HẬU BÁO ‘VĂN NGHỆ’
VÀ ‘NỖI BUỒN CHIẾN
TRANH’ (kỳ 4)
Khi tôi về làm Đảng đoàn ở Hội Nhà văn, anh Trần Độ có gọi tôi đến hỏi
tôi định làm những gì ở đấy. Tôi đã nói đủ thứ kế hoạch, nhưng cuối cùng chốt
lại hai việc cụ thể quyết sẽ tập trung chủ yếu: khôi phục lại thật đàng hoàng
tạp chí Văn học nước ngoài để chấm dứt sự đứt đoạn gần thế kỷ của ta với văn
học thế giới, và làm Trường Viết văn Nguyễn Du. Trước đây, Hội Nhà văn đã
thường có những lớp viết văn ngắn hạn ba tháng hoặc có khi sáu tháng cho nhà
văn trẻ. Tôi không quan niệm đào tạo nhà văn theo kiểu đó, đấy là những lớp
“truyền nghề”. Theo tôi văn chương là một thứ không thể truyền nghề, người đi
trước có thể nói một số kinh nghiệm gì đó cho người đi sau, song cũng chẳng ích
lợi bao nhiêu. Người viết văn trước hết phải là người có tài “do trời cho”, và mỗi
người có tài sẽ “biết” viết theo kiểu của mình, “tạng” của mình, không ai giống
ai, có lẽ cũng gần như vân tay của mỗi người, tuyệt đối khác biệt. Vả chăng có
hai nhà văn giống hệt nhau, thậm chí chỉ mại mại giống nhau, thì vô ích. Có một
ông Nguyễn Du là rất tuyệt, nhưng có hai ông Nguyễn Du thì thừa một ông… Song
tôi lại có một nhận xét, dường như ở ta tài năng văn học đặc sắc thường bộc lộ
rất sớm, Nguyên Hồng viết Bỉ vỏ năm 16 tuổi, Chế Lan Viên in Điêu tàn năm 17,
nhưng rồi không ai đi được thật xa, thường tự lặp lại mình, hay tàn lụi dần…
Vì sao? Có
thể chăng ở mặt bằng văn hóa chung của xã hội không cao, và đặc biệt một nền
giáo dục nói chung, đặc biệt giáo dục đại học còn quá lạc hậu, hoàn toàn không
đủ sức tạo nền tảng cơ bản cho người cầm bút có thể đi thật xa, sau khi đã tiêu
tốn hết vốn tài năng bẩm sinh.
Chúng tôi
nuôi tham vọng thay thế một trường đại học như cần phải có, bằng cách làm
Trường Viết văn Nguyễn Du.
Ngay từ đầu
trường Đại học Viết văn Nguyễn Du đã không chủ trương mời các nhà văn đến dạy
nghề. Thỉnh thoảng các anh chị chỉ đến chơi với người học, tâm sự đôi chút
chuyện đời và công việc viết của mình. Cũng là để người học làm quen dần với
đời sống văn học…
Trường Viết
văn Nguyễn Du có cái may lớn, nó được giao từ đầu cho hai người chủ trì rất đặc
sắc, thậm chí nghĩ lại không còn chọn lựa nào hơn: Hoàng Ngọc Hiến và Phạm Vĩnh
Cư.
Hoàng Ngọc
Hiến từ Đại học Vinh đã quyết tìm mọi cách ra Hà Nội để thoát khỏi tình trạng
tỉnh lẻ. Anh có nền tảng tri thức toàn diện rất vững chắc. Và lại rất độc đáo,
thường đột ngột sáng chói bất ngờ, có phần gì đó hơi giống Trần Quốc Vượng,
người có “thính giác” đặc biệt về khảo cổ. Tôi có mấy lần đi với anh Vượng, hai
anh em cứ như lững thững dạo chơi. Đột ngột anh dừng lại, đứng im một lúc, rồi
bảo: Đào xuống đi, ngay dưới chân tớ đây… Và khám phá ra cả một kho di vật
thượng cổ cực kỳ quý hiếm. Hẳn nhiều người còn nhớ Hoàng Ngọc Hiến là tác giả
bài báo chấn động về “Văn học phải đạo”, xuất hiện rất sớm, lúc anh Giang Nam
còn phụ trách tờ Văn nghệ. Một tiếng sấm giữa trời còn trong – hay đúng hơn
trời còn đục ngầu. Anh vừa tài tử, thường phá cách, lại vừa là một nhà sư phạm
nghiêm cẩn và tinh anh…
Phạm Vĩnh Cư
được đào tạo ở Nga từ mẫu giáo cho đến trên đại học, và ở Đại học Lomonossov,
một kiểu Harvard của Moskva. Những nhà văn Nga tôi từng quen thân đều bảo Cư
còn am hiểu văn hóa và văn học Nga giỏi và sâu hơn cả họ. Thấu hiểu tường tận
và say mê. Tôi biết có những hôm Cư ra ngồi suốt ngày cạnh mộ Gogol, nhà văn
kinh điển đậm đặc tâm hồn Nga. Phạm Vĩnh Cư uyên bác, và theo tôi so với Hoàng
Ngọc Hiến, anh có phần ít nhiều bài bản, chỉn chu hơn bên cạnh một anh Hiến hơi
nghệ sĩ hơn. Bây giờ nhìn lại, hóa ra ở Nguyễn Du các anh đã thực sự thực hiện
cái mà mấy chục năm sau ta sẽ gọi là giáo dục khai phóng, sớm và sâu sắc một
cách khác thường. Đến với sinh viên ở đây hằng ngày suốt ba năm không phải là
các nhà văn đi trước hay giảng viên ở các trường đại học khác, mà là các chuyên
gia hàng đầu ở hầu hết các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, đôi khi cả
khoa học tự nhiên. Và họ nói về những nghiên cứu, tìm tòi, trải nghiệm, suy
nghĩ tâm huyết nhất của họ ở lĩnh vực mà họ cống hiến cả cuộc đời. Đặc biệt
những điều chính họ bằng trực cảm nhận ra còn mơ hồ. Họ tâm sự và mong muốn
người học thử cùng nghĩ, cùng họ đi tìm. Có người trình bày cả một công trình
cứu công phu lớp lang hoàn chỉnh, có người ngược lại hầu như chỉ kể chuyện lang
bang rất tài tử, thỉnh thoảng đột ngột lóe sáng một ánh chớp… Cũng có khi hai
chuyên gia cùng một lĩnh vực, nói cùng một chủ đề, mà ý kiến, thậm chí cả quan
điểm hoàn toàn ngược nhau. Và ở đây, các thầy tâm sự với người học những điều
họ không nói ở bất cứ nơi nào khác.
Tôi còn nhớ
một “sự cố”: không hiểu vì sao mà người đầu tiên đến nói ngay đầu khóa một
(1979) là anh Hồ Ngọc Đại. Anh Đại thì ta biết rồi, anh ăn nói sắc sảo mà ngang
tàng, chẳng nể ai, chẳng kiêng bất cứ điều gì. Đang giữa câu chuyện thao thao,
anh đột nhiên dừng lại và hỏi: Các bạn có biết vì sao mà Cách mạng tháng 8 năm
45 thành công không? Ấy là vì dân ta bấy giờ còn ngu quá! Chứ như hôm nay ấy à,
còn lâu!... Tôi gọi cậu bảo vệ: Ra đóng ngay cổng trường ngoài kia lại, kẻo
công an vào tóm đầu tất cả thầy trò chúng ta bây giờ. Nghĩ lại cho kỹ, cho
thật, Hồ Ngọc Đại đã không nói sai. Hai triệu người đang chết đói, Việt Minh đã
khôn khéo phá kho thóc, cả nước bỗng rùng rùng đứng dậy như thác lũ, không gì
ngăn nổi. Tất nhiên Cách mạng tháng 8 không chỉ có thế, nhân dân tích tụ uất ức
vì nô lệ cả trăm năm, chỉ cần một ngọn lửa nhỏ để bùng cháy, nhưng kỳ thực lúc
ấy đã có mấy ai gọi là giác ngộ cách mạng gì đâu. Hiện tượng đám đông mà
Gustave Le Bon từng nói là có thật. Hồ Ngọc Đại vốn có tiếng nói bạo, nói
ngược, cũng có phần ỷ thế con rể Tổng bí thư Lê Duẩn. Tuy nhiên việc một “sự
cố” như vậy diễn ra đúng từ ngày đầu tiên của khóa một, nói theo cách nào đó,
không hoàn toàn là ngẫu nhiên. Chúng tôi thật sự muốn gây hoang mang cho người
học vừa bước chân vào trường, khiến họ mất hết lòng tin vào tất cả những gì vẫn
đinh ninh trước khi đến đây. Họ nghi ngờ tất cả, và thậm chí nghi ngờ cả những
điều các thầy, các chuyên gia đầu ngành nổi tiếng sẽ được mời đến nói với họ
trong suốt ba năm sắp tới ở trường. Và tự làm lại chính mình, độc lập và thật
sự tự do.
Là một trường
đại học dẫu sao cũng là của nhà nước nên tất phải có phần gọi là chương trình
“cứng” bắt buộc, bộ phận giáo vụ do anh Trần Niêm phụ trách đã ghi rõ môn
“Triết học Marx-Engels” (chứ không Marx-Lenin). Phần này do các anh Nguyễn Khắc
Viện, Nguyễn Trọng Chuẩn, Việt Phương, Tạ Văn Thành trình bày, anh Lê Hữu Tầng
mở đầu, và anh Dương Phú Hiệp tổng kết. Tôi gọi là trình bày bởi có người giảng
rất bài bản, có người chỉ trò chuyện nhẹ nhàng cởi mở, người học nghe, hiểu và
chấp nhận đến đâu là do tự chính mình.
Các anh Việt
Phương, Ngô Thế Phúc, Nguyễn Khắc Dương nói về triết học phương Tây. Triết học
phương Đông, Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo là phần của các anh Minh Chi, Quang
Đạm, Trần Đình Hượu, Phan Ngọc…
Xã hội học có
các anh Phạm Bích San, Tô Duy Hợp, Nguyễn Hồng Phong. Mỹ học có anh Như Thiết.
Anh Trần Niêm ở giáo vụ giới thiệu “Ghi chú về nghệ thuật” của Nguyễn Quân và
về Kagan.
Tâm lý học
được coi là phần rất quan trọng. Trường mời được chuyên gia hàng đầu Phạm Hoàng
Gia. Phạm Minh Hạc nói về tâm lý học xô-viết, Hồ Ngọc Đại về tâm lý học hành
vi, Phạm Vĩnh Cư về tâm lý học nghệ thuật và Hoàng Ngọc Hiến về phân tâm học.
Về ngôn ngữ
học có các chuyên gia Nguyễn Tài Cẩn, Cao Xuân Hạo, Hoàng Tuệ.
Các anh Trần
Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Phan Huy Lê, Trần Đình Hượu, Phan Ngọc nói về lịch sử
Việt Nam, lịch sử văn hóa và tư tưởng Việt. Về lịch sử thế giới thì có các
chuyên gia Lương Ninh, Nguyễn Quốc Hùng… Có cả một lực lượng đông đảo, đa dạng
và phong phú các anh chị cho phần văn học nghệ thuật Việt Nam và thế giới,
những Nguyễn Đăng Mạnh, Phong Lê, Phùng Văn Tửu, Đặng Anh Đào, Đặng Thị Hạnh,
Trần Ngọc Vương, Trần Nho Thìn, Huệ Chi, Đình Quang, Nguyễn Thụ, Hoàng Ngọc
Hiến, Phạm Vĩnh Cư…
Cũng có
trường hợp thú vị hai nhà dân tộc học danh tiếng Đặng Nghiêm Vạn và Nguyễn Từ
Chi, đều là chuyên gia sâu về Mường, anh Vạn thuộc trường phái Liên Xô, chỉn
chu, bài bản, thông thạo cả Tây Nguyên, anh Từ Chi gần phương Tây, đúng hơn là
độc đáo gần như một mình, với Tây Nguyên, anh chỉ “đá” qua một thoáng, chỉ viết
một bài, nhưng là bài cực kỳ đặc sắc, nhiều phát hiện mới mẻ, những dự báo, cả
cảnh báo của anh về sau đều được chứng minh chính xác hoàn toàn. Tôi thân anh
Vạn hơn, nhưng lại “sợ”, phục Từ Chi hơn. Khi anh Từ Chi mất năm 1995, nhà dân
tộc học bậc thầy thế giới Georges Condominas viết: “Việt Nam vừa mất một nhà
bác học”…
Trong ba năm
ở Nguyễn Du, các nhà văn trẻ được gần gũi hằng ngày với những chuyên gia hàng
đầu của rất nhiều lĩnh vực như thế, và tôi có cảm giác các thầy đến đây cũng
rất khác với khi đến với các đại học thông thường. Họ biết trước mặt họ là
những tài năng đang chớm nở, được chọn lọc hiếm hoi, rất nhạy cảm, rất khao
khát cái mới, cái lạ, cái thật, họ có thể nói hết, cả nhưng điều chính họ còn
tìm tòi, trăn trở, thậm chí bế tắc chưa tìm được lời giải. Họ đến không phải để
truyền đạt những chân lý, cũng không phải chỉ để truyền dạy kiến thức, mà còn
tâm sự những nghi ngờ của chính họ… Điều thú vị là chính cách dạy và học này
mang lại thành quả giải phóng tư duy cho người học, đánh thức tiềm năng vốn có
sẵn trong họ, đặc biệt ở những người… học rồi quên hết, như ở Bảo Ninh hay
Trung Trung Đỉnh, để chỉ thử kể hai trường hợp nổi bật. Và đương nhiên nó không
đồng đều ở mọi người. Cũng có người học thế mà chẳng “vào” được bao nhiêu. Bấy
giờ có anh Đệ ở Thanh Hóa, rất nghèo, vợ chồng bán cả nhà để Đệ ra học Nguyễn
Du, nhưng rồi cũng chẳng đến đâu, tôi rất thương, thường hỏi thăm, bây giờ Đệ
làm biên tập ở một cơ quan truyền thông nào đó. Chuyện văn chương là thế, trông
vậy mà rất khắc nghiệt…
Chắc người
đọc có chú ý, tôi vẫn nhắc đi nhắc lại “trường Nguyễn Du từ khóa 1 đến khóa 5”,
bởi vì đến đây, năm 1996, bỗng đột ngột có thay đổi. Và lạ thay sự đời, chính
Nguyễn Khoa Điềm vừa lên Bộ trưởng Bộ Văn hóa đưa một người tên là Đặng Việt
Bích, còn có biệt danh là Bích Bột, con trai ông Trường Chinh, về làm hiệu
trưởng, thay hẳn Hoàng Ngọc Hiến và Phạm Vĩnh Cư. Ông Trường Chinh có con trai
là anh Đặng Xuân Kỳ rất sắc sảo, và chị Đặng Việt Nga ở Đà Lạt, một kiến trúc
sư tài năng và nổi tiếng độc đáo. Nhưng đến Bích Bột thì, ngoài bao nhiêu tai
tiếng khác, theo tôi không biết một chữ nào về văn chương, cũng mù tịt về giáo
dục.
Trường Nguyễn
Du từ đó không chỉ xuống cấp, nó thật sự bị phá tan tành. Để rồi dần dần trở
thành một khoa của trường Đại học Văn hóa, rồi lại thành khoa có cái tên kỳ
cục, gọi là Khoa Viết văn, Báo chí của trường này.
Anh Ngô Văn
Giá được giao phụ trách. Tôi biết và quý anh Giá cùng một số anh làm việc ở
khoa hiện nay, các anh hiểu cả và rất cố gắng, học viên tất nhiên vẫn còn người
tài. Nhưng cần nói rõ một trường Nguyễn Du thật sự đã tuyệt đối không còn và đó
là một tổn nhất không nhỏ. Không chỉ cho văn chương. Nó cũng có thể gợi ý khá
nhiều cho cả giáo dục nói chung nữa.
Tôi đã nói
quá dài về trường Nguyễn Du. Là vì quả thật nó có vai trò quan trọng cho gần
như cả một thế hệ cầm bút sau chiến tranh. Cũng còn vì, như chính Bảo Ninh nói,
không có nó thì cũng không có Nỗi buồn chiến tranh.
Trong chiến
tranh vệ quốc của Liên Xô 1939-45, đã có hàng trăm nhà văn nổi tiếng ra trận,
nhưng bên ấy người ta vẫn nói họ chờ sự xuất hiện của “nhà văn trung úy” tức
người trực tiếp cầm súng chứ không chỉ cầm bút. Ở ta cũng vậy, ngay cả tôi cũng
vậy, dù có vào cuộc xông xáo đến mấy, tôi vẫn là anh phóng viên hay anh nhà văn
tự do, được phép lùi ra lúc không thật cần hay không dám. Sau 1975, chúng ta
chờ sự xuất hiện và lên tiếng của “nhà văn binh nhì”. Bảo Ninh nhập ngũ năm
1969, sau Mậu Thân. Ấy là lúc miền Bắc vét những thanh niên cuối cùng của mình
ra trận, cả học sinh và sinh viên, cho những trận đánh sinh tử cuối cùng. Bảo
Ninh lại vào ngay Bắc Tây Nguyên, cửa ngõ của toàn chiến trường miền Nam, những
Đaktô, Tân Cảnh, Ngọc Hồi, Bờ Y…, nổi tiếng với “những đồi thịt băm”, tên do
chính lính Mỹ đặt…
Ở trường
Nguyễn Du có lệ sinh viên ra trường, thay vì nộp một luận văn, phải trình một
tác phẩm tốt nghiệp và bảo vệ trước một hội đồng gồm các thầy và một số nhà
văn. Lại có lệ trường mời một số nhà văn, mỗi người gọi là theo dõi, “hướng
dẫn” hai hay ba học viên. Bảo Ninh thuộc nhóm của tôi, nên tôi có tham gia
“chấm” tác phẩm tốt nghiệp của anh, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Đấy là
một buổi bảo vệ thật hay và cảm động. Bảo Ninh nói vì sao anh viết quyển sách
này. Anh kể cùng ra trận với anh ngày ấy là hàng ngàn trai trẻ bạn bè, trong đó
có bao nhiêu người sáng sủa, tài năng, đặc sắc, đẹp trai, đầy tương lai tốt đẹp
hơn anh. Vậy mà họ đã chết hết, chỉ anh là cái thằng xoàng xĩnh nhất còn sống
sót và trở về. Sự sống sót của anh, sự còn lại trên đời của anh, mỗi ngày còn
sống của anh hôm nay là cực kỳ phi lý. Anh biết suy nghĩ ấy của anh là vô lý,
chiến tranh vốn cực kỳ tùy tiện, nó không chọn người kém chết trước người giỏi
chết sau. Nhưng sự sống sót của anh cứ như là một sự phản bội.
Bảo Ninh ra
trận và đánh nhau ở Tây Nguyên đúng lúc Tây Nguyên – mật danh là B3 – tạm tách
khỏi B1 tức Quân khu 5. Tướng Chu Huy Mân được điều lên B3 với ý định thành lập
một Quân đoàn mới trên ấy. Anh Đặng Vũ Hiệp cũng được điều lên làm Chính ủy Tây
Nguyên.
Sau chiến
tranh, có lần anh Hiệp đến chơi ở Hội Nhà văn và tình cờ gặp Bảo Ninh. Anh bảo
tớ đọc sách của cậu rồi, tớ biết tỏng cậu ở sư 10, trung đoàn 24, tiểu đoàn 5,
đúng không? Tớ là Chính ủy Tây Nguyên, việc gì tớ không biết. Cậu không viết
đúng sự thật. Bảo Ninh trả lời: Vâng, em viết không đúng sự thật của anh, sự
thật của người chỉ huy bao quát cả chiến trường Tây Nguyên. Em viết sự thật của
em, thằng binh nhì ở đáy tận cùng của chiến trận, một sự thật khác ạ.
Cuộc đối
thoại tuyệt hay. Còn Simonov thì nói: Không ai biết hết về chiến tranh. Chỉ có
nhân dân mới biết hết. Mà nhân dân là một khái niệm trừu tượng. Không ai có thể
tự xưng mình là nhân dân, không có nhân dân nói chung. Nhân dân kỳ thực gồm
từng người, và đặc biệt trong chiến tranh, mỗi người có sự thật riêng của mình,
số phận vô cùng riêng của mình. Tất nhiên là trong cuộc chiến chung mà ta khẳng
định vì chính nghĩa dân tộc, nhưng làm cuộc chính nghĩa là từng người lính với
sự thật và số phận rất riêng của họ.
Ở buổi bảo vệ
tốt nghiệp, Bảo Ninh còn nói: Trong chiến tranh, người cuối cùng không được lựa
chọn gì hết là người lính trần, người chỉ có độc một ngôi sao trơ trụi trên
khuôn vải đỏ hình chữ nhật của cấp hiệu. Quyền lựa chọn là của các cấp chỉ đạo,
chỉ huy: hôm nay, trong trận huyết chiến này, sử dụng đại đội A hay đại đội B?
Trung đội 1 hay trung đội 2 sẽ là lực lượng xung kích? Tiểu đội nào lên trước
tiểu đội nào lên sau? Tổ nào là tổ 1, tiếp sau mới đến tổ 2… Quyền lựa chọn đó
của người chỉ huy là số phận của người lính. Nó rơi xuống trên đầu người lính
trần, anh vào trận, hoặc anh nhanh tay hơn kịp chọc lưỡi lê sắc lạnh vào đúng
tim con người cũng trần trụi như anh ở bên đối diện. Hoặc con người cũng vô
danh và cũng hoàn toàn không có quyền lựa chọn đó nhanh tay hơn anh một phần
nửa của giây và kẻ bị chọc đúng tim là anh. Lạnh lùng đơn giản là vậy…
Tôi đọc tác
phẩm nổi tiếng Thân phận con người (La condition humaine) của André Malraux
viết về cuộc khởi nghĩa năm 1927 ở Thượng Hải của những người cộng sản phối hợp
Quốc dân đảng Trung Quốc, rồi lại phản bội nhau, có cả nhân vật Tưởng Giới
Thạch và Chu Ân Lai. Đọc đã lâu lắm, hầu như đã quên sạch, nhưng lại vẫn nhớ
một nhân vật phụ tên là Tchen. Để có vũ khí cho khởi nghĩa, anh được phân công
ám sát viên gác cổng của đối phương, cướp lấy giấy tờ để tìm ra kho súng. Anh
đã bí mật đâm chết nó bằng một nhát dao găm. Malraux kể, điều khiến Tchen kinh
hoàng đến lạnh toát suốt xương sống là anh không ngờ thịt người lại mềm thế,
trong khi anh chờ đợi một kháng cự cứng rắn dữ tợn hơn nhiều của sự sống. Chính
việc giết một mạng người lại dễ dàng đến vậy khiến anh hoảng sợ, sẽ ám ảnh cho
đến chết. Mà chiến tranh, nói gì thì nói, bất cứ chiến tranh nào, thì cụ thể
cũng là người giết người. Tôi ở Tây Nguyên nhiều, tôi biết dã thú như con hổ
chỉ giết khi nó cần ăn để tồn tại, hoặc lúc phải tự vệ. Người là con vật duy
nhất giết vì những “lý tưởng” với lại những “chủ nghĩa”…
Nhiều người
hẳn còn nhớ sau kháng chiến chống Pháp, có lúc ở miền Bắc, ta đã giảm gần tám
vạn quân, chuyển một số đơn vị tạm sang làm công nhân ở các nông trường, công
trường. Tôi đã có thời gian gọi là đi thực tế ở công trường xây dựng Khu Gang
thép Thái Nguyên, cùng anh Xuân Cang vốn ở Tổng công đoàn, và chị Lê Minh, con
gái cụ Nguyễn Công Hoan cũng lên đây vì có chồng là anh Diệp làm Phó Giám đốc
công trường. Khu Gang thép Thái Nguyên do Trung Quốc viện trợ, cực kỳ lạc hậu
về công nghệ, máy móc toàn là thứ thừa thãi vứt đi. Xây dựng một khu công
nghiệp sắt thép hiện đại mà hầu hết làm theo lối thủ công, công nhân đông lúc
nhúc đến hai vạn người, tuyệt đại đa số là lính chuyển ngành, cộng cả vợ con
đến bốn vạn người. Quản lý cả cái xã hội hết sức ô tạp vừa lính vừa nông dân,
lổn nhổn đàn ông, đàn bà, cả trẻ con đủ loại ấy là Tổng giám đốc Đinh Đức
Thiện. Ông Thiện là em ruột ông Lê Đức Thọ, nhưng khác hẳn ông anh. Một vị
tướng phóng khoáng, thẳng thắn, giản dị và chân thật, quyết đoán mà rộng rãi,
dễ gần. Ông rủ ba nhà văn đi thực tế chúng tôi cùng ở chung, hằng ngày cùng ăn
cơm, và ông đặt ra một quy định nghiêm nhặt: suốt ngày lăn lóc bao nhiêu công
việc căng thẳng rồi, đến bữa cơm tuyệt đối cấm nói chuyện công tác nữa. Và đấy
là cơ hội để ông kể vô khối chuyện tiếu lâm và nói tục ghê gớm, bất chấp có chị
Lê Minh ngồi ở đấy.
Cái công
trường kỳ lạ ấy đông và phức tạp đến nỗi nó có cả một tòa án, và cái tòa án ấy
đã mấy lần tuyên tử hình những công nhân nguyên là lính nay phạm tội giết
người. Hôm ấy lần đầu tiên tôi thấy ông Thiện vi phạm chính quy định của ông
trong bữa ăn. Mọi người bỗng im lặng khác thường. Ông Thiện vốn quen có thói nói
to, hôm nay ông nói chậm và nhỏ, gần như thầm thì. Ông bảo: Ở đây có cậu Ngọc
là lính, không biết đã lần nào trực tiếp ra trận và tự tay giết người chưa. Cái
cảm giác lần đầu tiên tự tay giết người, nhất là đâm lê hay đâm dao, chứ không
phải bắn súng từ xa, là ghê gớm lắm, dù là giết kẻ thù vì chính nghĩa gì gì đi
nữa. Nhìn thằng lính mới giết người lần đầu, biết ngay, mất ăn mất ngủ, bơ thờ,
thất thần. Nhưng lạ thế, lại không gì dễ quen, dễ say bằng giết người. Còn ham
nữa là khác. Hóa ra con người là loài vốn nuôi sẵn thú tính hoang dã… Cậu công
nhân bị tử hình hôm nay là lính đã từng quen giết người, đã coi giết người cũng
thường thôi, gây sự với nhau một chút đã có thể rút dao và ra tay… Nên nhớ từ
nay ta sẽ phải sống trong một xã hội như thế. Người thật sự từ chiến tranh trở
về dẫu muốn đến đâu cũng không thể còn là con người bình thường như trước nữa.
Tớ cho ở đời khó nhất là giữ được nguyên vẹn tính người tinh khôi, khôi phục
tính người sau khi đã thật sự đi qua chiến tranh…
Mà hồi đó mới
là năm 1959, mới kết thúc chiến tranh chống Pháp được mấy năm, còn chưa bùng nổ
chiến tranh miền Nam khốc liệt gấp mấy.
Trong văn học
Việt Nam theo tôi có hai cuốn sách đặc sắc về cuộc đấu tranh cực kỳ khó khăn để
giữ lấy tính người, Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn là một, Nỗi buồn chiến
tranh của Bảo Ninh là hai. Sách của Bùi Ngọc Tấn là chuyện ở tù, nhưng không hề
nhắc gì đến tra tấn. Chỉ có một chế độ kiên trì từ ngày này qua ngày khác quyết
hạ nhục con người cho đến cùng, quyết tiêu diệt cho kỳ sạch nhân cách người của
họ, biến con người cho kỳ thành con vật. Suốt mấy năm ròng, bằng mọi cách, họ
cố trát bùn đen lên tâm hồn anh. Nhưng Bùi Ngọc Tấn là một hiện tượng kỳ lạ của
loài người. Không một chút bùn nhơ nào thấm được vào anh. Thậm chí một chút căm
thù đối với kẻ quyết hại mình anh cũng không có được. Vẫn mãi mãi trong veo,
nhân hậu, mãi mãi thanh sạch như một sinh linh vừa ra đời. Bùi Ngọc Tấn là
chiến thắng tuyệt đối của cái Thiện, cái Đẹp, chống lại cái Ác, cái Xấu.
Trường hợp
Bảo Ninh khác và có thể còn khó hơn. Bởi chiến tranh là lấy cái Ác để diệt cái
Ác.
Cho tôi kể
một trận đánh chưa từng được biết đến trong một cuộc chiến tranh nào khác. Bấy
giờ, Mỹ dùng quân Nam Hàn làm lính đánh thuê, tập trung chủ yếu ở Khu 5, từ
Quảng Nam đến Khánh Hòa. Họ được giao một nhiệm vụ duy nhất: tàn sát dân ở bất
cứ nơi nào họ đến, để gây khiếp đảm. Họ tràn vào các làng, và không vì lý do
nào hết, giết sạch không tha một ai, đàn ông, đàn bà, người già, trẻ con. Hồi
bấy giờ ta xác định đối tượng tác chiến trên chiến trường, thứ nhất là quân Mỹ,
thứ hai là quân Sài Gòn, không có tên quân Nam Hàn trong thứ tự đó. Nhưng sau
khi nhận ra ý đồ của đối phương, ta quyết định tập trung đánh một số trận có
tính chất cảnh cáo với quân Nam Hàn. Dữ dội nhất là trận diệt sạch một tiểu đoàn
Nam Hàn ở Đồi Tranh Quang Thạnh, Quảng Ngãi. Tư lệnh Chu Huy Mân trực tiếp ra
lệnh nghiêm khắc: Trận này tuyệt đối không được bắt tù binh! Và lính ta đã chấp
hành triệt để. Tên địch nào còn ngắc ngoải đều bị đâm cho kỳ chết hẳn bằng dao
găm, bỏ xác phơi lại trên trận địa. Còn hai trận đánh quân Nam Hàn khác ở Quảng
Đà, diệt sạch hai đại đội, cũng đúng cùng một cách. Từ đó quân Nam Hàn thay đổi
hẳn thái độ, chấm dứt hẳn tàn sát bừa bãi, và thành trung lập. Quân ta hành
quân sát đồn, chúng đều để yên, chỉ phản ứng khi ta chủ động nổ súng trước.
Vâng, đấy là
chiến tranh thật, cuộc chiến tranh đã bắt đầu vì chính nghĩa dân tộc. Dù càng
về sau nó đã lâm ngày càng sâu vào chiến tranh ý thức hệ, biến thành một cuộc
nội chiến, huynh đệ tương tàn…
Chiến tranh
dù thường ồ ạt vậy, kỳ thực con người trong cuộc lại có lúc rất cô độc, bơ vơ.
Trong Nỗi buồn chiến tranh có một cảnh thật lạ lùng. Trận đánh đã tàn, bóng đêm
đã xuống. Trận địa chỉ còn những xác chết ngổn ngang. Và chỉ còn sót lại hai
người lính sống sót, một ở bên này một ở bên kia. Hai con người bị cái chết của
cuộc tàn sát điên cuồng bỏ quên trên một thế giới không còn người. Họ bỗng muốn
đi tìm nhau. Nhưng họ nào đâu có biết tên nhau để gọi. Anh lính miền Bắc loạng
choạng lội qua những xác chết còn đẫm màu, thống thiết gọi: Ngụy ơi, Ngụy ơi,
mày đang ở đâu? Mày đang ở đâu, Ngụy ơi!… Cứ như tiếng gọi thảm thương và tuyệt
vọng song vẫn còn cố không để mất: Còn có con người không, hỡi cái vẫn muốn
được gọi là nhân loại?
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Khề Khà
Truyện đọc truyện ngắn
"CÔ" SƯỚNG CƯỚI VỢ của Đặng Xuân Xuyến:
*
NGUYÊN NGỌC
Địa chỉ: Phố Cổ Hội An, tỉnh Quảng Nam.
........................................................................................
- Cập nhật
từ email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn ngày 17.02.2021.
- Ảnh dùng
minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết
không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét