(Nguồn ảnh: internet) |
NHẠC TIỀN CHIẾN
GIAI ĐOẠN
1930 - 1945
(Tác giả Lê Thiên Minh Khoa) |
Ca khúc tân nhạc Việt Nam ra đời vào đầu thập
niên 30 của thế kỷ truớc do sự giao lưu với văn hoá phương Tây và sự hình thành
một lớp người trí thức mới. Nhưng người Việt tiếp xúc với nhạc Tây khá sớm: Đầu
tiên chính là những bài thánh ca của nhà thờ. Tiếp đó người dân được làm quen
với "nhạc nhà binh" qua các đội kèn đồng. Tầng lớp giầu có ở thành
phố được tiếp xúc với nhạc khiêu vũ, nhạc cổ điển phương Tây và người dân Việt
bình thường được nghe các hãng đĩa của người Pháp như Odéon, Béka thu âm
các bài hát ta theo điệu Tây. Rồi sau đó, là rất nhiều các bài hát của Pháp lời
Việt như Marinella, C'est à Capri, Tant qu'il y aura des étoiles, Un jour loin
de toi, Celle que j'aime éperdument, Les gars de la marine, L'Oncle de Pékin,
Guitare d'amour, Créola, Signorina, Sous les ponts de Paris, Le plus beau tango
du monde, Colombella...
Thời ấy, các bài tân nhạc thường được đệm
bằng các nhạc cụ phương Tây: mandoline, guitare, violon, piano… Có người đặt
tên cho loại nhạc mới là "âm nhạc cải cách" (musiquerenovée).
Từ giữa thập niên 1930, nhiều nhóm thanh niên
yêu âm nhạc ở Hà Nội đã tập trung cùng sáng tác: Văn Chung, Lê Yên, Doãn Mẫn... Tại Huế có Nguyễn Văn Thương... Tại Hải Phòng có Lê Thương... Tại Sài Gòn có Nguyễn Văn Tuyên... Ca khúc lãng mạn, trữ tình của các nhạc sĩ
nầy mở ra một dòng nhạc gọi là Nhạc tiền chiến còn được các nhạc sĩ tiếp tục
sáng tác đến năm 1975.
Tờ Ngày
Nay của Nhất Linh, số 121 ra ngày 31 tháng 7 năm 1938 đã đăng lần đầu một
bài hát tân nhạc, bài Bình minh (lời Thế Lữ) của Nguyễn
Xuân Khoát, và sau đó là các bản Một kiếp hoa của Nguyễn Văn Tuyên, Bản
đàn xuân của Lê Thương, Khúc yêu đương của Thẩm Oánh, Đám
mây hàng, Cám dỗ của Phạm Đăng Hinh, Đường trường của Trần Quang Ngọc...
ở các số tiếp theo.
Từ đầu năm 1939, nhiều ca khúc sáng tác từ
trước được các nhạc sĩ phát hành, các bản nhạc của được bán tại các hiệu sách.
Tân nhạc Việt Nam chính thức hình thành.
Nhiều băng nhạc tân thời được thành lập,
trong đó những băng đã có những ảnh hướng lớn tới tân nhạc Việt Nam như:
Myosotis (Hoa lưu ly) gồm các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Phạm Văn
Nhượng, Trần Dư, Vũ Khánh…; Tricéa gồm ba nhạc sĩ Văn Chung, Lê Yên và Doãn Mẫn;
Đồng Vọng được thành lập bởi nhạc sĩ Hoàng Quý, gồm nhiều nhạc sĩ tên tuổi Phạm
Ngữ, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Canh Thân và Hoàng Phủ (tức Tô Vũ); băng
Tổng Hội Sinh Viên được thành lập bởi nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Cùng với Đồng Vọng,
nhóm nhạc Tổng Hội Sinh Viên mở ra dòng nhạc hùng trong tân nhạc Việt Nam với
thể loại hành khúc được tiếp nối sau nầy trong nhiều dòng nhạc. Tổng Hội Sinh
Viên chú trọng đặc biệt đến việc dùng tân nhạc trong việc đấu tranh chính trị
chống Pháp và Nhật. Lưu Hữu Phước cùng với nhóm Tổng Hội đã tung ra nhiều ca
khúc giá trị khơi dậy lòng yêu nước. Vào giai đoạn cuối, cùng với nhóm Hoàng
Mai Lưu mà Lưu Hữu Phước cũng là một sáng lập viên, nhóm Tổng Hội Sinh Viên đẩy
dòng nhạc cách mạng (nhac đỏ) Việt Nam lên cao trào với một loạt ca khúc mới ra
đời.
Nhưng ca khúc được cho là bản tân nhạc
đầu tiên của Việt Nam
ra đời rất sớm. Theo nhiều tư liệu, trong đó có nhận định của Giáo sư, Tiến sĩ
âm nhạc Trần Quang Hải và nhà nghiên cứu Dương Viết Á, trên văn bản “khai
sinh”, ca khúc tân nhạc được hình thành từ năm 1930 với bài Cùng nhau đi hồng
binh theo điệu March của tác giả Đinh Nhu, viết lúc mới 20 tuổi, khi bị tù ở
Côn Đảo (sau này được đưa vào ca khúc Hồi tưởng, chương 2 tổ khúc hợp
xướng Tổ quốc ta của nhạc sĩ Hoàng Vân).
Như vậy, tân nhạc Việt Nam là từ ngữ
để chỉ chung 9 thập niên âm nhạc Việt Nam hiện đại theo âm luật Tây
phương phổ biến từ thập niên 30 đến nay với nhiều giai đoạn phát triển:
1930 - 1945, 1946 - 1954, 1954 - 1975,
1975 - nay.
NHẠC TIỀN CHIẾN
Thực ra, thời tiền chiến (trước 1946), tồn
tại 3 loại nhạc: nhạc đỏ (nhạc cách mạng), nhạc hùng (hùng ca) và nhạc tiền
chiến (nhạc trữ tình). Nhưng người ta quen dùng cụm từ “nhạc tiền chiến” để chỉ
một dòng tân nhạc Việt Nam chiếm ưu thế trong giai đoạn nầy, mang âm hưởng trữ
tình lãng mạn với nội dung về tình yêu lứa đôi, quê hương và lời ca giàu chất
văn học xuất hiện vào nửa sau thập niên 1930,
trước khi nổ ra cuộc kháng chiến chống Pháp`(1946 - 1954).
Về sau, khái niệm này mở rộng, bao gồm một số
sáng tác trong chiến tranh (1946 - 1954) và cả sau 1954 đối với một số nhạc phẩm ở miền Nam có
phong cách trữ tình lãng mạn và lời ca giàu chất văn học... như dòng nhạc tiền
chiến 1930 -
1945.
Đặc biệt, nhiều nhạc sĩ kháng chiến trong
thời 9 năm vẫn tiếp tục viết các ca khúc lãng mạng và được xếp vào dòng nhạc
tiền chiến như: Lời người ra đi, Sơn nữ ca của Trần Hoàn, Ngày
về của Hoàng Giác, Thiên thai, Suối mơ của Văn Cao, Dư âm
của Nguyễn Văn Tý, Tiếng hát quay tơ của Tử Phác, Nụ cười sơn cước của Tô
Hải, Tình
quê hương của Việt Lang, Bên cầu biên giới, Thiên
thai, Cây đàn bỏ quên, Tình kỹ nữ, Tiếng thu (thơ Lưu Trọng
Lư) của Phạm Duy, Đoàn Chuẩn với Ánh trăng mùa thu (1947- ca khúc đầu
tay), Tình nghệ sĩ (1947), Đường về Việt Bắc (1948), Lá thư (1949)...
Cũng trong 9 năm, nhiều nhạc sĩ ở vùng đô thị
cũng viết ca khúc theo dòng nhạc tiền chiến như: Văn Giảng dưới bút danh Thông
Đạt viết Ai Về Sông Tương (1949). Võ Đức Thu với Mưa đêm thu, Nhớ
người xa vắng; Nguyễn Hữu Ba với Sám hối, Xuân xuân (1947); Văn
Phụng với Trăng sơn cước (1949- lời Văn Khôi), Lam Phương với Chiều
thu ấy (1952- lúc mới 15 tuổi); Lê Trọng Nguyễn với Nắng
chiều (1952); Lê Hữu Mục
với Hẹn
một ngày về; Phạm Duy viết Đàn tôi, Nụ tầm xuân (phổ ca dao),
Tiếng
sáo thiên thai (thơ Thế Lữ), Tình ca, Tình hoài hương (1952), Thuyền
viễn xứ, Viễn du, Hẹn hò (1954); Hoàng Giác với Lỗi
cung đàn, Quê hương, Hương lúa đồng quê, Bóng
ngày qua, Cô hái hoa, Quê hương; Hùng Lân với Vườn xuân, Hận
Trương Chi, Hè về, Cô gái Việt, Mùa hợp tấu, Ca
xuân hẹn ước, Luống cầy mạch sống, Nhớ
rừng, Sầu lữ thứ, Tơ vương, Xóm nghèo; Phạm Đình
Chương với Khúc giao duyên, Được mùa; Đoàn Chuần với Thu
quyến rũ (1950), Chuyển bến (1952), Gửi
gió cho mây ngàn bay (1952), Cánh
hoa duyên kiếp (hay Dạ lan hương -1953), Lá đổ muôn chiều (1954); Văn Phụng
với Ô!
Mê ly (1948), Bóng người đi (lời Hoài Linh), Trăng
sơn cước (1949 - lời Văn Khôi), Thuyền xưa bến cũ; Dương Thiệu Tước
với Đêm
tàn bến Ngự (1946), Kiếp hoa, Áng mây chiều, Nhạc
ngày xanh, Xuân mới, Thuyền mơ; Hoàng Trọng với Nhạc
sầu tương tư, Gió mùa xuân tới, Dừng
bước giang hồ (1953 - lời Quang Khải), Phạm Mạnh Cương với Nhạc chiều quê, Màu thời gian (1951 - thơ Đoàn Phú Tứ), Thu ca (1953); Cung
Tiến với Hoài cảm (1952- viết lúc mới 14 tuổi), Thu vàng (1953- 15 tuổi);
Lâm Tuyền với Tơ sầu (ca khúc đầu tay), Tiếng thời gian, Hình
ảnh một buổi chiều, Khúc nhạc ly hương, Tiếng
thời gian (lời Dạ Chung, đạo diễn nổi tiếng Hoàng Vĩnh Lộc, anh ruột
của ông). Ở Huế, Lê Mộng Nguyên viết Mùa lúa mới, Vó
ngựa giang hồ (1948), Trăng mờ bên suối, Một
chiều thương nhớ, Trọng Thủy Mỵ Châu, Chiều
thu, Mưa Huế (1949), Hoàng Hoa thôn, Bài thơ Huế, Cô
gái Huế, Về chơi thôn Vỹ Dạ, Đôi mắt nhung (1950). Qua Pháp, ông
viết Mơ
Đà Lạt, Ly hương, Nhớ Huế (1950), Bên dòng sông Seine, Xuân
tha hương, Lá thư cho mẹ, Trời Âu (1951)…
Ở Miền Nam sau năm 1954, nhiều nhạc sĩ
như Hoàng Trọng, Lê Thương, Phạm Duy, Đoàn Chuẩn- Từ Linh... và những nhạc
sĩ trẻ hơn như Văn Phụng, Cung Tiến, Phạm Mạnh Cương, Phạm Đình Chương...
vẫn tiếp tục dòng nhạc tiền chiến. Có thể kể đến những ca khúc của họ vẫn được
xếp chung vào dòng nhạc tiền chiến như: Ngàn thu áo tím, Lạnh
lùng, Bạn lòng, Mộng lành, Tiễn bước sang ngang của
Hoàng Trọng; Mộng dưới hoa, Trường ca Hội trùng dương, Đôi
mắt người Sơn Tây của Phạm Đình Chương; Hương xưa, Hương
xuân của Cung Tiến.
Các bản nhạc tiền chiến thường theo điệu
Valse, Tango, Slow Waltz, Boston ,
Blues, March, một số là các trường ca, hay phong cách bán cổ điển. Hầu hết các
ca khúc tiền chiến thuộc dòng thính phòng. Dòng nhạc tình khúc ở miền Nam sau
này cũng ảnh hưởng của dòng tiền chiến nhưng thường theo điệu Slow Rock, Slow
Ballad, Slow Fox, trong khi nhạc đỏ nhiều bài cũng ảnh hưởng của nhạc tiền
chiến về giai điệu.
Những nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc tiền
chiến: Đặng Thế Phong (mất lúc hơn 20 tuồi), Văn Cao, Lê Thương, Nguyễn Văn
Thương, Dương Thiệu Tước, Phạm Duy, Hoàng Quý, Doãn Mẫn, Nguyễn Đình Phúc,
Hoàng Trọng, Bùi Công Kỳ, Hoàng Giác, Lê Yên, Nguyễn Thiện Tơ, Tô Vũ, Văn
Chung, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Mỹ Ca ...
Các ca khúc tiêu biểu như Đêm
thu (1937), Giọt mưa Thu (lúc đầu tên là Vạn Cổ sầu), Con thuyền không bến của
Đăng Thế Phong, Trên sông Hương (1936 - lúc 17 tuổi) Đêm đông (1940), Bướm
hoa (1942), Mưa thu của Nguyễn Văn Thương, Cô hái mơ (thơ Nguyễn
Bính - 1942- ca khúc đầu tay) của Phạm Duy,
Xuân năm xưa (1936), Tiếng đàn âm thầm (1937), Trên
sông Dương Tử, Thu trên đảo Kinh Châu, Đêm
tàn bến Ngự, Hòn vọng phu (1945) của Lê Thương, Lời
du tử (1943), Cô lái đò (thơ Nguyễn Bính) của
Nguyễn Đình Phúc, Ca khúc ban chiều, Trên thuyền hoa, Bóng
ai qua thềm của Văn Chung; Đêm trăng (1938 - ca khúc đầu
tay - lúc 16 tuổi). Tiếng đàn tôi, một trong
những bản Tango Việt Nam đầu tiên, Một thuở yêu đàn của
Hoàng Trọng; Sao hoa chóng tàn, Tiếng hát đêm thu, Gió
thu, Một buổi chiều mơ, Bến yêu đương, Từ đâu tiếng tơ, Hương
cố nhân, Nhạc chiều, Gió khơi xa, Biệt ly (1939) của Doãn
Mẫn, Con
thuyền xa bến của Lưu Bách Thụ, Buồn tàn thu (1939 - lúc 16 tuổi), Thiên thai (1941), Bến xuân, Về đồng quê, Trương
Chi của Văn Cao, Bẽ bàng, Xuân nghệ sĩ hành khúc, Ngựa
phi đường xa, Vườn xuân của Lê Yên, Bình
minh (1938- lời Thế Lữ), Mây trên cao, Hồn Xuân (thơ Thế Lữ), Màu
thời gian (thơ Đoàn Phú Tứ) của Nguyễn Xuân Khoát, Tiếng
xưa, Đêm tàn bến ngự của Dương Thiệu Tước, Dạ khúc (lời Hoàng
Mai Lưu) của Nguyễn Mỹ Ca, Ngày xưa của Tô Vũ, Trầu
cau của Phan Huỳnh Điểu, Cô hàng cà phê, Khúc ca mùa hè, Anh
còn cây đàn của Canh Thân, Mơ hoa của Hoàng Giác, Nhớ
quê hương của Phạm Ngữ, Giáo đường im bóng của Nguyễn Thiện
Tơ, Tiếng
còi trong sương đêm (viết năm 1944, khi đang làm nhạc công một phòng
trà ở Vũng Tàu, và được tác giả trình bày trong buổi lễ mit-tinh giành chính
quyền ở Bà Rịa, sáng 25.8.1945 tại Nhà
Tròn, chứ không phải viết khi đã tham gia kháng chiến như thông tin từ nhiều
nhà nghiên cứu) của Lê Trực (tức Hoàng Việt sau nầy), Xuân và tuổi trẻ (lời Thế
Lữ), Xuân
sắc quê hương của La Hối, Tú Uyên, Chùa Hương, Dưới bóng thông xanh, Chiều
xuân, Chiều quê, Nắng tươi và Cô
láng giềng, một ca khúc trữ tình bất hủ của Hoàng Quý…
NHẠC HÙNG TIỀN CHIẾN 1930 - 1945:
Thực ra, giới nghiên cứu có nói đến thể loại
hành khúc xuất hiện trong giai đoạn nầy, mà ít đề cập đến dòng nhạc hùng
1930-1945. Nhưng thực tế đã tồn tại một dòng nhạc hùng tiền chiến với nội dung
kêu gọi lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, yêu lịch sử vẻ
vang dân tộc. Giai điệu là hành khúc với nhịp đi hùng tráng, phù hợp với nhịp
đi tập thể, bài hát cộng đồng.
Trong giai đoạn nầy, dòng nhạc hùng gần gũi
với dòng nhạc đỏ (nhạc cách mạng) và giao hòa với nhau vào cuối giai đoạn.
Dòng nhạc hùng được đẩy lên cao trào bởi các
nhóm nhạc gồm các nhạc sĩ tài hoa có xu hướng dân tộc: Đồng Vọng, Tổng Hội Sinh
Viên, nhất là khi nhóm Hoàng Mai Lưu được thành lập (1941).
Nhóm Đồng Vọng được Hoàng Quý thành lập vào
năm 1939, với các nhạc sĩ tên tuổi:, Phạm Ngữ, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn
Cao, Canh Thân, Tô Vũ, trong 3 năm: 1943-1945 đã sáng tác và phát hành hành 12
tập nhạc, mỗi tập có từ 8 đến 12 bài với khoảng 70 nhạc phẩm, trong đó có nhiều
tình ca, nhưng chủ yếu là nhạc hùng có nội dung ca ngợi đất nước, ca ngợi
truyền thống anh hùng của dân tộc. Trong đó, riêng Hoàng Quý viết một loạt ca
khúc: Trên sông Bạch Đằng, Nước non Lam Sơn, Tiếng
chim gọi đàn, Bóng cờ lau, Gọi bạn lên đường, Lời
vọng ngàn xưa, Xuân về, Đêm trong rừng …
So với Đồng Vọng thì nhóm Tổng Hội Sinh viên
và nhóm Hoàng Mai Lưu mang tính chính trị nhiều hơn. Nhóm Tổng Hội Sinh Viên
được thành lập bởi nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, khởi đầu là nhóm sinh viên có khả
năng văn nghệ ở Hà Nội trong đó nhiều sinh viên miền Nam, nên sau
đó ca khúc của nhóm lan tỏa ra khắp nơi. Trong một bài viết, nhạc sĩ Lê
Thương cho rằng: "...Từ
1943 đến 1945 thì Tổng Hội Sinh Viên đã chế ngự phong trào Tân nhạc và gây
những ảnh hưởng sâu đậm chưa từng có”. Nhóm Tổng Hội Sinh Viên chú trọng
đặc biệt đến việc dùng Tân nhạc trong việc đấu tranh chính trị chống Pháp và
Nhật. Lưu Hữu Phước cùng với các sinh viên trong Tổng Hội đã tung ra nhiều ca
khúc giá trị khơi dậy lòng yêu nước trong dân chúng, đặc biệt là trong giới học
sinh, sinh viên. Những ca khúc đó thường lấy đề tài lịch sử ca ngợi những chiến
công, những anh hùng dân tộc, đặc biệt phải kể đến những bản nhạc của Lưu Hữu
Phước. Nhiều ca khúc như Tiếng gọi sinh viên, Hồn tử sĩ, Hờn sông Gianh... của
ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử tân nhạc Việt Nam .
Góp công lớn trong nhạc hùng tiền chiến là
nhóm văn nghệ yêu nước Hoàng Mai Lưu gồm 15 người đủ các bộ môn nghệ thuật: thi
ca, nhạc, kịch họa mà mũi nhọn và có tiếng vang nhất là âm nhạc, nên ngày nay
nhắc đến Hoàng Mai Lưu công chúng thường nghĩ đến ca khúc của nhóm nầy. Hoàng
Mai Lưu là họ của ba sáng lập viên: Huỳnh (Hoàng) Văn Tiếng, Mai Văn Bộ và Lưu
Hữu Phước, gợi lên hình tượng bông mai vàng bay tỏa hương thơm, ra đời vào mùa
hè 1941 tại Sài Gòn. Trong giai đoạn nầy, nhiều ca khúc yêu nước và cách mạng
của nhóm được sáng tác, phát hành và lưu diễn khắp nơi. Có thể kể thêm các ca
khúc của họ, ngoài những nhạc phẩm nêu trên: Bạch Đằng giang (1941), Ải Chi Lăng (1942), Bài
hát của thiếu nữ Việt Nam (1942),
Việt
nữ gọi đàn (Bài hát của phụ nữ Việt Nam - 1942) của Lưu Hữu Phước với lời của Mai Văn
Bộ; Bài
hát suối Lồ Ồ (1943), bài hát của Đoàn Hùng (1943 - 1945), Xếp
bút nghiên (1944) của Lưu Hữu Phước với ca từ của Huỳnh Văn Tiếng; và
những ca khúc khác với nhạc của Lưu Hữu Phước và lời của cả nhóm: Hội
nghị Diên Hồng (1942), Âu ca Việt Nam (1944), Hờn
sông Gianh (1944)… (Năm sáng tác và tên của đồng tác giả với Lưu Hữu
Phước trong các ca khúc trên dẫn từ cuốn “Hoàng Mai Lưu & Các ca khúc trong phong
trào âm nhạc cách mạng” của Huỳnh Văn Tiếng & Bùi Đức Thịnh - Nhà
xuất bản Trẻ, 2002). Như vậy, Lưu Hữu Phước là thành viên chủ chốt của cả 3
nhóm nhạc yêu nước kể trên và là sáng
lập viên của 2 nhóm nhạc: Tổng Hội Sinh viên, Hoàng Mai Lưu, là người có đóng
góp lớn lao trong việc hình thành phát triển dòng nhạc hùng Việt Nam.
Gắn bó cùng hai nhóm Tổng hội và Hoàng Mai
Lưu, ở Nam bộ có Nguyễn Mỹ Ca, cháu nội của Nguyễn Tri Phương, người được xếp
hạng thứ 953 trong Danh sách Nhạc sĩ nổi tiếng trên thế giới, ngoài tình ca nổi
tiếng Dạ khúc, đã sáng tác nhiều hùng ca yêu nước như: Đến
trường, Vui đi học, Chiêu hồn nước..., trong đó thành
công và có tiếng vang nhất là Chiêu hồn nước.
Nhạc sĩ Phạm Duy góp vào dòng nhạc hùng bài Gươm
tráng sĩ (1944), La Hối với Gió thiêng liêng, Võ Đức Thu với Quyết
tiến, Một ngày đã qua…
Đỗ Nhuận cũng đóng góp cho dòng nhạc nầy với Trưng
Vương (1939 - ca khúc đầu tay lúc tuổi 17) và liên ca khúc: Chim
than, Lời cha già, Đường lên ải Bắc của vở ca cảnh
Nguyễn Trãi - Nguyễn Phi Khanh được ông viết trong 2 năm 1940, 1941.
NHẠC ĐỎ TIỀN CHIẾN 1930-1945.
NHẠC ĐỎ (NHẠC CÁCH MẠNG)
Ca khúc cách mạng hình thành và phát triển từ
khi có phong trào yêu nước do Đảng Cộng Sản lãnh đạo. Theo nhiều tư liệu, trên
văn bản “khai sinh”, ca khúc cách mạng được hình thành từ năm 1930, với bài
Cùng nhau đi hồng binh viết theo điệu March của tác giả Đinh Nhu, khi bị tù ở
Côn Đảo. Do biểu tượng của cách mạng trong quang phổ chính trị là màu đỏ, nên
người ta gọi nhạc cách mạng là nhạc đỏ.
Các ca khúc “nhạc đỏ” thường động viên tinh
thần chiến đấu của quân dân, phục vụ kháng chiến, khích lệ tình yêu lý tưởng
dân tộc chủ nghỉa và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đồng thời có những ca khúc trữ tình cách mạng, thể hiện
tình yêu quê hương đất nước hoặc cổ vũ lao động
cống hiến, tinh thần lạc quan, yêu đời và có tính cộng đồng. Các ca khúc
nhạc đỏ thường mang tính lý tưởng hóa và lãng mạn hóa cao, nhưng khác với dòng
nhạc tiền chiến có tính lãng mạn tách rời đời sống, thường không có không gian
hoặc thời gian cụ thể, nhạc đỏ đặt tính lãng mạn, lý tưởng hóa gắn với cuộc
sống xã hội, có không gian và thời gian cụ thể, và thực tế hóa.
Từng bước đi của ca khúc cách mạng là sự phản
ánh trung thực những thành tựu của lịch sử cách mạng Việt Nam . Nhạc đỏ
(nhạc kháng chiến, nhạc cách mạng Việt Nam) đã tồn tại và phát triển qua 5 giai đoạn - thời đoạn của Tân nhạc Việt Nam: Tiền chiến
(1930-1945); Kháng chiến chống Pháp (1946- 1954); Kháng chiến chống Mỹ
(1854-1975); Hậu chiến (1975- 1985); Đương thời (1986- đến nay).
NHẠC ĐỎ TIỀN CHIẾN
Hình tượng người chiến sĩ cách mạng Việt Nam
được phản ánh rõ nét nhất trong các ca khúc cách mạng giai đoạn này. Họ sẵn
sàng chiến đấu, hy sinh cho độc lập của Tổ quốc, cho hạnh phúc của nhân dân.
Qua những hình tượng ấy, có thể thấy cách
thức lựa chọn thể hành khúc của những nhạc sĩ- chiến sĩ là hoàn toàn phù hợp và đúng đắn. Bởi vì, hành khúc
là phương tiện nghệ thuật hữu hiệu nhất để tuyên truyền cổ động cho cách mạng.
Do đó, thể hành khúc chiếm vị trí chủ đạo trong dòng ca khúc cách mạng Việt Nam
giai đoạn nầy.
Sáng tác âm nhạc dạng hành khúc có xuất xứ từ
châu Âu, nhưng khi vào Việt Nam ,
hành khúc đã nhanh chóng hòa nhập và trở nên quen thuộc trong hoạt động văn hóa
nghệ thuật của người dân Việt Nam .
Có được điều đó là do những người cộng sản làm văn nghệ đã ý thức được bản sắc
văn hóa và sức mạnh tiềm tàng của dân tộc, vậy nên trong tác phẩm, họ biết kết
hợp những âm điệu gần gũi, quen thuộc trong âm nhạc cổ truyền với những âm điệu
mới hùng tráng.
Ca khúc cách mạng đã thể hiện đúng bản chất
văn hóa hai chiều của con người Việt Nam : một chiều tiếp thụ từ văn hóa
truyền thống, một chiều tiếp nhận từ văn hóa âm nhạc nước ngoài.
Trong giai đoạn 1930-1945, những biến cố của
lịch sử- xã hội đất nước luôn là động lực thúc đẩy các nhạc sĩ viết nên những
ca khúc cách mạng. Khi Mặt trận Việt Minh chính thức thành lập (19.5. 1941),
nhiều nhạc sĩ, nhóm nhạc đã gia nhập Mặt trận, hoặc chịu ảnh hưởng của Mặt trận
đã sáng tác nhiều ca khúc cách mạng và yêu nước như: Không khuất phục, Cờ
Việt Minh, Hò la, Côn Lôn (Vương Gia Khương); Tam
bình (Trần Văn Út), Phất cờ Nam tiến (Hoàng Văn Thái); Thăng
Long hành khúc ca, Tiến quân ca (1944 - Văn Cao); Tiếng
gọi thanh niên (Lưu Hữu Phước, lời: Hoàng Mai Lưu); Lên
đàng (Lưu Hữu Phước - Huỳnh Văn Tiểng); Hát giang trường hận (sau đổi tên là
Hồn tử sĩ) của Lưu Hữu Phước; Diệt phát xít (Nguyễn Đình Thi); Mười
chín tháng tám (Xuân Oanh); Sa trường hành khúc, Cảm
tử quân (1944- Hoàng Quý); Việt Nam phục quốc (Thẩm Oánh)…
Trong đó, có những ca khúc trở thành quốc ca, hội ca, đoàn thể ca, nghi lễ ca.
Như Tiến
quân ca trở thành quốc ca của nước Việt Nam; Tiếng gọi thanh niên trở thành Thanh niên hành khúc, bài hát chính
thức của tổ chức Thanh niên Tiền phong, sau này trở thành Tiếng gọi công dân,
quốc ca của Việt Nam Cộng Hòa với lời được sửa lại; Lên
đàng trở thành bài hát chính thức của Hội liên hiệp Thanh niên Việt
Nam; Hồn
tử sĩ được dùng trong các lễ tang theo nghi thức nhà nước của Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và cũng được Quân
lực Việt Nam Cộng hòa sử dụng trong các nghi thức lễ tang quân đội.
Trừ Cùng nhau đi hồng binh (1930 - Đinh Nhu), các ca khúc đỏ trên đều được
sáng tác sau ngày 19 tháng 5 năm 1941, ngày Mặt trận Việt Minh chính thức thành
lập đến khi Cách mạng tháng Tám thành công. Điểm chót của cao trào ở Bắc bộ là
ca khúc Mười chín tháng tám (19.8.1945) của Xuân Oanh và ở Nam bộ là Tám
mươi năm (Bài hát của nông dân - lời: Huỳnh Văn Tiếng) của Lưu Hữu Phước do
một nhóm 3 người vừa đi vừa hát đã lôi cuốn hàng ngàn người đi giành chính
quyền trong ngày 25.8.45, ngày Tổng khởi nghĩa ở Sài Gòn.
Từ năm 1943, trong gian trong bị tù ở nhà lao
Hải Dương, rồi đưa lên Hỏa Lò và sau bị đày lên Sơn La, Đỗ Nhuận đã viết
nhiều bài hát cách mạng như: Chiều tù, Côn Đảo, Hận
Sơn La, Tiếng gọi tù nhân, Viếng mồ tử sĩ, Du kích ca... và sau khi
được trả tự do, ông tiếp tục tiếp tục hoạt động cách mạng và sáng tác nhiều bài
hát và được phổ biến khá rộng biến khá rộng rãi thời bấy giờ: Quảng
Châu công xã, Nhớ chiến khu (1945)…
Những ca khúc đỏ nầy không những phản ánh
hiện thực xã hội lúc bấy giờ, mà còn khẳng định dấu son trên đường phát triển
của dòng ca khúc cách mạng Việt Nam.
PHÂN CỰC VÀ
GIAO THOA GIỮA CÁC DÒNG NHẠC TIỀN CHIẾN
Trong quá trình hình thành, phát triển của 9
thập kỷ ca khúc tân nhạc Việt Nam, tùy theo giai đoạn, các dòng nhạc, các xu
hướng trào lưu âm nhạc có khi cùng song song tồn tại, có khi đối lập nhau, có
khi vừa phân cực vừa giao thoa với nhau, bổ sung hỗ trợ lẫn nhau, có khi hòa
nhập vào nhau, hợp lưu lại với nhau… Trước hết là sự phân cực và giao thoa giữa 3 dòng nhạc
Việt trong giai đoạn tiền chiến 1930 - 1945:
Do sự khác biệt về nhân vật trữ tình, đối
tượng trữ tình, nội dung phản ánh và cả
giai điệu của ca khúc mà phân định thành ba dòng nhạc: nhạc hùng, nhạc đỏ, nhạc
tiền chiến. Nhưng ba dòng nhạc khác nhau nầy trong quá trình hình thành, đồng
hành tồn tại và phát triển thường giao thoa với nhau. Rõ rệt nhất là sự gần gũi
nhau giữa dòng nhạc đỏ (cách mạng) và dòng nhạc hùng (yêu nước). Hai dòng nhạc
nầy về giai điệu chủ yếu là hành khúc, về nội dung ca khúc, chúng gặp nhau ở 2
điểm là dân tộc và đấu tranh, nhất là vào cuối giai đoạn, khi Mặt trận Viêt
Minh ra đời (1941), nhiều nhạc sĩ nhạc hùng tham gia vào phong trào Việt Minh
và trở thành chiến sĩ Cách mạng hoặc chịu ảnh hưởng của Mặt trận. Khi đó, dòng
nhạc hùng gần như hòa nhập vào dòng nhạc đỏ (Nên phải xác định chính xác thời
điểm bản nhạc được viết, mới xếp loại đúng dòng nhạc của nó, mà có rất nhiều ca
khúc, các nhà nghiên cứu âm nhạc không thống nhất về năm sáng tác!). Vì lúc nầy
2 dòng nhạc hòa vào nhau nên có nhiều ca khúc xếp vào dòng nhạc nào trong 2 dòng
nhạc đó, nhạc hùng và nhạc đỏ, cũng được, như các bản nhạc của Lưu Hữu Phước và
nhóm Hoàng Mai Lưu: Tiếng gọi sinh viên, Hồn tử sĩ, Bạch Đằng giang, Ải
Chi Lăng, Hội nghị Diên Hồng, Hờn Sông Gianh... Còn nhạc hùng và
nhạc tiền chiến dù khác nhau về giai điệu (một bên là trữ tình, nhẹ nhàng và
một bên là hành khúc) và nhân vật trữ tình (một bên là cái ta- công dân và một
bên là cái tôi - cá nhân), nhưng trong đối tượng trữ tình có một nội dung giống nhau là đề
tài quê hương. Trước 1946, có những nhạc sĩ sáng tác cả 3 dòng nhạc: Tô Vũ
(Hoàng Phủ), Văn Cao, Hoàng Quý… Còn viết cả 2 dòng nhạc thì nhiều. Nhạc tiền
chiến và nhạc hùng có: Thẩm Oánh, Phạm Duy, Canh Thân, Phạm Ngữ, Nguyễn Mỹ Ca,
La Hối…; nhạc hùng và nhạc đỏ là có: Lưu Hữu Phước và nhóm Hoàng Mai Lưu… Đặc
biệt là Đỗ Nhuận có “bước chuyển” sáng tác 2 dòng nhạc nầy trong hai thời đoạn
khác nhau của cuộc đời mình (trước và trong - sau khi bị tù, 1943).
-----------
(Trích trong “9 THẬP KỶ CA KHÚC TÂN
NHẠC VIỆT NAM ”
-
nghiên cứu, phê bình - Lê Thiên Minh
Khoa, xuất bản năm 2018).
Mời thư giãn với nhạc phẩm THIÊN THAI
của Văn Cao qua tiếng hát Hoàng Oanh:
*.
LÊ THIÊN MINH KHOA
Địa chỉ: 117, Cách Mạng Tháng 8, phường Long Hương,
thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu.
Email: lethienminhkhoabr@gmail.com
Điện thoại: 0908.274.494
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 18.09.2018.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân
Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét