VĂN CAO - MỘT ĐỜI
TÀI HOA
NHƯNG ĐAU ĐỚN
*
Chào các bạn, hôm nay là ngày 10/7, là ngày mất nhạc sĩ
Văn Cao. Chắc ai cũng biết ông là tác giả bài quốc ca gần như được hát mỗi ngày
trên khắp lãnh thổ Việt Nam, tuy nhiên cuộc đời ông còn nhiều điều đặc sắc hơn
thế. Nói theo ngôn ngữ ngày nay là sống “chất”. Nhân ngày giỗ của cụ, hôm nay
tôi kể cho các bạn nghe một chút về cuộc đời truyền kỳ của cụ.
1. GIANG HỒ MÊ CHƠI QUÊN QUÊ HƯƠNG
(thơ Tản Đà)
Ông sinh ngày 15/11/1923 tại Lạch
Tray, Hải Phòng (gần chảo lửa Lạch Tray - nơi mà mọi tín đồ bóng đá đất cảng
đều biết), là con của giám đốc thủy cục Hải Phòng, từ nhỏ Nguyễn Văn Cao (tên
thật) được học trường tây, học tiếng Pháp và làm quen với âm nhạc, hội họa
phương tây. Năm 15 tuổi, gia đình sa sút, Văn Cao bỏ dở việc học và vào làm
việc ở bưu điện Hải Phòng nhưng công việc bàn giấy gò bó làm ông cảm thấy không
phù hợp, sau 1 tháng ông bỏ việc.
Thời điểm này, tân nhạc Việt Nam
manh nha phát triển. Tân nhạc tức là nhạc chơi theo piano, dương cầm, trống và
saxophone theo kiểu “tây”, trước đó dân Nam ta chỉ có chơi nhạc bằng “nhạc cụ
dân tộc”, thường là phường bát âm. Văn Cao có học về nhạc lý ở trường tây, Hải
Phòng lại là nơi tập trung nhiều nhạc sĩ tân thời lúc bấy giờ nên Văn Cao tham
gia vào nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý cùng Tô Vũ, Canh Thân, Đỗ Nhuận... và bắt
đầu sáng tác ca khúc đầu tay là "Buồn tàn thu" vào năm 16 tuổi. Cũng
trong thời gian ở Hải Phòng, Văn Cao làm quen với một tên tuổi lớn của âm nhạc
Việt Nam sau này: Phạm Duy.
Rời gia đình theo ban nhạc, Văn Cao
bắt đầu những ngày tháng phiêu bạt. Năm 1940, theo lời xúi của Phạm Duy, ông
làm một chuyến hành trình vào miền Nam. Năm 1942, ông chuyển từ Hải Phòng lên
Hà Nội, rồi theo học dự thính truờng Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương. Vừa theo
học, Văn Cao vừa tự kiếm sống bằng viết báo, làm thơ và vẽ tranh, Văn Cao thật
sự là một tài năng lớn, tranh của ông được đánh giá cao, và sự nghiệp hội họa
của ông có nét tương đồng với Van Gogh. Tức là tranh ông được đánh giá cao
nhưng khi sống méo có ai mua, nhạc sĩ của chúng ta nhiều phen đói méo mỏ, ngay
tới cả bộ veston mặc khi tổ chức triển lãm tranh cũng là hàng đi mượn và trong
bộ vest ấy là cái túi rỗng, không có lấy xu nào…âu cũng là tình cảnh chung của
nhiều văn nghệ sĩ khi đó.
2. TAY SÚNG TRỪ GIAN
Năm 1944, qua một cán bộ nằm vùng là
Vũ Quý, Văn Cao gia nhập Việt Minh. Công việc của ông trong tổ chức khá
"ngầu": Đội trưởng đội Danh Dự Việt Minh - chuyên bảo vệ các cán bộ
chủ chốt khi di chuyển hoạt động và ám sát các tay Việt Gian cộng tác với Pháp.
Vế sau được đội của Văn Cao thực hiện thường xuyên hơn. Vốn học võ từ năm 9
tuổi, lại sớm "lăn lộn giang hồ" từ năm 16 tuổi, từng nhiều phen
thượng đài đánh võ ở Hải Phòng, chàng nghệ sĩ xếp bút vẽ, đàn sáo qua một bên
và chọn lấy cây súng. Trong căn gác thuê số 43 phố Nguyễn Thượng Hiền, Văn Cao
thường xuyên tổ chức các khoá học ngắn ngày về bắn súng, võ thuật và hoá trang
cho các đồng chí của mình (nghe giống... Hứa Văn Cường trong Máu nhuộm bến
Thượng Hải nhỉ?)...
Rất nhanh, Văn Cao và các đồng chí có đất dụng võ, trong
năm 1945 có hai vụ khá lớn tạo tiếng vang ở Hà Nội và Hải Phòng thời bấy giờ:
* Vụ mưu sát Võ Văn Cầm - Hà Nội
Cầm là người đứng đầu tổ chức Thanh
niên Đại Việt - một tổ chức thân Nhật. Cầm thường xuyên dẫn hiến binh Nhật đi
bố ráp các cán bộ Viêt Minh và phải nói là hắn làm việc rất khá, nghĩa là khối
anh em Việt Minh bị Cầm tiễn vào trại. Tháng 4 năm 45 sau nhiều lần nói chuyện
phải quấy bất thành, xứ uỷ Bắc Kỳ quyết định "thịt" Võ Văn Cầm, nhiệm
vụ được giao cho nhóm của Văn Cao.
Anh em điều tra ra quy luật đi lại hàng ngày của Cầm: Mỗi
trưa đều tạt về nhà vợ nhỏ bằng xe kéo rồi ở đó ăn cơm và ngủ trưa, đi theo hắn
là 1 tên vệ sĩ luôn giắt súng trong người. Kế hoach đặt ra là một người đồng
chí của Văn Cao sẽ đạp xe theo xe kéo, đến phố Bà Triệu thì thêm một người nữa
đi theo. Hai người này cùng đi đến chợ Hôm thì Văn Cao sẽ chờ sẵn, trong lúc
anh Cao bắn Cầm thì hai người kia "xử đẹp" tên vệ sĩ. Tuy nhiên lúc
sắp thực hiện kế hoạch thì người đồng chí thứ hai bỗng lên cơn ... húng chó,
anh này bỗng nhiên muốn headshot Cầm để nhanh lấy số nên bất thần chạy xe vượt
lên. Cả Văn Cao và người còn lại đều bất ngở, tay này chạy vượt lên và... bắn
trượt (hehe), Cầm vội vàng nhảy mẹ xuống gầm xe trốn luôn. Tên vệ sĩ đi cạnh
Cầm vội rút súng định bắn thì người đồng chí thứ hai kịp ra tay bắn chết hắn,
anh Cao trốn gấp, hết chuyện.
* Vụ mưu sát Đỗ Đức Phin tại Hải Phòng
Hai tháng sau cú trớt quớt kể trên ở Hà Nội, tháng 6/1945
nhóm Văn Cao & Những người bạn lại được giao nhiệm vụ "giũ sổ"
một đối tượng khác - Đỗ Đức Phin. Tên này vốn là một thầy giáo tiếng Nhật, sau
khi người Nhật vào Đông Dương, chiếm cảng Hải Phòng, Phin trở thành thông ngôn
cho Nhật. Nhưng chắc lương thông ngôn bèo quá, Phin chuyển ngành sang làm mật
thám, chỉ điểm, do thám các cơ sở Việt Minh cho Nhật. Các bạn của Văn Cao ở Hải
Phòng chịu hết thấu, biên thơ lên Hà Nội cho ông. Được cấp trên đồng ý, Văn Cao
trở về Hải Phòng tính kế hoạch mần thịt Đỗ Đức Phin.
Rút kinh nghiệm bị đồng bọn phá hôi lần trước, lần này
Văn Cao hành động một mình: Ông hoá trang thành một ông lão, để cho một đàn em
đèo trên xe đạp đến gần tiệm thuốc phiện đã được xác định là Phin đang nằm
trong đó, tới nơi Văn Cao bảo người đồng chí đi bộ về, để xe lại cho ông. Ông
lách qua cửa chính tiệm hút, đi lên gác, vào đúng phòng Phin đang nằm phê, rút
khẩu colt ra bóp... kẹt đạn, ko sao, có dự phòng, Văn Cao móc ra khẩu browning
và nã 2 phát, lần này súng nổ, mission complete !!!
* Quán rượu biên thuỳ - Kết giao huynh đệ
Tháng 12 - 1946, quân Pháp đã quay
lại, Hà Nội lúc này gần như vô chính phủ, kẹt giữa Việt Minh - Pháp và Tàu Tưởng
(Trung Hoa dân quốc). Ở Hà Nội đã vậy, trên vùng núi biên giới phía Bắc cũng
rất căng thẳng, Lê Giản - Giám đốc Nha Công an Trung ương tìm gặp Văn Cao tại
quán cà phê Thiên Thai ở phố Hàng Gai và đề nghị: "Tình hình Lào Cai hiện nay rất phức tạp, bọn Quốc dân đảng cấu kết với
thổ phỉ chống phá chúng ta công khai, trong khi lực lượng ta lại yếu. Mình muốn
cậu sang giúp ngành Công an. Cậu sẽ phụ trách Đội điều tra Công an Liên khu 10.
Với kinh nghiệm hoạt động bí mật trước đây, lại có vỏ bọc là nhạc sĩ, chỉ có
cậu mới đủ khả năng trong công việc khó khăn và phức tạp này".
Tháng 3 năm 1947, Văn Cao cùng vợ
lên Lào Cai. Một địa điểm gần chợ Cốc Lếu được Văn Cao chọn làm cơ sở hoạt động
của Đội điều tra. Văn Cao mở quán cà phê ca nhạc lấy tên là quán Biên Thuỳ, tin
tức về quán cà phê tân nhạc với ông chủ tài hoa và chất chơi nhanh chóng lan ra
khắp các làng bản vùng biên thuỳ. Tại đây, Văn Cao có điều kiện gặp gỡ, tiếp
xúc và kết nghĩa với Vua Mèo Hoàng A Tưởng. Trung tuần tháng 7 năm 1947, lễ kết
nghĩa được tổ chức long trọng tại dinh thự của Hoàng A Tưởng. Bên phía Văn Cao
có Trần Huy Liệu - đại diện Chính phủ, cùng toàn bộ các nghệ sĩ của quán Biên
Thùy tham dự. Hoàng A Tưởng và toàn thể gia đình họ hàng cùng rất đông bạn bè,
quan khách.
Bằng uy tín của mình, Văn Cao đã giác ngộ các thổ ty hiểu
thêm về chính sách đoàn kết các dân tộc của Hồ Chủ tịch và Chính phủ. Theo lời
khuyên của Văn Cao, Hoàng A Tưởng, Nông Vĩnh Xương, Vương Chí Sình, Đèo Văn
Long có nhiều hành động thiết thực giúp đỡ và ủng hộ Chính phủ trong những năm
đầu của cuộc kháng chiến. Cần phải biết: Trước năm 1945, những người vừa kể
trên là những "ông vua không ngai" của Tây Bắc, ngay đến người Pháp
cũng không dám "cương" với họ mà phải cho họ quyền tự trị và đặc
puyền buôn thuốc phiện nơi biên viễn. Việc những ông vua này quay sang ủng hộ
Việt Minh có thể xem như một kỳ công trong công tác dân vận như cách nói ngày
nay.
Tháng 8 năm 1947, Văn Cao hoàn thành
nhiệm vụ, Đội điều tra giải tán và bàn giao lại công việc cho ông Lê Giản. Lê
Giản muốn giữ Văn Cao ở lại công tác cho ngành Công an. Văn Cao từ chối và nói:
"Công việc này không thích hợp với
tôi". Lại là cái kiểu ... quân tử tàu, việc xong giũ áo ra đi/ rừng xanh nương náu xá gì công danh, Văn
Cao trở lại với cây bút, cây đàn.
3. NHÂN VĂN GIAI PHẨM
Sau hiệp định Genève 1954, Văn Cao
hồi cư về Hà Nội, làm việc cho Đài Phát thanh, nhưng rất ít sáng tác. Năm 1955,
ông cầm bút trở lại, viết bài cho đặc san Giai Phẩm. Tháng 2 năm 1956, bài thơ
"Anh có nghe không" - được đăng trên Giai phẩm mùa Xuân.
Bài thơ này bị Xuân Diệu đánh giá là "lập
lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì".
Tiên sư anh bóng già... nhận xét thế thì khác nào đưa dao sẵn cho người khác
chụp lấy chém? Đến tháng 12 năm 1956 thì cả hai tờ báo Nhân Văn - Giai Phẩm đều
bị đình bản, nhưng đấy mới chỉ là bước đầu.
Như những nghệ sĩ khác của nhóm Nhân
Văn-Giai Phẩm, tuy có muộn hơn, đến tháng 7 năm 1958, Văn Cao phải đi học tập
chính trị. Tên tuổi của Văn Cao hầu như không còn xuất hiện trên các tạp chí
văn nghệ ở Hà Nội. Những năm sau đó, Văn Cao tiếp tục bằng nhiều công việc, như
viết nhạc không lời cho các truyện phim và truyện kịch, trang trí sân khấu cho
các đoàn kịch, vẽ quảng cáo các báo, vẽ nhãn diêm... Các tác phẩm của ông, cũng
như các ca khúc lãng mạn tiền chiến khác, không được trình diễn ở miền Bắc, trừ
bài quốc ca, mà thậm chí người ta còn không thèm đề tên tác giả. Giai đoạn này,
Văn Cao hầu như không còn sáng tác, cuộc sống của ông cùng gia đình cũng cực kỳ
khó khăn. Cho đến năm 1975 thì miền nam giải phóng, không khí lúc ấy đã làm cho
Văn Cao có cảm hứng viết nên ca khúc Mùa xuân đầu tiên - ca khúc đầu tiên của
ông sau gần 20 năm im tiếng.
* Mùa xuân đầu tiên:
Cuối năm 1975, Văn Cao viết Mùa xuân đầu tiên, nhưng
ca khúc bị phê bình là không đi đúng đường lối của Đảng, không phục vụ cho Cách
mạng, vì thế bản nhạc mới phát hành đã bị tịch thu. Nhưng không biết bằng cách
nào bài hát này lại được "tuồn" sang Liên Xô và các chương trình Việt
Ngữ tại Moskva vẫn cho trình bày bài hát, và nhờ vậy Mùa xuân đầu tiên đã
không bị lãng quên. Văn Thao, người con trai của Văn Cao, tiết lộ tiếp rằng:
"Nhưng cũng thật bất ngờ (không
hiểu bằng con đường nào), trong cái năm
1976 ấy Mùa xuân đầu tiên được in ở nước Nga và được Liên Xô trả nhuận bút cho
tác giả 100 Rúp. Văn Cao phải viết giấy uỷ quyền qua sứ quán để con gái ông
đang học bên đó lĩnh hộ. Ông bảo con gái: "Con cứ lấy mà tiêu, ở nước mình bao lâu nay bố có được biết đến đồng
nhuận bút tác phẩm nào đâu." (Hehe).
4. CUỐI ĐỜI
Sau khi Việt Nam tiến hành đổi mới,
các tác phẩm của Văn Cao dần được gỡ bỏ cấm đoán. Sau gần 50 năm người miền bắc
mới được nghe lại những Buồn tàn thu, Suối mơ, Bến xuân... còn đối với người
miền nam thì không lâu như thế, chừng 15 năm thôi. Vì nhạc Văn Cao bị cấm ở
miền bắc từ sau 1958 nhưng trong nam vẫn ca hát vang trời, Thái Thanh, Khánh
Ly, Hà Thanh .... vẫn hát nhạc Văn Cao hàng đêm trong các phòng trà, thậm chí,
quân lực Việt Nam Cộng Hòa còn lấy luôn ca khúc Không Quân Việt Nam của ông làm
ca khúc "ngành". Năm 1994, Văn Cao có chuyến đi dài vào thành phố Hồ
Chí Minh, tại đây ông nức tiếng về tài ... uống rượu không địch thủ, từng hạ
nốc ao nhiều cao thủ lưu linh trong giới nghệ sĩ thành phố, ngay cả Trịnh Công
Sơn cũng phải ấn tượng. Cũng chuyến đi này, Văn Cao mang theo một loại rượu đặc
biệt của ông. Rượu này do một người hâm mộ tự nấu, mỗi năm chỉ nấu một ít đem
biếu riêng nhạc sĩ, tính Văn Cao rất thẳng thắn, ông ko bao giờ nhận không của
ai, nhưng rượu của người này thì ông nhận. Năm 1994, Văn Cao mang 20 lít rượu
đặc biệt này vào Sài Gòn, sau 1 tháng thì hết, phải điện cho con trai Văn Thao
mang thêm vào, đến nơi, ông con ngật ngưỡng bước xuống tàu, ông bố lắc đầu thở
dài khi nhìn can rượu ... chỉ còn 5 lít.
Cũng như phần lớn những tay sành
rượu trên đời, Văn Cao nấu ăn rất ngon, dường như khi đã đặt tay vào làm cái
gì, ông đều trổ hết tài hoa vào việc ấy. Con trai cả Văn Thao từng kể về
"khiếu ẩm thực" của Văn Cao: “Cha
tôi hay có khách nên thường chỉ bảo tôi nấu một số món ngon cho bạn của ông
uống rượu. Tôi cũng lấy làm lạ, vì không ngờ một người như ông lại có tài nấu
ăn như thế... Nhìn ông chế biến các món ăn một cách thành thục như một đầu bếp
thực thụ, tôi vô cùng ngạc nhiên và khâm phục. Những lúc như thế, hình bóng của
một người nhạc sĩ không còn hiện diện, tôi chỉ còn thấy hình ảnh của một người
cha thân yêu đang hết lòng chăm chút nấu những món ăn ngon cho một đàn con đang
tuổi ăn tuổi lớn, trong hoàn cảnh bao cấp thiếu thốn "ăn còn chưa đủ no,
lấy đâu ra mà dám đòi ăn ngon". Có lần tôi hỏi ông: "Làm thế nào mà bố lại biết nấu nhiều món ăn
ngon thế?". Trầm ngâm một lát, ông mới thủng thẳng nói: "Ai chẳng thích ăn ngon! Nhưng để nấu cho
ngon thì không phải ai cũng nấu được. Một miếng thịt cho vào chảo rán lên rồi
thái ra chấm nước mắm ăn sẽ không thể bằng miếng thịt được tẩm ướp với một chút
muối, mì chính, tỏi và húng lìu rồi mới đem rán. Khi ăn ta chấm với nước mắm
chanh ớt, tỏi và một chút hạt tiêu kèm theo vài cọng rau mùi mới thấy hết được
giá trị của gia vị đã làm cho miếng thịt rán thơm ngon lên gấp bội. Vì thích ăn
ngon nên những khi có điều kiện để mời bạn đến uống rượu là bố phải "lăn
vào bếp". Nhìn mọi người ăn ngon miệng là bố thấy vui... Nấu ăn cũng là
một nghề đầy tính nghệ thuật".
Sức khỏe của Văn Cao suy yếu nhanh
trong những năm cuối đời. Ông không còn ăn được cơm mà chuyển sang ăn loại bột
ngũ cốc thường dành cho trẻ em do các cơ quan nội tạng bị hư hỏng nặng. Tuy
nhiên, ông chưa bao giờ bỏ được thú vui uống rượu có từ thời trẻ. Thật giống Cổ
Long và Lý Tầm Hoan, hehe...
Ngày 10 tháng 7 năm 1995, sau một thời gian mắc bệnh ung
thư phổi, Văn Cao mất tại bệnh viện Hữu Nghị, Hà Nội.
--------------------
Nguồn: Chuyện Đông -
Chuyện Tây
*
TÁC GIẢ (đang cập nhật)
Địa chỉ: (đang cập nhật)
Email: (đang cập nhật)
Điện thoại: (đang cập nhật)
.
- ĐẶNG XUÂN XUYẾN
giới thiệu -
(Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến)
.
0 comments:
Đăng nhận xét