(Nguồn ảnh: intermnet) |
NGHIÊN CỨU
ĐÔNG PHƯƠNG HỌC
*
- Trả
lời quý bằng hữu hỏi về Kinh Dịch và các loại thầy:
Thầy
tu, Thầy chùa, Thầy cúng, Thầy bói.
(Tác giả Lưu Xuân Thanh) |
Thưa quý bằng hữu thân mến,
A/ KINH DỊCH (xin giới hạn trong phạm vi Dịch, Lý, Số. Cụ thể là Dịch lý Dự
Đoán Học)
Trước hết mời các bạn đọc trích đoạn nghị quyết của Bộ chính trị Đảng Cộng
sản Việt Nam số 01/ NQ-TW 28. 3.1992: “Trong
nhiều năm qua, nội dung đào tạo đội ngũ cán bộ lý luận hầu như chỉ bó hẹp trong
các bộ môn khoa học Mác –Lê nin, chưa coi trọng việc nghiên cứu các trào lưu
khác và tiếp nhận những thành tựu khoa học của thế giới. Hậu quả là số đông cán
bộ lý luận thiếu hiểu biết rộng rãi về kho tàng tri thức của loài người, do đó khả
năng phát triển bị hạn chế.”. Như vậy một thời gian dài ở Việt Nam, cán bộ
lý luận “ hạn chế”, thiếu hiểu biết rộng rãi về kho tàng tri thức, tinh hoa
nhân loại. Chỉ “ bó hẹp” trong các môn khoa học Mac –Lênin. Nghị quyết nàỳ chỉ
rõ như thế là chưa đủ… Tuy nhiên những học giả, những trí thức ở mọi miền Tổ
quốc, xưa và nay vẫn đọc và học Dịch. Ở miền Bắc tiêu biểu là Giáo sư Tiến sĩ
Nguyễn Hoàng Phương, Giáo sư Tiến sĩ đại tá công an Hoàng Tuấn, hai ông là bậc
thầy của thầy. Lưu Xuân Thanh học được ở hai thầy nhiều điều.
Theo các học giả Ngô Tất Tố, Nguyễn Hiến Lê: “Kinh Dịch, từ một sách bói toán trở thành sách triết. Một cuốn sách rất
quan trọng, vậy mà từ nguồn gốc, tên người viết, thời đại xuất hiện, gây nhiều
thắc mắc, mấy nghìn năm sau chưa giải quyết được. Đó cũng là lẽ khiến Chu dịch
thành một kỳ thư”. Ngày xưa vua chúa coi Kinh Dịch là đạo trị quốc. Ngày
nay ngoài điều đó, còn thêm một ý nghĩa nhân sinh Đạo làm người. Được ứng dụng
trong khoa học tụ nhiên và xã hội. Kinh Dịch đã vươn xa sang phương Tây. Qua
các cuộc hội thảo Quốc tế đã xem Kinh Dịch là khoa học, tinh hoa nhân loại…
Nhưng về Kinh Dịch vẫn có những ý kiến trái chiều. Tất cả đều có lý lẽ
riêng. Cũng có người nói: Kinh Dịch là mê tín. Đúng, nguyên thủy là sách bói
toán. Nếu chỉ là bói toán đơn thuần như các thuật sỹ giang hồ. Họ làm ra vẻ thần
bí nào phù phép, cúng bái gieo quẻ, rồi phán cốt để kiếm tiền. Qúa trình phát
triển sách Kinh Dịch đã thành sách triết học Đông phương. Do đó “mê tín” không
thể nghiên cứu Dịch mà phải “trí tín” may ra mới nghiên cứu sâu sắc được. Làm
rõ vấn đề này khá dài dòng. Khái quát nhất, xin hỏi bạn ai đã nói có nội dung: Lấy
bất biến ứng vạn biến? Chủ tịch Hồ Chí Minh nói câu đó theo nguyên lý
của Kinh Dịch. Ai bảo Chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam (Đảng Cộng Sản Việt Nam
ngày nay) mê tín? Rất lạ, vì sự bất cập! Trước kia bị cấm. Nay đủ loại sách về
tôn giáo, bói toán… xuất hiện tràn lan khắp mọi nơi. Trong Nam sau 1975 cất kỹ,
nay đem ra dùng. Từ giữa thập niên 90 của thế kỷ trước đến nay, loại sách này
in lậu xuất hiện bầy bán ở vỉa hè, nhà nước khó kiểm soát. Tôi nghiệm ra rằng
những gì nhà nước cấm lại làm cho xã hội tò mò tìm đến. Nhất là trên lĩnh vực
tôn giáo, văn hóa… Phong trào học Dịch như nấm mọc sau cơn mưa. Trong Nam rầm
rộ hơn ngoài Bắc. Những sách bói toán, kinh Phật, Dịch học, sau 1975 cất kỹ nay
đem ra dùng. Họ đã đi trước nhiều người ngoài Bắc vài thập kỷ. Tiêu biểu là các
học giả Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Duy Cần và nhiều giảng sư ở Đại học Vạn Hạnh
(trước 1975). Những người Việt gốc Hoa ở Sài Gòn, Huế, Hội An, Khánh Hòa, Biên
Hòa, Bạc Liêu … Những người học Dịch ở miền Nam, họ uyên thâm, song kín tiếng.
Một số người uyên bác về Dịch sau 75 đã ra nước ngoài.
Sau tết Mậu thân 68, hầu hết các đơn vị quân giải phóng phải lên căn cứ,
vùng rừng núi để củng cố lực lượng. tôi vốn có zen di truyền về đọc sách. Nên
có mang lên núi sách Sài Gòn xuất bản năm 1958 quyến Triết Học Đông Phương Nhập Môn
của Giaso sư Tiến sĩ Nguyễn Đăng Thục là người sinh ra tại huyện Gia Lâm, phủ
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (giảng sư đại học Vạn Hạnh Sài Gòn). Đó là cuốn sách
Đông phương học đầu tiên tôi đọc. Phải sau 1975 tôi mới có điều kiện, song phải
âm thầm nghiên cứu Dịch lý. Năm 1979 tôi không còn là đảng viên Đảng Cộng Sản Việt
Nam. Tôi đã công khai nghiên cứu Đông phương học, nghiên cứu Phật pháp và tu
Thiền. Năm 1987 phục hồi Đảng tịch, tôi vẫn nghiên cứu Dịch lý cho đến nay.
Không thể bỏ tinh hoa của nhân loại, không thể bỏ đạo học làm người chân thiện
mỹ. Trong khi xã hội chỗ nào cũng có tham nhũng!...
Kinh Dịch - Chia làm hai phần:
- Phần thượng kinh nói về những nguyên lý của vũ trụ. Lấy hai quẻ đầu Càn
Khôn tương trưng cho hai khí âm dương bàn về lẽ trời.
- Hạ kinh lấy hai quẻ Hàm Hằng nói về đạo người, bắt đầu là đạo vợ chồng. Tiếp
đó biến hóa âm dương ngũ hành gắn kết Thiên Địa Nhân. Kết thúc ở quẻ Hỏa vị tế
nghĩa là chưa thành tiếp tục biến hóa. Dịch không có chỗ cùng.
Dịch lý có ba điều:
1/ Giao Dịch
2/ Biến Dịch
3 Bất Dịch
Đó là cốt lõi của Dịch, Lý, Số. Từ Kinh Dịch mà có Thái Ât Thần Kinh, Kỳ
Môn Độn Giáp, Lục Nhâm Đại Đôn, Tử Vi Đẩu Số, Bát Tự Hà Lạc, Tử Bình, Chu Dịch
Dự Đoán Học v.v .
Trong Dịch, Lý, Số. Cụ thể là Dự Đoán học, việc sắp xếp các quẻ theo nhóm.
Như quẻ Càn có thuần Càn rồi biến theo các hào thành 8 quẻ. Quẻ chính là mẹ,
các quẻ khác là con. Quẻ số 7 là Du hồn, quẻ số 8 là Quy hồn v.v Các nhóm khác
cũng như vậy. Cái lý của Thiên, Địa, Nhân là: Sự vận động không ngừng nghỉ của
Âm Dương, Ngũ Hành. Đây là những yếu tố cơ bản cho quyết sách đúng đắn về nhân
sinh. Qua đó con người học tập, áp dụng xử lý tốt các mối quan hệ để đạt kết
quả cao nhất trong cuộc sống. Ví dụ như xem công danh gặp Quan vượng trì Thế
chắc chắn thành công. Nếu gặp hào Tử tôn động trong quẻ, hoặc trì thế xem thi
cử hay thăng tiến thì chẳng khác nào mò trăng đáy nước. Xem về cầu tài kinh
doanh mà gặp hào Huynh đệ trì Thế hoặc động hoặc tuần không, nguyệt phá thì như
người trèo cây bắt cá. Xem về bệnh đau ốm có Tử tôn trì thế, hoặc lục xung là
khỏi bệnh. Nếu gặp Quan quỷ trì Thế, không có hào tử tôn chắc chắn bệnh sẽ nguy
nan v.v. Người học Dịch phải biết và hướng cho người khác tránh những điều
không tốt, làm những điều không hại cho bất kỳ ai. Muốn vậy phải “trung, chính”…
Từ xưa đến nay việc ứng dụng Kinh Dịch trong đời sống rất phong phú, đa dạng.
Học giả Nguyễn Hiến Lê (trong Kinh Dịch Đạo Của Người Quân Tử ) đã viết về đoán
Bát Tự Hà Lạc: “Lạ lùng nhất cách đoán số đó cũng có nhiều khi đúng không kém
số Tử Vi ”…
B/ THÀY TU, THÀY CHÙA, THÀY CÚNG, THÀY BÓI.
Cách đây gần bốn thập kỷ. Tôi đọc sách Phật ngay phần mở đầu đã ghi:
Tình trạng phẩm ít, lượng nhiều đã phát sinh nhiều nguyên nhân phức tạp
- Có người tu Phật theo truyền thống ông cha (ông cha theo đạo Phật thì con
cháu cũng theo)
- Có người theo đạo Phật, vì mong cầu được tai qua nạn khỏi, hay cầu của,
cầu con…
Tôi là kể vô thần, vận mệnh đẩy đưa gặp một vị Thiền sư cao tăng đức hạnh.
Nên đã học và tu dưới sự hướng đạo của thiền sư. Tôi đã theo chư tăng xem các
thầy cúng cầu an, cầu siêu cho các gia đình ở thành phố và thôn quê. Chư tăng
không bao giờ nhận tiền tạ của gia chủ. Bạn sẽ hỏi: Lấy gì để sống? Xin thưa,
sau những giờ phút Tu học (Thiền định, tụng kinh) tất cả chư tăng đều lao động,
trồng rau, trồng hoa để bán, trồng bắp, đậu tương, đậu phụng, trồng lúa...Đó là
chính nghiệp. Giới luật không cấm khi phật tử cúng dường Tam bảo, tùy ý của
phật tử, có khi chỉ một bó nhang, vài kg gạo, có khi cả tấn gạo, tiền, y áo của
tu sỹ v v. Chư tăng đều hoan hỷ coi trọng như nhau. Cửa thiền là bác ái bình
đẳng …Chư tăng chỉ ăn ngày một bữa vào giờ ngọ. Sống tri túc thiểu dục. Không
dính mắc vào “tứ vật dụng”. Tu Phật là “xả phú cầu bần” (như vua Trần Nhân
Tông, tổ phái Trúc Lâm). Đó là những vị thày tu chân chính, hoằng dương đạo
pháp. Rất đáng kính, tôi luôn noi theo. Những lớp đệ tử sau, nhiều người đã
thay đổi. Nên tôi không thường đến chùa nữa.
Hiện nay đã có những người “ợ ngáp tự xưng thần thánh nhập” và cũng có
người tự cho mình có tài “tiên tri”! Hãy thận trọng “trí tín” trong mọi việc
khi gặp loại người này. Ở thời mạt pháp có đủ các loại “giả” . Đáng nói là “giả
sư, giả thầy” (chẳng khác chi các loại hàng giả bầy bán trên thị trường) lừa
những ai nhẹ dạ cả tin. Thậm chí lừa cả những người có học đã, đang làm quan
to, tham nhũng có nhiều tiền. Sư, thày giả này đã biến kinh của Phật thành “cần
câu cơm”. Xin thưa, ngay từ xưa đã có “kinh ngụy tạo” (Kinh Ngụy Tạọ, tác giả
Prof.KyoTokuno,Ph.D, Người dịch Phạm Doãn), Kinh Phật cũng “ngụy”, ngày nay “sư
giả, hòa thượng tu giả” cũng chẳng lạ. Có lẽ bạn sẽ hỏi: Tu đến bậc hòa thượng
mà còn “giả”? Đúng, nếu đi cúng ra giá đòi tiền gia chủ (thường là sai phái đệ
tử đòi tiền cúng, tiền giấy viết sớ), thì có là đại hòa thượng cũng là “giả”.
Lúc giữ đúng giới luật nhà Phật là thật tu. Phạm giới là “gỉả tu”. Đặc biệt là Kinh
Chuẩn Đề Đà La Ni, hành trì bí mật pháp môn. Vậy mà lập đàn với hơn hai
chục thầy bà nhấy múa lung tung. Có cả hòa thượng ngồi chứng minh, đội mũ, mặc
áo cà sa như diễn viên Đường Tăng đi thỉnh kinh trong phim Tây Du ký. Lập đi lập lại
kéo dài thời gian hai đêm ba ngày, phát cho gia chủ vài lá bùa. Đã thu tiền hơn
ba trăm triệu đồng (đàn tràng này tôi đã mục sở thị ở nhà đại gia là cháu tôi).
Có thầy là một vị hòa thượng cao tăng đắc đạo, một đời tu học, được mọi người
kính trọng. Nhưng sau khi cao tăng này viên tịch. Đệ tử nối dõi, khác hẳn thầy,
đã thành thày cúng, một tay lần tràng hạt tụng kinh, tay kia lướt Iphone đọc
tin nhắn cho “sô” tiếp theo. Đó là những “thợ cúng” hành nghề mà không phải nộp
thuế. Phấn đấu phải có xe hơi đi cúng mới là “thầy xịn”! Loại này mê xe hơn
chuông mõ. Thông thường loại giả tu này kiêm luôn thày bói. Mua năm ba quyển
sách vỉa hè, vài quyển Kinh Dịch song chẳng nghiên cứu kỹ, photo lịch chữ Tầu.
Người ngoài nhìn vào tưởng họ uyên bác, trên thông thiên văn dưới hiểu địa lý.
Đến coi, thày căn cứ vào sự phân loại: - Quan tham thì sợ tù tội – Giầu có thì
cầu mạnh khỏe sống lâu để thụ hưởng và có nhiều tiền hơn nữa – Nghèo thì cầu có
tiền tài – Đàn bà, con gái đi một mình chắc là coi về tình yêu, hôn nhân v.v.
Căn cứ vào đó mà phán linh tinh, không ít thì nhiều cũng có ý đúng. Cách giải
là dùng bùa của thầy. Nếu không có kết quả thì bảo: Nghiệp quá nặng phải cúng
giải v.v.. Tôi biết có tu sỹ trụ trì chùa hẳn hoi. Bỏ chùa cho phật tử coi,
xuất cảnh sang Mỹ nơi công đồng người Việt sinh sống. Đến nhà xác cúng cầu siêu
cho người chết. Thu nhiều đô la. Nhưng ông ta lại có máu cờ bạc trên mạng.
Phật giáo nhìn bề nổi là những ngôi chùa, ngày nay chùa càng to càng tốt.
Thậm chí xây chùa cao tầng! (ngoại trừ các chùa là nơi danh lam thắng cảnh, di
tích lịch sử. Được nhà nước đầu tư xây cất) Chùa cao to, phật tử đến nhiều,
tiền cúng chùa cũng nhiều. Tha hồ tiêu tiền chùa. Người coi chùa gọi là Sư tức
thày chùa (thày trụ trì). Có hai loại chính: Chùa của giáo hội do tiền của Hội
và tín đồ thập phương đóng góp xây cất. Chùa tư là chùa do gia đình tụ xây cất
tu tại gia. Chùa là nhà, cha truyền con nối. Có người đã bỏ tu, chuyển sang
kinh doanh. Sau này thấy cạo trọc đầu đi cúng có nhiều tiền hơn nghề khác. Đã
quyết kiếm tiền nhờ núp bóng tượng Phật. Không làm cũng uổng, thế là coi bói,
xem thẻ xăm Quan thánh. Lấy cái ông Quân Vân Trường nhân vật Tam quốc chí để
xem cát hung cho khách đến chùa. Nhiều người tin mới lạ!.Nhiều thầy chùa kiêm
thày cúng, thày bói mà thành giầu có. Có tu sỹ từ “Đại đức thành Đại gia”!
Những trường hợp trên không phải là ít. Đức Phật Đại Nhật Quang Như Lai, Di
Lặc Tôn Phật v.v không bao giờ chứng cho những loại thợ cúng mặc áo thầy chùa
phạm giới luật bổn môn. Thời nay, thời mạt pháp luôn tồn tại các loại thày như
trên!. Song chắc chắn một điều có rất nhiều những vị tu sỹ, những thày đức hạnh
xứng đáng là đệ tử của Phật. Nhiều người nghiên cứu Kinh Dịch đúng đắn, không
bao giờ “kiến tài ám mục”. Họ hướng cho người khác vào con đường chân thiện mỹ.
Với gần bốn mươi năm học Dịch, tôi coi đây là sự nghiên cứu nghiêm túc nền
văn hóa Bách Việt. Điều cốt yếu của tôi nghiên cứu Dịch lý: Là để biết chính
mình và Học Đạo Làm Người, theo đúng nghĩa chữ Nhân…
*.
LƯU XUÂN THANH
Địa chỉ: Phường Nhơn Phú,
tp Quy Nhơn, Bình Định.
Email: luuquangthaibd@gmail.com
.
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 13.02.2019.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét