TIỀU THUYẾT ‘CÔ ĐỘC’
THÁCH THỨC ĐỘC GIẢ VĂN CHƯƠNG
*
(Tác giả Bùi Công Thuấn) |
Tôi đã đọc với niềm say
mê và thích thú Đôi mắt Đông
Hoàng, Tưởng tượng và dấu vết,
Sương mù tháng Giêng của
Uông Triều. Ấn tượng sâu đậm để lại trong tôi về ngòi bút Uông Triều là sự giàu
có tri thức về những tầng vỉa văn hóa lịch sử và đời sống, cùng với năng lực
sáng tạo dồi dào và thái độ viết hết sức cẩn trọng đối với văn chương của tác
giả. Cô Độc để lại cho tôi một
ấn tượng khác, bởi Uông Triều có những thể nghiệm mới trong cách viết, vì thế
nó thách thức người đọc vượt qua thói quen mòn cũ trong việc tiếp cận tác phẩm.
Trong tình cảnh ấy, Cô Độc lại
càng trở nên cô độc trong dòng chảy văn chương thị trường hiện nay.
1.NHỮNG THỂ NGHIỆM MỚI
& NHỮNG THÁCH THỨC
Tiểu thuyết Cô Độc có 60 chương, các chương lẻ
(1,3,5…) viết về nhân bật Ba. Các chương chẵn (2,5,6…) kể chuyện nhân vật B.
Hai cốt truyện song song, vì thế không thể tóm tắt nội dung truyện như một cấu
trúc thống nhất.
Bước vào thế giới Cô Độc, người đọc phải đối mặt với
nhiều vấn đề, mà nếu không vượt qua được thì không thể tiếp cận tác phẩm. Tôi
gọi đó là những thách thức.
Những trang văn cứ ẩn
hiện một hiện thực rất cụ thể, nhưng lại nhòe mờ với vấn đề tư tưởng có tầm vóc
lớn lao hơn nhiều. Đó là hiện thực ở một nhà xuất bản có quá nhiều bản thảo
nhạt nhẽo, có những con người bí mật mưu đồ lật đổ tranh quyền đoạt lợi, có
nhưng ưu tiên đẳng cấp cho người này người kia, có những bí mật giấu kín. Ý
nghĩa hiện thực này là chính hay ý nghĩa tư tưởng là chính? Vì khi hiện thưc ấy
được nhìn sâu hơn thì trang văn lại trỗi dậy mãnh liệt tư tưởng về quyền
sống tự do, quyền được là chính mình, quyền làm chủ số phận mình. Ba “sẵn sàng cảm thấy có tội để được là chính
mình” (tr.51). Ba cãi lời bố là vì “muốn được tự do” (tr. 212). Còn B, trước khi dùng dao cắt
đứt động mạch cổ tay để kết liễu cuộc đời mình, anh đã tự đánh giá: “Anh đã sống trọn vẹn với đam mê, hiến dâng
và nhiệt thành, phản bội cái cũ để cái mới được ra đời” (tr.286
). Anh đã không thể sống khác.”
Trong thế giới của Cô Độc, thật khó phân biệt thực và
ảo. Nhân vật đang hoạt động trong đời thực, bỗng trở thành ảo ảnh. Là thực
nhưng tác giả không miêu tả bối cảnh xã hội cụ thể, thành ra người đọc không
thể biết câu chuyện xảy ra ở đâu, vào những năm tháng nào của lịch sử; là ảo
nhưng lại là những hồi quang của hiện thực đã qua hoặc là ước mơ của hiện thực
không thể đạt tới. B nhiều lần chìm vào ảo ảnh ngay trong hiện thực. B đi theo
cô gái váy đen đến quán café. Anh quyết xem mặt cô để biết cô ta là ai. Nhưng
lại không chạm vào cô được. Hiệu là tay Phó Giám đốc mới, đến gặp B để thương
lượng. Hiệu ngồi trước mặt B. Đang nói chuyện với Hiệu, B thấy ông ta “phình to ra như một con quái vật. Anh ta
căng phồng và nở ra như một con voi” (tr.165). B vào nhà kho của
nhà xuất bản và nói chuyện với ông Giám đốc trong ảnh cũng là một ảo
giác (đoạn 26, tr. 125). Trước khi tan vào tro bụi, trong cơn sốt, Ba
“cảm thấy một bàn tay phụ nữ đang đặt
trên trán anh và một đứa con gái nhỏ giống anh như hệt đang đứng ở cuối giường
âu yêm nhìn cha. Đứa bé có đôi mắt của Cầm” (tr.285). Đó là ước
mơ suốt đời Ba kiếm tìm nhưng không thấy. Tất cả những ảo giác của nhân vật đều
chứa đựng thông điệp tác giả muốn nói về hiện thực?
Quá khứ trộn với hiện
tại, tuyến tính thời gian thường được dùng để phát triển cốt truyện bị xóa mờ.
Những câu chuyện của mấy chục năm, của một đời người được xếp chồng lên nhau.
Nhà văn chỉ viết: “có lần”, “có lúc”, “vào một ngày”, “một chiều”,
“một buổi tối”, “một buổi sáng”, “khi còn là
học sinh”, “nhiều năm sau”, “nhiều năm về sau”. Không có một cột mốc
thời gian cụ thể để người đọc bám víu vào mà hình dung ra con người thực của
nhân vật. Không gian thực làm bối cảnh cho tiểu thuyết cũng được cắt gọt đến
cái lõi chỉ còn lại tư tưởng để người đọc không được quyền liên hệ đến nhà xuất
bản này hay ông giám đốc kia trong đời thực. Nhà văn Uông Triều đã bạch hóa vấn
đề trên trang Facebook của mình rằng: “những
người đọc đầu tiên bảo, định nổi loạn hả, anh có phải là nhân vật B không? Định
chống lại nhà số 4 à? Những người khác bảo, nó phức tạp đấy, sex hơi nhiều và
có những biểu tượng rất nguy hiểm.” Tôi thì nghĩ, những bạn đọc ấy
chưa vượt qua được bức tường nghệ thuật để thâm nhập được vào thế giới tư tưởng
của tác phẩm.
Một thách thức trực tiếp
đối với người đọc là nhân vật Ba và B. Hai nhân vật này là hai hay là một? Cuộc
đời họ được kể song song trong tác phẩm như hai câu chuyện tách biệt. Hai nhân
vật này không có quan hệ gì với nhau, không có dây nhợ gì trong cốt truyện cột
buộc họ. Ba có cha mẹ, chị gái và những ký ức vùng quê, ký ức tuổi thơ, B không
được miêu tả nhân thân. B khẳng định với cô gái váy đen anh không phải là
Ba (tr.146). Kết thúc truyện, hai nhân vật này có cái chết khác nhau.
Ba bị bịnh, lên cơn sốt rồi chết. Trái lại, B rất tỉnh táo. Anh chui vào lò
thiêu bản thảo trong phòng, cắt đứt tất cả động mạch ở cổ tay tự tử. Nếu Ba và
B là một người thì cả hai phải cùng chết trong một hoàn cảnh cụ thể. Người đọc
thì tin rằng B và Ba là một người, vì họ có những điểm giống nhau. Cả hai đều
là biên tập viên, đều đi tìm một bản thảo vĩ đại (Ba, tr.198; B : tr.
205). Cả hai đều thích cuộc sống cô độc, không quan tâm đến ngưới khác,
không thích đám đông, nhưng quan hệ với nhiều người đàn bà. Họ làm bạn với rượu
và sex. Chỉ khi giải mã được bản chất nghệ thuật và tư tưởng của hai nhân vật
này, người đọc mới có cơ may đọc được thông điệp của tác phẩm.
Cô Độc dựng lên một thế giới ngột ngạt chật chội. Không gian của B chỉ là cơ
quan nhà xuất bản, nhà kho, con đường và quán café. Không gian của Ba chỉ là
những ký ức. Các nhân vật trong Cô Độc
cuộn xoáy trong những vòng lặp của ảo giác, của ký ức, và những ẩn dụ. Những
cánh bướm rất to theo với Ba, con sóc đực trên cành cây bám lấy B và nhìn anh
chế giễu. Cẩm là đối tượng truy tìm của Ba từ đầu đến cuối tác phẩm. Cô gái váy
đen cứ ẩn hiện trong cuộc rượt đuổi của B. Ba không xuất bản được cuốn sách của
Cầm, B cố ý ngăn cản việc in cuốn sách của Mạo. Hình ảnh người bảo vệ đào
đất để thông “cổng địa ngục” ám ảnh B, tương đồng với sự ám ảnh của ông
già đánh cá (tr. 90) chở Ba trên hồ khi anh đi tìm đứa con hoang của
mình. Trong đêm trăng ngày 15 giữa tháng, “kẽ nứt ở góc sân” (tr.173) mở
ra dẫn B xuống một hang rộng có những hình nhân đứng bất động… Thế giới ngột
ngạt ấy có ý nghĩa gì?
II. THỬ VƯỢT QUA THÁCH
THỨC
Chìa khóa để mở cửa bước
vào thê giới nghệ thuật của Cô Độc là sự xác lập xem Cô Độc là tiểu thuyết hư cấu (fiction) hay
phi hư cấu (non-Fiction).
Khi người đọc đặt vấn đề
với tác giả rằng: “định nổi loạn hả, anh có phải là nhân vật B không? Định
chống lại nhà số 4 à? Những người khác bảo, nó phức tạp đấy, sex hơi nhiều và
có những biểu tượng rất nguy hiểm.” tức là coi Cô Độc là một tác phẩm hiện thực (non-fiction). Căn cứ vào cấu
trúc tác phẩm, Cô Độc là một
tác phẩm hư cấu (fiction), nghĩa là nhân vật, bối cảnh, sự việc, con
người, cốt truyện đều do tác giả tưởng tượng ra, không có thật. Tác giả không
lấy nguyên mẫu từ đời thực để đặt vấn đề về nhà xuất bản nơi nhà văn công tác,
để phê phán những người ở nhà xuất bản ấy. Nơi ấy cũng chẳng có ai như Ba và B,
chẳng quan tâm đến ai, chỉ có rượu và gái. Nơi ấy cũng chẳng có ai tâm thần tự
cắt tai như Ngụy hay tự tử bằng thuốc ngủ như Mạo, hay tự cắt động mạch tay
chết như B.
Dấu chỉ nào giúp người
đọc nhận ra Cô Độc là tác
phẩm hư cấu (fiction)?
Trước hết, tác giả tước
bỏ hết bối cảnh xã hội của câu truyện. Không có một chi tiết nào để người đọc
có thể suy đoán ra sự việc, con người, câu chuyện đang diễn ra ở nơi nào trong
không gian thực, diễn ra trong khoảng thời gian nào của xã hội Việt Nam. “Ba xin phép nghỉ dài ngày để đi tìm kiếm… anh đi về
những vùng núi, vùng hồ… Ba đến một khu hồ lớn, anh thuê khách sạn rồi đi lang
thang trong vùng” (tr.88). Người
đọc không thể định vị khu hồ lớn ấy ở đâu, đời sống xã hội nơi đây thế nào.
Và trong Cô Độc, tác giả đưa vào rất nhiều
chuyện giả tưởng (fiction). Đó là những chuyện hoang tưởng, ảo giác của B, và
cả của Ba. Chẳng hạn, “một hôm trong
rừng lang thang, Ba gặp đàn bướm khổng lồ ở cái thác nước ngày nào. Chúng bay
rợp trên đầu anh, tạo một cảnh vô cùng kỳ thú…Đúng lúc ấy anh nhìn thấy Cẩm
đang ở trước mặt…đôi chân anh guồng nhanh và anh thấy mình bay trên mặt đất. Lũ
bướm… cô gái… Tất cả bay theo anh” (tr.202). Chuyện thầy chủ
nhiệm nói với Ba về một cuốn sách nguy hiểm, nhưng thầy không cho ai
biết. Bọn trộm và Ba đã tìm cách đánh cắp chiếc cặp nghi có cuốn sách bí ẩn đó.
Nhưng mở cặp ra “chỉ vài cuốn sách giáo
khoa và giáo án, ba cái bút mực và một đôi bít tất màu xanh đã thủng lỗ…” (tr.192). Khi
Ba đã trưởng thành, trở thành biên tập viên, anh về thăm thầy. “Nhưng vào đúng
cái ngày anh trở về trường, thầy chủ nhiệm đã treo cổ trong nhà” để giữ bí mật
về một cuốn sách lớn. Tất nhiên, ai lại tin đây là chuyện thật, bởi trên đời
này chẳng có ông thầy chủ nhiệm nào như thế.
Cô Độc là một tiểu thuyết hư cấu (fiction) vì thế không nên áp đặt cái nhìn
“phản ánh hiện thực”(phản ánh luận) để đọc và đánh giá tác phẩm. Cô Độc có
khuynh hướng một tiểu thuyết tư tưởng. Tất cả chuyện kể là để trình bày những
vấn đề tư tưởng. Những vấn đề này cao và rộng hơn nhiều cái “hiện thực” mà
người đọc nhìn thấy.
Xin hãy ngẫm nghĩ về tư
tưởng này: “Phản bội cái cũ để cái mới
được ra đời” (tr.286). Đây là tư tưởng B đã đấu tranh quyết liệt
và đánh đổi bằng cả sinh mệnh của mình để khẳng định. Anh đã bị bao nhiêu thế
lực kết án. Anh nói với ông cựu giám đốc nhà xuất bản: “Tôi chấp nhận bị sỉ nhục và coi đó là sự trừng phạt đích đáng với mình”…”;
“Tôi đã làm thứ tôi cho là cần thiết,
không có mưu cầu riêng gì ở đây.” (tr.288)
Trong ý nghĩa tư tưởng
thì người đọc sẽ tra vấn “Phản bội cái cũ để cái mới được ra đời” là để nói đến
vấn đề gì?
Trong đời sống, sự
phản bội luôn là hành vi xấu xa cần phải lên án. Nhà văn cũng đã để cho
nhiều nhân vật lên án sự phản bội của B, nhưng B vẫn quyết liệt khẳng định mình
là kẻ phản bội (tr. 272, 278, 287), anh chấp nhận tất cả để “cái
mới được ra đời”. Những ý tưởng ấy của B gợi cho tôi (theo cách đọc liên văn
bản) về “Giã biệt bóng tối (Tạ
Duy Anh), “Ăn mày dĩ vãng”
(Chu Lai), đến “Nỗi buồn chiến tranh”
(Bảo Ninh). Và nghĩ đến kẻ phản bội của thời đại là của Gorbachev. Năm
1987 Gorbachev đã phản bội cách mạng Xô-viết để cho ra đời nước Nga ngày nay. Ở
Việt Nam, các nhà văn thời kỳ đổi mới (1986-1996) có thể được coi là những
người đã “phản bội” lại chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa để thực hiện
cho được sự đổi mới văn chương. Và nếu cứ suy gẫm miên man về “Phản bội cái cũ
để cái mới được ra đời” thì Cô
Độc trờ thành “một cuốn sách
nguy hiểm” (tr.188) như cuốn sách nguy hiểm mà thầy
giáo chủ nhiệm của Ba đã đánh đổi mạng sống của mình để giấu kỹ!
Tuy nhiên cần lưu ý rằng
Tác giả không khẳng định “cái mới” mà B đánh đổi sinh mệnh có tốt hơn cái cũ
hay không. Người ta chưa biết tay Phó Giám đốc nhà xuất bản mới lên thay này có
thể cứu nhà xuất bản khỏi phá sản hay không, nhưng biết rõ rằng chính ông ta đã
làm áp lực với B để B đứng về phía ông ta. Ông ta đe dọa tố cáo B quan hệ bất
chính với đàn bà và tội thiêu hủy bản thảo (tr. 243). Và nhắc B về quyền
lực của bóng tối (tr.244) ngầm răn đe B sẽ phải chịu những hậu quả
nặng nề. Cứ theo cái cách hành xử của tay Phó Giám đốc mới thì “cái mới” cũng
chẳng tốt đẹp gì hơn “cái cũ”. Quyết định của B đứng về phía giám đốc mới
trở thành ảo tưởng. Cái chết của B là sự trả giá cho “quyền lực của bóng tối”.
Tư tưởng “Phản bội cái cũ để cái mới được ra đời” có thể là một lời cảnh
báo?
Một tư tưởng khác dội lên
rất mạnh mẽ trong tác phẩm là khẳng định sự tồn tại của cá nhân. Cả Ba và B đều
kiên định trước tất cả những áp lực để giữ cho được là chính
mình, làm cho được điều mình thích cũng như tự chọn lựa con đường của số
phận mình. Ba đã chống đối quyết liệt người cha để trở thành biên tập viên. Cha
anh luôn “kỳ vọng anh làm được những điều
lớn lao, nhưng anh né tránh những thứ kỳ vĩ…Anh muốn thế giới của riêng mình,
xa lánh hấu hết…” (tr.70). Giám đốc nhà xuất bản mời B nói
chuyện, có ý thuyết phục anh, “Mong anh
vẫn luôn là anh”. B nói: “Tôi chưa
bao giờ là người khác” (tr.175). Trong cuộc bỏ phiếu bầu Giám đốc
mới, người ta tin chắc B đứng về phía bảo thủ, nhưng là người cuối cùng quyết
định cuộc bầu cử, B lại đứng về phía “cái mới” là bầu cho Phó Giám đốc. Đó là
việc làm anh cho là cần thiết, không chịu áp lực của bất cứ ai (tr. 288).
Tư tưởng khẳng định sự
tồn tại cá nhân được nhà văn giải quyết thế nào?
Ba trở thành biên tập
viên. Anh tìm thấy ý nghĩa của việc biên tập là: “…tìm kiếm một bản thảo vĩ đại làm lừng danh cho sự nghiệp của anh và lưu
danh trong nền văn chương thế giới” (tr.198). Việc anh chọn nghề
biên tập là trái với ý của bố. Có lần Ba mơ thấy mình nói chuyện với
bố. Bố buồn vì anh bất hiếu. Anh vô sinh không có con nối dõi. Chống đối
bố nên Ba đi làm và ít về nhà. Anh sống theo ý thích của mình. Lần gặp gỡ Cẩm ở
bên thác và đêm ngủ lại ở nhà trọ để lại dấu ấn trong anh suốt đời. Vì thế mà
anh li dị với vợ (Hà). Từ đó, anh luôn tìm kiếm Cẩm, đồng thời quan hệ và ngủ
với nhiều cô gái khác. Cô gái chèo đò, cô gái tên Yên, cô gái ở quán massage…
Hầu hết những cô gái đi qua đời anh đều có những phẩm chất giống mẹ anh. Với
họ, “Anh chỉ là một kẻ lãng du, một kẻ
qua đường lãng mạn và say đắm” (tr.283). Ba thương chị gái, vì
chị thất nghiệp, chồng con chẳng ra gì. Nhưng kỷ niệm với gia đình làm anh nhói
lòng. Ba nghĩ mình có lỗi trong cái chết của thầy chủ nhiệm. Khi Ba bị viêm
phổi, trong cơn đau miên man, hồi ức của anh cứ trở lại. Có lần anh gặp lại vợ
cũ ở biển. Hà đi với người đàn ông trung niên giàu có. Ba thấy anh mắt Hà xa
lạ, dửng dưng, quên lãng. Trước khi bị bạo bệnh, Ba về thăm nhà bố mẹ, ăn bữa
cơm ngon (tr.274). Đứng trước cái tủ bố cất những cuốn sách Ba đã
biên tập và in, Ba nhận ra mình sai (tr.276). Khi thăm mộ cha mẹ,
“Anh đứng trước mộ bố mẹ và cúi đầu xuống như đứa trẻ
biết lỗi” (tr.277). Khi cơn bệnh đã trầm trọng, Ba nghĩ đến
những đứa con. Nếu có con, nếu đứa trẻ giống anh, nó sẽ luôn đau khổ, đời
nó sẽ không bình thường như những người khác (tr.284). Anh quyết định
phần lớn tài sản gửi vào các trại trẻ mồ côi. Cơn sốt lại ập đến, anh mơ hồ cảm
nhận một bàn tay phụ nữ và một đứa trẻ có đôi mắt giống Cầm đang đứng ở cuối
giường. “Anh thấy mình chơi vơi giữa một
đám bướm khổng lồ và tan biến như tro bụi” (tr.285).
Tự chọn cuộc sống của
riêng mình, cuối cùng Ba đã nhận ra sai lầm. Dù mặt nổi của Ba là cuộc đời của
một người lập dị, thích cô độc, nhưng trong sâu thẳm tâm hồn Ba vẫn nặng tình
với những người thân yêu. Và phút cuối đời mình, anh vẫn mơ hồ có được niềm an
ủi khi có Cầm và đứa con đứng bên cạnh.
Nếu Ba là con người ký ức
thì B là con người hiện tại. B làm biên tập viên đã 20 năm, thích sự yên bình,
phụ nữ và rượu ngon (tr.187). “Phòng
của anh là một không gian u uất” (tr.9) Anh sống cô độc trong sự
bủa vây của bóng tối. “Anh muốn sờ chạm,
hít ngửi sự cô độc và hoang lạnh của bóng tối. Anh biết rằng có rất nhiều linh
hồn đang di chuyển” (tr.249). Anh đã đốt rất nhiều bản thảo mà
anh cho là nhạt nhẽo. B luôn lo sợ và bất an. Anh sợ “những trang viết chạm
đúng tim đen của anh, khơi ra những tội lỗi, mong muốn thầm kín của anh, sỉ vả
và buộc tội khiến anh phải dằn vặt rất lâu sau đó” (tr. 103). B sợ cả
những bản thảo mình biên tập, sợ những thứ ghê gớm mà chúng chất chứa. “anh sợ toàn bộ con người, tính cách, thói
quen và sở thích của anh sẽ bị phơi bày” (tr.94).
B bị ám ảnh bởi tiếng lóc
bóc trong phòng mà anh không sao tìm ra nguyên nhân. Anh bị đồng nghiệp là Mạo
và Ngụy rình rập, theo dõi và gây áp lực. Cả những người đã chết mà anh tìm
thấy ảnh trong nhà kho, và những hình nhân trong cái hang dưới kẽ nứt ở góc sân
cũng gây cho anh nỗi bất an. Cái chết của một ông già có bản thảo bị anh đốt
làm anh day dứt. Anh bị mọi người kết án là “kẻ kiêu ngạo, bảo thủ và không biết điều” (tr.262); “là thằng khốn kiếp và ích kỷ, một kẻ độc ác
và tàn nhẫn, vô lương tâm và bạc bẽo, vô đạo đức, trụy lạc dâm dật (tr.263) “…anh
giống như một quái vật, một nhân vật không thể dung hòa, không thể lại gần, như
một kẻ lập dị đầy bí hiểm” (tr.113). Anh lâm vào tình trạng bị ảo
giác thường xuyên. Ảo giác về cô gái váy đen. Sau nhiều lần truy đuổi, B gặp
được cô gái. Anh và cô gái vào khách sạn ở tầng cao nhất. B chiếm hữu cô gái.
Sau đó cô ta mọc ra đôi cánh như loài bướm và bay hút vào không gian của
đêm (tr.209). Mạo đã tự tử chết vì thuốc ngủ nhưng nhiều lần B vẫn
nghe tiếng Mạo cười trong quán cà phê, nghe tiếng khóc của bản thảo bị đốt
rụi (tr.217). B như người mộng du (tr.218). Có khi anh lại
cho chính mình đang theo dõi mình (tr.226). Có lần anh nói với Ngọc
rằng anh muốn giết người vì chán nản (tr.117), và tự thấy mình là kẻ
sát nhân (tr.167). Nhiều lần anh đã hãm hiếp Ngọc một cách dữ dội và
điên cuồng (tr.58, 87). Anh đã nghĩ đến sự biến
mất (tr.114), và cả sự hủy diệt (tr.115)…Và sau cùng B đã tự sát
trong chính cái lò anh thiêu bản thảo.
Những biểu hiện tinh thần
của B có thể giải thích bằng y khoa. B bị chứng “tâm thần phân liệt”, nhưng bản
thân B không biết. Có lẽ do áp lực quá lớn của môi trường làm việc. Trước đó,
người tiền nhiệm ở trong phòng của B cũng tự sát vì trầm
uất (tr.56). Người bạn đồng nghiệp lả Mạo cũng đã uống thuốc ngủ tự
tử, bạn đồng nghiệp thay Mạo là Ngụy thì tự cắt tai minh. Và B cũng không tránh
khỏi chứng trầm uất. Anh vừa cứng đầu vừa sợ hãi bất an; vừa kiêu ngạo, độc ác
vô lương tâm vừa “nổi gai ốc” trước sự đe dọa trừng phạt của bóng
tối (tr.244). Cuối cùng B cũng tự sát như một người có y thức rất sâu
về chính mình.
Nhà văn đã chỉ ra hậu quả
thảm khốc của tư tưởng cá nhân muốn được là chính mình, khẳng
định sự tồn tại của cái tôi: “Tôi có bản thân mình”, khẳng
định ý chí và tự do: “không muốn làm theo
ý muốn của người khác “(tr.210). Tác phẩm miêu tả sự tồn tại cái
cá nhân cực đoan chống lại tất cả, sẵn sàng phản bội cái cũ (truyền thống) để
cái mới ra đời; sự đề cao một lối sống chỉ cho riêng mình, tự do tuyệt đối (như
con sóc, tr.112, 225), rượu và đàn bà, chống lại tất cả như B, chống lại
bố như Ba, đều là sai lầm và đưa đến hậu quả thê thảm.
Ba và B trở thành sự đề
xuất của tác giả về giải pháp vượt qua sự thê thảm. Sau cùng, khi trở về nhà và
ra thăm mộ cha mẹ, Ba biết mình sai. Ba hiểu ra tình thương yêu của bố, ba nhận
ra tất cả những người đàn bà đi qua đời anh đều có nét giống mẹ. Anh giã từ
cuộc đời trong ước mơ hạnh phúc với người phụ nữ và đứa con gái nhỏ có đôi mắt
giống Cẩm, người anh tìm kiếm suốt đời.
Ba và B là một bản gốc,
nhưng là hai phiên bản (version) khác nhau. Tác giả đề xuất với người đọc như
một tác phẩm mở (The open work - Umberto Eco), từ đó gợi mở với
người đọc về nhiều vấn đề tư tưởng. Có thể chứng tâm thần phân liệt của B là
một cái cớ để nhà văn rạch những đường phẫu thuật rất sâu vào thực tại, về
“quyền lực của bóng tối” (tr. 244), thân phận con người (Ba, B, Mạo,
Ngụy, người tiền nhiệm của B) và sự băng họai của xã hội như sự đổ vỡ gia đình
(gia đình Ba), tình trạng các cô gái nổi loạn (tr. 229), nơi làm
việc, cơ quan trở thành địa ngục (tr.259).
Những giấc mơ, những ảo
giác, những hoang tưởng của B và của Ba, trước hết là những biểu hiện của bệnh
tâm thần của nhân vật, nhưng có sự giao thoa rất tinh tế với những ẩn dụ nghệ
thuật mà người đọc không thể bỏ qua (vì không hiểu, hay chỉ coi đó là triệu
chứng của căn bệnh). Tiếng lóc bóc trong phòng của B, theo với B suốt
tác phẩm có thể chỉ là một âm thanh ảo của chứng tâm thần (vì mọi người không
nghe thấy), nhưng về nghệ thuật đó là âm thanh của sự đe dọa, gần như một sự
khủng bố. B vào nhà kho nói chuyện với các bức ảnh và xuống hang qua kẽ nứt ở
góc sân nói chuyện với những hình nhân, cả bức ảnh treo trong phòng phó Giám
đốc quắc mắt nhìn B (tr. 234) không chỉ là sự hoang tưởng tâm thần,
nhưng còn là ẩn dụ về thế giới của bóng tối, là sức mạnh của bóng tối, điều ai
cũng có thể nhận thấy trong xã hội hôm nay. Con sóc đực xuất hiện nhiều lần
cũng là một ẩn dụ, và thật ngỡ ngàng khi B lại đập chết con sóc ấy (tr.
245).
Nói như vậy để thấy rằng,
tác giả đã làm cho ngôn ngữ có cả xác và hồn. Và việc nắm được hồn cốt của tác
phẩm mới là điều người đọc cần hướng tới.
DƯ ÂM
Thú thực rằng tác phẩm
không dễ đọc và có lúc tôi đã định bỏ cuộc. Chỉ khi tìm ra chìa khóa cấu trúc
tác phẩm tôi mới tìm thấy lối đi vào thế giới mênh mông của tư tưởng và nghệ
thuật. Đôi khi tôi bị xô giạt bởi những ý nghĩ Cô Độc là một tác phẩm văn chương hiện sinh mà Ba và B thể hiện
khá rõ. Đó là sự cô độc, là tự do tuyệt đối, trong ý thức “Tha nhân ấy là địa ngục” (J. P. Sartre). Sống là đi về cái
chết. Hiện sinh quy tử, con người trong cuộc sống bị dồn đuổi đến chết. B
chuẩn bị và đi đến cái chết một cách bình thản như một Con Người, nhẹ nhàng mà
lẫm liệt: “Bổn phận của mi là lên
đường đi đến hố thẳm, một cách im lặng, một cách rộng lượng và không hy
vọng”. (Nikos Kazantzakis, Ascèse-dẫn theo Phạm Công Thiện). Những ngẫm
nghĩ ấy đem đến cho tôi sự thú vị, bởi văn chương Việt Nam, với Cô Độc, đã vượt qua giới hạn của sự
“phản ánh hiện thực” mà tiếp cận đến kiểu văn chương tư tưởng. Rất tiếc là ngòi
bút của Uông Triều chưa tiếp cận được cách miêu tả dòng chảy ý thức của nhân
vật tư tưởng trong văn chương Hiện sinh. Hư cấu sáng tạo khá phong phú nhưng
màu sắc thẩm mỹ của các chương đoạn chưa thật ấn tượng, điều này dễ làm đuối
sức người đọc.
Dẫu thế nào, Cô Độc vẫn đang thách thức các nhà
phê bình văn học. Và tôi nghĩ, cuốn sách rất xứng đáng với công sức viết suốt 3
năm của tác giả. Tác giả bộc bạch điều này: “CÔ ĐỘC đến với đời thật cô
độc nhưng rồi nó sẽ không cô độc khi có những người hiểu và tri âm với nó”. Đó
là lời mời gọi tri âm.
Mời thư giãn với nhạc phẩm CÁT BỤI CUỘC ĐỜI
của Hà Sơn, qua tiếng hát Châu Thanh và Lê Sang:
*.
Đồng Nai, tháng 11.2019
BÙI CÔNG THUẤN
Địa chỉ: thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.
Facebook: Bùi Công Thuấn
........................................................................................
- Cập nhật từ email: quanboyman1992@yahoo.com.vn
ngày 07.02.2020.
- Bài viết không thể hiện quan
điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Đọc bài viết này chợt nhớ tới nhận xét của nhà văn Dương Thu Hương về các nhà phê bình văn học:
Trả lờiXóa"Tất cả bọn phê bình đều là dòi bọ. Riêng Phan Cự Đệ là con chó ngao."
thấy thương các "nhà nhiều chữ" thích làm thầy thiên hạ quá.