phát biểu về một định luật tự nhiên,
thuần lý trí, trong khi Muốn Làm Mây Trắng là tâm tình của một người Huế hết
lòng yêu mến quê hương. Có lẽ ông Khoa ít đọc thơ hay bình thơ nên đã đưa ra
nhận định rất sai lầm này.
V/
“Tứ Thơ” Theo Cách Hiểu
Của Ông Khoa
Trước tiên ông Khoa dựa
vào câu
"Dòng chảy của tứ
thơ: Bài thơ gồm 6 đoạn, mỗi đoạn 4 câu diễn tả một ý riêng biệt; từ đoạn trước
sang đoạn sau không bắt vần nên tứ thơ đứt đoạn, phân tán, không có dòng chảy"
của tôi, để
kết luận:
“Như thế, rõ ràng
là: ông Nhì chưa nắm rõ về khái niệm 'tứ thơ’. Cũng đúng thôi, vì ‘Tứ thơ’ là một
khái niệm có vẻ rất khái quát và trừu tượng nên rất khó diễn giải.”
Và rồi ông diễn giải tứ
thơ như sau:
“Tứ thơ”
được hiểu như là một phương thức nào đó để tổ chức liên kết các ý trong bài thơ
và hệ thống các ý đó với “tình” của nhà thơ và biểu hiện chúng bằng yếu tố ngôn
ngữ (từ).
Như vậy, theo ông
Khoa, tứ thơ gồm 3 thành phần: 1/ Hệ thống các ý trong bài thơ; 2/ “Tình” của
nhà thơ; 3/ ngôn ngữ (từ).
Nhưng rồi ông lại viết:
“Cả ba yếu tố đó tổng hòa trong một thể thống
nhất gọi là bài thơ – tác phẩm”.
Như vậy tứ thơ cũng
chính là bài thơ - tác phẩm.
Độc giả (chắc giống tôi)
đã thấy hơi “bối rối” (confused) thì ông Khoa lại viết tiếp:
Như thế, chất trí tuệ,
năng lực hư cấu văn học và trí tưởng tượng của nhà thơ được vận dụng hết công
suất để xây dựng tứ thơ mà giới chuyên ngành gọi là “cấu tứ”.
À! Khi “chất trí tuệ,
năng lực hư cấu văn học và trí tưởng tượng của nhà thơ được sử dụng hết công
suất (làm sao biết được hả trời?) thì tứ thơ vươn mình thành ‘cấu tứ’”.
Tóm lại, theo sự diễn
giải của ông Khoa thì tứ thơ cũng chính là bài thơ (tác phẩm) và cũng chính là
“cấu tứ”.
Nhưng không hiểu sao ông
lại viết thêm:
“Chính tứ thơ làm cho văn bản trở thành bài
thơ, là yếu tố không thể thiếu của một bài thơ, nhất là thơ hiện đại".
Tứ thơ cũng là bài thơ
mà lại còn viết “Chính tứ thơ làm cho văn bản trở thành bài thơ” thì đúng là
“Vân Tiên cõng mẹ chạy ra/ Đụng phải cột nhà cõng mẹ chạy vô”
Cách hiểu của ông
Khoa khiến tứ thơ có nhiệm vụ quá nặng nề. Vừa hệ thống các ý, vừa cảm xúc, vừa
ngôn từ - coi như hầu hết cả các phần việc để làm thành bài thơ. Ông lại giải
thích nhập nhằng khiến người đọc lỳ đòn như tôi “toát mồ hôi” mà cũng muốn “tẩu
hỏa nhập ma”. Với cách diễn giải “vòng vo Tam Quốc” như vậy tôi thấy chính ông
Khoa hình như cũng còn “lơ mơ” về ý nghĩa của tứ thơ.
VI/
Lê Thiên Minh Khoa:
Như thế, tứ thơ
không phải do vần mà có, như Ông Nhì đã tưởng và viết: "từ đoạn trước sang
đoạn sau không bắt vần nên tứ thơ đứt đoạn, phân tán, không có dòng chảy".
Hơn nữa, trong thơ hiện đại, thơ hậu hiện đại, thơ văn xuôi... có những bài
không vần (chứ chưa nói "không bắt vần") mà tứ thơ vẫn liên tục,
liền mạch. Thơ không vần thì lấy đâu vần mà bắt, và như vậy là không có tứ thơ
và không phải thơ sao? ...
Phạm Đức Nhì:
Tứ thơ, khởi đầu chỉ là
một dạng ý tưởng, là thông điệp (message), là “cái gì đó” mà thi sĩ muốn chuyển
đến độc giả. Nhưng khi tứ thơ biến thành ngôn từ đi vào câu thơ nó sẽ tải theo cảm
xúc của thi sĩ. Thi sĩ sẽ dàn trải tứ thơ thành một thế trận. Nếu ý tưởng liền
lạc và gặp thể thơ thích hợp nó sẽ chảy thành dòng. Nếu ý tưởng rời rạc lại gặp
thể thơ phân mảnh đứt đoạn tứ thơ sẽ phân tán thành những “vũng”thơ, những “hố”
thơ, “tuy gần mà xa” vì nước hố này không thông được với nước hố kia. Những bài
thơ trường thiên (nhiều đoạn 4 câu riêng biệt) như Trên Đường Về (Chế Lan Viên), Tràng
Giang (Huy Cận), Thềm Xưa Em Đợi Người Về (Hà Hữu Uyên) và những con tương cận khác
đều có vần và mỗi đoạn là một ý “nhỏ” riêng biệt.
Dĩ nhiên, có những bài
thơ không vần mà những ý “nhỏ” trong tứ thơ vẫn được xâu kết liền lạc. Nhưng
giá trị nghệ thuật của chúng – do không vần - sẽ được tăng hay bị giảm tới mức
nào lại là vấn đề khác.
Kết Luận
Thi pháp (poetics),
không phải Thi Pháp Học của Nga với nghĩa quá rộng được GS/TS Trần Đình Sử ra
sức quảng bá, mà là “phương pháp, quy tắc làm thơ - sử dụng vần, nhịp điệu (và
các phương tiện thẩm mỹ khác của thơ) nối kết các con chữ thành một thế trận để
chuyển tải thông điệp và cảm xúc của thi sĩ đến độc giả” rất cần thiết cho
cả thi sĩ lẫn người bình thơ. Việc áp dụng đúng liều lượng những phương tiện
thẩm mỹ trong thi pháp Việt sẽ giúp làm tươi sáng bộ mặt của thơ. Câu nói “Nhìn
thi pháp biết tài thơ” không phải là không có cơ sở. Nhà phê bình nắm vững thi
pháp sẽ đối xử với bài thơ được bình công bằng hơn. Riêng thi sĩ, nếu nắm vững
thi pháp, sẽ nhìn về hướng Bến Bờ Thi Ca với đôi mắt tự tin; với ông (bà), việc
trao tặng cho đời những đứa con tinh thần đẹp xinh, sáng giá, đầy ắp chữ tình
chỉ là vấn đề thời gian.
--------
1/ http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/05/gop-y-voi-cuoc-oi-thoai-nao-thi-goi-la_15.html
1/ http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/05/gop-y-voi-cuoc-oi-thoai-nao-thi-goi-la_15.html
Mời thư giãn với nhạc phẩm KHÚC HÁT SÔNG QUÊ của
Nguyễn Trọng Tạo, thơ Lê Huy Mậu, qua tiếng hát Anh Thơ:
*.
PHẠM ĐỨC NHÌ
Địa chỉ: League
City , Hoa Kỳ.
Email: nhidpham@gmail.com
.
.
.
..............................................................................................................
- Cập
nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 11.04.2018.
- Bài
viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét