VÀI SUY NGHĨ VỀ HẬU BÁO VĂN NGHỆ
VÀ NỖI BUỒN CHIẾN TRANH CỦA NGUYÊN NGỌC
Đọc “Hậu Báo Văn Nghệ Và Nỗi Buồn Chiến Tranh”
của nhà văn Nguyên Ngọc, tuy rất khoái, nhưng tôi cảm thấy còn chút lăn tăn.
Bởi, không chỉ Nguyên Ngọc, mà một số nhà văn trong nước vẫn còn luyến tiếc cái
Trường viết văn Nguyễn Du. Một cái trường, dường như có tác dụng hợp thức hóa
bằng cấp cho các bác vừa từ chiến trường trở về thì đúng hơn. Chứ các bác đã
thừa biết, có cái trường quái nào đào tạo được nhà văn, nhà thơ đâu. Do vậy,
không những giải tán cái trường này, mà các bác nên giải tán luôn cái Hội nhà
văn, cái Văn Nghệ Quân Đội, cũng như các trường báo chí tuyên truyền, trường
luật pháp cùng các đoàn, trường nghệ thuật quân đội đỡ gánh nặng thuế má của
người dân. Biết là vô tác dụng như vậy, chẳng hiểu thế chó nào các bác còn cố
vớt vát, để lại một cái khoa đầu thừa đuôi thẹo cho ông Văn Giá. Tôi chưa đọc
Văn Giá, nhưng nghe nói, ông hay ai đó mời Nguyễn Văn Thọ về giảng dạy, hay
chuyện trò gì đó cho các nhà văn tương lai. Gớm! Ở đâu không biết, chứ ở Đức
này, mấy bà sồn sồn cùng cảnh cày thuế cuốc mướn với Thọ Muối cười tươi, vén
quần lên tới bẹn vỗ cứ bèn bẹt, khi nghe gã về nước dạy viết văn. Tôi không
quen biết gì Thọ Muối, nhưng trước đây thấy bác và đám đàn em ở Berlin,
Chemnitz đánh trống, khua chiêng về Phim Quyên, nên tìm đọc cuốn sách này. Đọc
xong, một kẻ đã trải qua khá nhiều trại tị nạn hơi tiếc thời gian, nên tôi lẩm
bẩm: Thọ Muối chẳng hiểu đếch gì về tị nạn, và tâm lý người vượt biên trốn
chạy. Do vậy, tôi có viết vài suy nghĩ về cuốn sách này, dường như làm bác Thọ
Muối hơi buồn.
Tôi đồng ý với Nguyên Ngọc về sự đánh giá cao Nỗi
Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh. Tuy nhiên, cuốn sách này còn không ít
những đoạn Bảo Ninh lên gân, và bốc phét hơi bị nghĩa lộ, chứ không toàn bích
như Nguyên Ngọc đã viết. Tôi chỉ làm nghề úp mặt vào chảo. Một công việc chẳng
liên quan quái gì đến thơ văn nhạc họa cả. Song cái tính táy máy, nên đôi khi
cũng viết cho vui. BẢO NINH- NGƯỜI LÀM LỄ BỎ MẢ CHO GIAI ĐOẠN VĂN THƠ MINH HỌA,
tôi viết trong lúc táy máy như vậy, và đã khá lâu rồi. Tiện tôi treo lại lên
đây, bài viết có thể không đúng, các bác đọc cho vui thôi nhé:
BẢO NINH, NGƯỜI LÀM LỄ BỎ MẢ
CHO GIAI ĐOẠN THƠ VĂN MINH HỌA
Cuộc sống này, quả thật còn có nhiều điều không thể hiểu. Tôi
chỉ là người viết văn tép riu, vui là chính, như lời nhà thơ Trần Nhương. Ấy
thế mà, tôi cảm giác, văn thơ như có một sợi dây vô hình nào đó gắn bết lại lại
với nhau. Khi viết Nguyễn Trọng Tạo, tôi lại nghĩ đến nhà thơ Hoàng Cát, Lưu
Quang Vũ. Lúc viết về Trần Mạnh Hảo, cái hào sảng, khí phách con người cũng như
thơ ca Bùi Minh Quốc lại hiện về. Viết xong Đỗ Hoàng, thế quái nào tâm trí còn
đọng lại bác Bảo Ninh. Giờ này đang viết về Bảo Ninh, người lính chiến miền
Bắc, lại thấy ông em họ, lính thám kích miền Nam, chết sau mấy năm trở về, từ
nhà tù Thanh Hóa, ngồi lù lù bên cạnh …
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tài năng số một của miền Bắc viết
tiểu thuyết, văn xuôi về đề tài chiến tranh. “Dấu Chân Người Lính“ được
cho là một trong những cuốn tiêu biểu đỉnh cao nghệ thuật của văn học thời kỳ
ấy. Nhưng năm 1987, Nguyễn Minh Châu ra lời kêu gọi bằng chính tác phẩm của
mình: “Hãy Đọc Lời Ai Điếu Cho Một Giai Đoạn Văn Nghệ Minh Họa“. Thật ra, trước
ông đã có một số nhà văn, nhà thơ đã định làm lễ bỏ mả cho cái giai đoạn văn
nghệ tuyên truyền, minh họa này. Tiêu biểu Phạm Tiến Duật năm 1974 với bài thơ
“Vòng Trắng“. Mấy năm sau, Nguyễn Trọng Tạo lại trần trụi với bài “Tản Mạn Thời
Tôi Sống“…Chưa đúng thời, cả hai ông đều bị tẩm quất. Văn chương thơ phú muốn
nói thật viết thật, quả thật còn nguy hiểm hơn cả ngoài mặt trận. Phạm Tiến
Duật lộn lại chiến trường, còn Nguyễn Trọng Tạo bị dồn đến chân tường, có những
lúc ông đã phải nghĩ đến cái chết.
Không ai phủ nhận những đóng góp, sức mạnh của văn thơ tuyên
truyền, cổ động trong thời điểm đó và tài năng của các nhà thơ nhà văn. Nhưng
văn thơ tuyên truyền, minh họa chỉ nhất thời, có tuổi thọ ngắn. Ngay đến nhà
thơ tài danh Xuân Diệu, đầu năm 1979 vào Buôn Mê Thuột, theo đơn đặt của tỉnh
ủy Daklak, ông viết bài thơ Huyện Lắc. Bài thơ này, được ông đọc và bình trước
sinh viên trường đại học Tây Nguyên, trường sư phạm. Bài thơ không hay! Có một
tên trời đánh Hoàng Thế Hoan (sinh viên sư phạm Đà Lạt, quê quán Nghĩa Hùng,
Nghĩa Hưng, Nam Định), dám cả gan chê ngay trước mặt ông như vậy. Âu đó cũng là
chuyện bình thường, bởi thơ đó không được tiết ra từ xúc cảm tâm hồn Xuân Diệu,
mà cái đơn đặt hàng nó viết đấy thôi.
Ông phó cối, hàng xóm nhà tôi, người lính đã trải qua ba cuộc
chiến. Ngày còn nhỏ anh thường phải theo cha đi đóng cối xay khắp nơi, nên ít
được đến trường. Nhưng anh ham đọc, nhất là sách, truyện viết về chiến tranh. Có
lần anh hỏi tôi, theo chú, tại sao truyện của Bảo Ninh đọc đi đọc lại mãi không
chán? Nếu như người khác, tôi đã cho là hỏi đểu, nhưng với anh tôi biết, đó là
câu hỏi thật. Vâng! Chỉ một câu trả lời: Sự thật tàn nhẫn của chiến tranh. Và
tôi hỏi lại, anh đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh, thấy Bảo Ninh viết về những người
lính và chiến trường giống những gì anh đã trải qua không? Anh bảo, giống…giống
lắm, người lính tên Can là một phần cuộc sống của anh về cả xuất thân quê quán,
hoàn cảnh, chiến tranh đánh đấm khói lửa cho đến suy nghĩ…
Cách nay vừa tròn hai mươi năm (1993), tôi có về Hà Nội, gặp
được ông em họ vừa ở tù ra vì can tội là lính thám kích, quân đội Việt Nam Cộng
Hòa. Tôi có đưa cho hắn cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh. Đọc xong, hắn bảo, ông Bảo
Ninh viết hoàn toàn sai về người lính Việt Nam Cộng Hòa. Như câu chuyện bốn
người lính thám kích bị bắt, tác giả viết một cách không đúng sự thật. Từ cách
mô tả hành động đến thuật lại những mẩu đối thoại của những người lính thám
kích này.
Lính thám kích được chọn, hầu hết còn trẻ, gan dạ và có bản
lãnh. Họ không thể nào quá hèn hạ, van xin như Bảo Ninh kể. Nếu có xin tha đi
nữa, thì cách nói và những lời nói ấy, nhất định không phải của họ. Điều này
hắn khẳng định không thể có. Người lính thám kích đã được giáo dục về nhân
cách, ngay sau khi đã được tuyển chọn. Trong nhiệm vụ đặc biệt, những toán thám
kích cần phải tránh nổ súng, tránh bị phát hiện, trừ trường hợp, tự vệ, bất khả
kháng. Cho nên, không thể có trường hợp phát hiện, bắt ba cô gái, rồi dẫn đi
nhởn nhơ như vậy, để nhóm của Kiên tóm được. Hơn nữa, trong trường hợp đã bị
bắt, trước sự sống chết, không thằng nào ngu xuẩn, nói giọng trêu cợt: Ba nhỏ
đó trình quý anh, tụi này làm thịt cúng hà bá rồi… Mấy nhỏ la khóc quá trời..
Hắn cũng cho rằng, cuốn truyện còn nhiều cảnh tưởng tượng quá
mức, như trường hợp, một đám lính, làm thịt con xà niêng, nhưng sau khi cạo
lông mới phát hiện ra đó là một người đàn bà.
Tôi viết lại lời hắn theo trí nhớ của mình. Và còn nhiều lời
nặng nề khác của hắn về Nỗi Buồn Chiến Tranh, nhưng tôi xin phép không chép ra
đây. Hắn ra người thiên cổ đã lâu. Vài dòng như một chút tưởng niệm đến hắn và
những người lính cả hai miền Nam-Bắc đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua. Tôi
là người sinh sau đẻ muộn, rất may mắn không phải tham gia trận chiến thê thảm
này. Bài này, tôi chỉ đề cấp đến sự thật khốc liệt của chiến tranh, ở những
tình tiết có ở trên trang sách của Bảo Ninh và nghệ thuật viết truyện của ông,
qua suy nghĩ cá nhân. Do vậy, khi đọc các bác đặt quan niệm chính trị, ra ngoài
bài viết này.
Cũng như Lưu Quang Vũ, Bảo Ninh được sinh ra trong một gia
đình văn chương, khoa bảng. Nói một cách dân dã, các ông là con nhà nòi và lớn
lên trong cái lò văn chương, nghệ thuật. Lưu Quang Vũ đã sớm nắm bắt được cái
tinh cái cốt ấy, nên đến với thi ca rất sớm. Còn Bảo Ninh đủng đà đủng đỉnh, cứ
như một gã thợ cày làm công nhật, tính điểm thời hợp tác xã vậy. Do đó, ông đến
với văn chương khá muộn, so với các nhà văn cùng thế hệ. Có thể nói, nếu như
không có sự cổ vũ, giúp đỡ tích cực của người cha thì chưa chắc Bảo Ninh đã
theo nghiệp viết lách. Thật vậy, khi đọc văn của Bảo Ninh, thấy dường như có
một nhà ngôn ngữ học thấp thoáng ở đâu đó.
Điều tất nhiên khi đánh giá tài năng nhà văn, cũng như kiểm
tra OTK trong nhà máy, chỉ dựa vào chất lượng sản phẩm của họ. Xuất thân, đến
sớm hoặc muộn với văn chương chỉ là tài liệu tham khảo. Tài năng phát tiết ra
sớm hay muộn cũng như cơ địa của hai cô gái cùng tuổi, nhưng thời điểm dậy thì,
khác nhau mà thôi.
Bảo Ninh có cái may mắn, gốc rễ, được sinh ra tại miền quê và
ông lớn lên trưởng thành ở Hà Nội. Giống nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, ông được đi
nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người ở vùng miền khác nhau. Những cách sống, văn
hóa, ngôn ngữ vùng miền ấy, sau này đã được ông tiếp thu, hòa trộn đưa vào
trang sách một cách sinh động phong phú. Dường như Bảo Ninh viết không nhiều,
không viết tạp. Ông chỉ viết những gì, khi hiểu thật kỹ và đã, đang sống cùng
nó. Ngoài viết báo ra, ông còn gánh hai mảng, truyện ngắn và tiểu thuyết. Viết
văn, nhất là tiểu thuyết là công việc nặng nhọc, nên nhà văn ngoài tài năng bẩm
sinh, kỹ năng viết ra, cần phải có sức lực, vốn sống, kiến thức thâm hậu. Chứ
viết văn dốt bị “nghĩa lộ“ ngay, không như mấy bác lười nhác, trống rỗng làm
thơ tắc tị, nhạt như nước ốc, vẫn có thể lấp liếm được, cho là thơ trừu tượng,
thơ mới…Vì vậy, (tịnh) không thấy bác nào, lập ra hội văn phường, văn xóm như
thơ. Vì những lý do này và là người kỹ tính, nên Bảo Ninh cốt tinh chứ không
cốt lượng, viết thận trọng từng bước, từng bước chăng?
Cho đến nay, về tiểu thuyết, Bảo Ninh chỉ mới trình làng cuốn
Nỗi Buồn Chiến Tranh. Cuốn tiểu thuyết này, ông viết cách nay đã trên hai chục
năm. Tôi cho rằng, đây là cuốn sách rửa lại bộ mặt nhem nhuốc cho văn học Việt
Nam. Và nó là lời ai điếu cho giai đoạn văn thơ minh họa tuyên truyền.
Thân Phận Tình Yêu là cái tên đầu của cuốn sách. Một cái tên
vô thưởng vô phạt, không hay, nếu như không muốn nói là tối nghĩa. Bởi vì cái
tên, cái tựa là cái giỏ chứa cả hồn cốt của cuốn truyện. Tôi nghĩ, cái tên này
chỉ là giải pháp bắt buộc tạm thời như vậy, nếu Bảo Ninh, muốn đưa được cuốn
sách này đến người đọc. Gỉa dụ, cái tựa này do Bảo Ninh thực sự đặt ra, thì cha
ông, một giáo sư ngôn ngữ học, không chịu để yên như thế. Vậy là cuốn sách đã
qua được vòng kiểm duyệt, (chắc chắn có sự hỗ trợ của một số nhà văn khác có
trách nhiệm, tư tưởng cởi mở) để đến tay bạn đọc. Năm 1991, được tái bản, Bảo
Ninh mới dám trả đúng tên cho cuốn sách của mình: Nỗi Buồn Chiến Tranh.
Mặc chiếc áo của người lính chiến tên Kiên, Bảo Ninh đã lột
trần sự tàn nhẫn, của chiến tranh và thân phận đớn đau, không lối thoát của
người lính ngay sau cuộc chiến. Một sự thật từ xưa đến nay người ta đều giấu
giếm kiêng kị. Tiếng vang của nó không còn đóng khung trong nước, mà tràn ra
khỏi biên giới. Độc giả các nước Âu-Mỹ đã đón nhận nó. Sự kiện bức tường Berlin
sụp đổ, kéo theo hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã. Những
năm sau đó, trong nước có những lãnh đạo cao cấp đã nhận ra sai lầm. Tư tưởng
người dân dao động. Tầng lớp trí thức, thanh niên bước đầu có những chính kiến
rõ ràng. Các bác giật mình sợ hãi. Một cái lệnh vu vơ từ cõi trên, treo tái bản
Nỗi Buồn Chiến Tranh hơn chục năm.
Mười năm, văn học Việt Nam vẫn luẩn quẩn, không có một cuốn
sách nào vượt qua được Nỗi Buồn Chiến Tranh. Tuy sách của Nguyễn Huy Thiệp được
xuất bản ở nước ngoài, gây tiếng vang, nhưng chỉ là truyện ngắn, không nặng ký
như tiểu thuyết, truyện dài hơi. Đất nước muốn thoát cảnh đói nghèo, cánh cửa
biên giới phải mở. Internet phát triển như vũ bão, các bác treo Nỗi Buồn Chiến
Tranh, người đọc tìm Bảo Ninh trên trang báo nước ngoài. Bộ mặt văn học Việt
Nam vẫn méo mó, đối ngoại luẩn quẩn. Các bạn nước ngoài hỏi đến Bảo Ninh, các
bác ngơ ngác, thật là kỳ cục. Thế là, người ta lại phải cần đến Bảo Ninh và Nỗi
Buồn Chiến Tranh để lau lại khuôn mặt nhem nhuốc đó. Muốn vậy, chỉ còn cách duy
nhất, Nỗi Buồn Chiến Tranh phải được tái bản lại ở trong nước. Đây là cuốn sách,
được người đọc trong và ngoài nước yêu thích và cũng có số lượng phát hành
nhiều nhất Việt Nam.
Tôi không thích đọc những bài viết về giải thưởng văn học
trong cũng như ngoài nước. Nhưng hôm rồi lục tìm tài liệu về thân thế của Bảo
Ninh, thấy có một bài viết của Đông La. Anh cho rằng, Bảo Ninh đã chôm một đoạn
văn này, của cuốn sách nước ngoài(Bông Hồng Vàng) đưa vào Nỗi Buồn Chiến Tranh:
“…Nếu Elêna nói với Anđexen: “Anh hãy
chạy đi… Đừng nghĩ gì đến em. Nhưng nếu một ngày kia, tuổi già, nghèo nàn và bệnh
tật có làm anh đau khổ thì chỉ cần anh nhắn cho em một lời, em sẽ… tới an ủi
anh”, thì cô Lan cũng nói với Kiên: “Đừng
bận về em. Đời anh rộng mở, hãy đi vào hãy sống cho thỏa… Còn nói ví dụ… một
ngày nào anh gặp cảnh ngộ không hay, thấy đã hết ngả để đi tiếp thì xin anh hãy
nhớ ngay rằng, dù sao cũng còn có một nơi, cũng còn một người… một chốn anh về“
(bài của Đông La)
Tôi nghĩ, anh Đông La đã lầm lẫn, hai đoạn văn trên hoàn
cảnh, ngữ cảnh và những câu thoại hoàn toàn khác nhau. Ngoài ra, đoạn trích của
Đông La là những câu ghép lại bằng những dấu ba chấm để so sánh. Lắp ghép kiểu
này, dường như không được chính nhân cho lắm. Cũng chẳng cần phải phân tích
đúng sai, nói cho nhanh, nếu đoạn văn trên là chôm chỉa thật, chẳng cần anh
Đông La phải mất công đào bới, mấy ông bản quyền ở Âu- Mỹ, đã lôi cổ Bảo Ninh
ra tòa lâu rồi. Có một điều, có lẽ anh Đông La không biết, luật bản quyền ở
châu Âu chặt chẽ xuống từng đầu người, từng chiếc Radio, từng cái Ôtô. Ai cũng
phải trả tiền bản quyền nghe nhạc. Sử dụng nhạc trong cửa hàng kinh doanh, càng
phải trả nhiều tiền hơn, tính mét vuông nhân lên số tiền. Tiện đây cũng nhắc
luôn nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo và các nhạc sỹ có bài hát, hay được (bị) sử dụng
ở nước ngoài. Trước kia, các nhà hàng của người Việt ta, thường khai với công
ty quản lý sử dụng nhạc trong kinh doanh (GEMA) chỉ sử dụng nhạc Việt, nên
không phải trả tiền. Mấy năm gần đây, sử dụng nhạc Việt cũng phải nộp tiền cho
công ty này. Họ bảo, nhạc Việt cũng được bảo hộ, tiền sẽ trả cho tác giả. Không
biết công ty bản quyền và nhạc sỹ ở Việt Nam có được nhận hay không? Không
những Đức mà còn nhiều các nước khác, châu lục khác. Tôi nghĩ, đó là khoản tiền
không nhỏ.
Cũng như nhạc, ngoài ra bản quyền sách báo còn chặt chẽ hơn.
Sách của Bảo Ninh có đoạn chôm chỉa, tôi bảo đảm không nhà sách nào dám in, chứ
đừng nói mấy chục năm nay nó nằm chình ình ở các hiệu sách, thư viện Âu- Mỹ như
vậy.
Đông La còn đánh giá, nếu như Bảo Ninh nhận được giải Nobel
về văn học, thì mang mầu sắc chính trị, chứ không phải về học thuật. Tôi nghĩ,
văn học Việt Nam đang như cái chợ chiều thế này, thế hệ nhà văn Bảo Ninh không
có hy vọng nhận được giải ấy. Nếu như Việt Nam nuôi hy vọng nhận được giải
Nobel, ngay bây giờ nên có những công trình nghiên cứu, giải quyết những câu
hỏi. Tại sao Nỗi Buồn Chiến Tranh tràn đầy sức sống và sống dai đến như vậy?
Không những nó ghim vào lòng độc giả trong nước mà cả đến độc giả các nước
Âu-Mỹ. Điều này không phải tôi nói, trước đây đã nhiều người nói rồi. Cái này,
từ ông viện trưởng viện văn học đến ông chủ tịch Hội nhà văn chắc chắn cũng
thừa biết. Nhưng các bác không làm, vì có lẽ làm cũng chẳng ăn cái dải rút gì.
Nên các bác để thời gian, cùng nhau lên đồng, cùng nhau tụng ca những thứ, thơ
chẳng ra thơ, vè chẳng ra vè của những ông linh hồn bệnh hoạn như Hoàng Quang
Thuận… Với những suy nghĩ còn tiểu nông như vậy, văn chương bao giờ mới lớn lên
được.
Không biết Đông La đã đọc kỹ Nỗi Buồn Chiến Tranh hay
chưa? Cuốn sách này, tôi chẳng thấy đồng chí chính trị viên hay bác tâm lý
chiến nào ở trong đó cả. Cũng chẳng thấy bóng dáng, những ông Kissinger, Nixon,
Johnson hay bác Nguyễn Khoa Điềm… Đinh Thế Huynh đâu. Chỉ thấy, thuần một ông
Bảo Ninh đang lên cơn điên, với những nỗi ám ảnh chém nát linh hồn. Từ đó bật
lên sự thật trần trụi, tàn nhẫn của chiến tranh cũng như thân phận bi quan
không lối thoát của con người sau cuộc chiến, chẳng có chút chính trị chính em
nào ở trong này cả. Cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh, nếu như được
trao giải, thì chẳng có lợi cho phe phái chính trị nào. Và Bảo Ninh cũng không
phải là cái tầm cỡ to lớn như hai bác, thay mặt cho hai phe, xua quân đánh
nhau, rồi bắt tay đình chiến, cùng được kêu tên nhận giải Nobel khi xưa, để
người ta đáng phải làm như vậy. Đông La suy diễn quả thật không có cơ sở, dù sự
việc chỉ là giả thiết.
Đến bây giờ tôi vẫn nghĩ, Nỗi Buồn Chiến tranh nếu
được viết, xuất bản ở môi trường xã hội khác, có lẽ Bảo Ninh sẽ viết theo thể
truyện ký, hay tự truyện. Dùng đại từ nhân xưng (tôi) ngôi thứ nhất, thay cho
ngôi thứ ba (Kiên), gần gũi, truyền cảm xúc nhanh nhất từ người viết đến người
đọc. Nó cho người đọc cảm giác thật và có sức lan tỏa mạnh hơn nữa. Nhưng nó có
mặt hạn chế bó buộc, không được vung tay mạnh, như viết tiểu thuyết. Bản thân
tôi khi đọc, tiếp cận Nỗi Buồn Chiến Tranh, bằng mạch văn tự truyện, hay truyện
ký, chứ không coi nó là tiểu thuyết.
Xuyên suốt Nỗi Buồn Chiến Tranh là sự hồi tưởng
trong trạng thái ám ảnh của người lính chiến tên Kiên (tức là Bảo Ninh). Theo
lời ông bạn, chuyên gia thần kinh học, thì ám ảnh cũng là một căn bệnh do bị
tổn thương thần kinh. Những lúc bị ám ảnh, mỗi người bệnh có hành vi khác nhau.
Có người đập phá, người hát hò nhảy múa hoặc tìm sử dụng chất ngây nghiện
…Nhưng có những người lại trầm lặng làm những công việc đặc biệt, hoặc sinh ra
những cá tính cá biệt. Có lý, như ông bác Đặng Trác, họ bên mẹ tôi là tướng tá
gì đó, tư lệnh quân khu 9 từ thời đánh nhau với ông Pháp. Vợ ông ngày xưa có lẽ
cũng tham gia đánh trận, nên bị ám ảnh, rất sợ bẩn. Có lần vợ chồng bác đến
thăm ông trẻ, em bà ngoại tôi, chú Đặng Xuân Đỉnh (em ruột Tổng Bí thư Trường
Chinh) cũng ở đó, đưa mời vợ bác Trác ly nước, bà vội rút khăn ra lót vào ly,
rồi mới dám cầm. Bác Trác xin lỗi, và giải thích căn bệnh của bà…
Như vậy, rất may Kiên rơi vào dạng thứ hai này. Mỗi lần ám
ảnh, thần kinh kích động cao độ, ông ngồi vào bàn viết, làm công việc duy nhất
độc thoại về Phương về Can về Quảng, về Hòa… trong nội tâm và được chuyển tải
trên từng trang giấy. Lúc này tâm hồn ông thoát, tách rời khỏi thế giới xung
quanh và không bị tác động bởi nó, ký ức hiện lên trang viết của ông là chân
thật rõ nét nhất. Trong tâm trạng không bình thường, với nỗi ám ảnh chập chờn
như bóng ma hiện về. Những ký ức bị xé vụn, đan xen chằng chịt, với lối kể
nhanh, hoạt làm cho người đọc rờn rợn, nhưng vẫn đuổi theo hành động của nhân
vật. Phải nói đây là cách dẫn chuyện mới lạ với người Việt, gần với tâm lý độc
giả phương Tây hơn.
Có một nhà phê bình tên tuổi, khi đánh giá về Nỗi
Buồn Chiến Tranh viết (quanh quẩn một hồi, rồi có câu kết): Bảo Ninh đã
xây dựng thành công nhân vật người lính. Vâng! Tôi hiểu sự úp mở để che đậy cái
suy nghĩ thật mà ông không dám nói, dám viết. Xây dựng của ông là nghệ thuật
xây dựng của con chữ, chứ dứt khoát không phải xây dựng thành công người lính
ĐIỂN HÌNH trong tập thể điển hình như những Dấu Chân Người Lính của Nguyễn Minh
Châu, Đêm Trường Sơn Nhớ Bác của Nguyễn Trung Thu…
Bảo Ninh có cái nhìn khác về chiến tranh, thông qua cái mâu
thuẫn nội tâm cũng như hành động cá thể của người lính. Tôi cho rằng, đó là cái
nhìn biện chứng, khách quan, đúng với qui luật của cuộc sống cũng như tâm lý
con người, dù là cái nhìn cá nhân. Đêm Trường Sơn, một thoáng lặng yên, trước
nhất người lính phải nhớ về mẹ, về người yêu, người thân, chứ không thể nghĩ về
người nào khác, dù người đó có là thánh nhân, (hoặc là ai đi chăng nữa).
Đọc lại đoạn thoại này, ta thấy được diễn biến tâm lý người
lính rất thật, rất đau chứ không phải ấn vào mồm họ, những lý tưởng, từ ngữ
phơi phới, đao to búa lớn:
“…Can từ từ đứng dậy,
đối diện, nhìn thẳng mắt Kiên.
- Cả đời đi đánh nhau, thú
thật, tôi chả thấy cái trò này là có gì vinh. Nhưng do hy vọng nên vẫn còn chịu
đựng. Về quê, càng khốn nạn, tôi biết. Người ta chẳng để cho sống đâu. Nhưng
mấy đêm vừa rồi tôi toàn mê thấy mẹ tôi gọi tôi… Có nhẽ anh tôi đã chết mà mẹ
tôi thì khổ não lâm bệnh rồi chăng. Không thể nấn ná, vì suất học sĩ quan là
của anh… Tôi phải lần về quê. Chỉ mong anh em trong trung đội thương tình,
thông cảm. Sẽ chẳng ai tóm nổi tôi lại nếu như chính anh em trinh sát không
truy đuổi. Nhất là anh, Kiên ạ, anh thả cho tôi đi thì tôi sẽ đi được… Tôi đành
mang tội lỗi với anh em… Quê tôi thì anh biết rồi đấy… Hà Nam, Bình Lục… mai
sau mà có dịp…“ (Nỗi Buồn Chiến Tranh)
Thay cho những buổi học chính trị sáo mòn ta thắng địch thua,
người lính lao vào những cuộc sát phạt đỏ đen hay hút xách, nhằm quên đi cái
tàn khốc của chiến tranh, mỏng manh của thân phận. Cỗ bài này, ngày mai ai sẽ
là người khuyết chân?
“…Thường là cứ chập tối
cơm xong bắt đầu ngả chiếu bạc. Trong bầu không khí ẩm rượt, nồng ngạt mùi mồ
hôi và khét lẹt khói xông muỗi, các con bạc châu quanh cỗ bài, tơi bời đỏ đen.
Tiền đặt cửa thường là
những tàu thuốc “đồng bào” hôi mù, cay cú hơn thì thuốc lào, đá lửa hoặc sợi
hồng ma một thứ tiền ma túy – hoặc là lương khô và ảnh nữa, ảnh con gái các
loại, bất kể gái tây hay gái ta, xấu hay đẹp, người yêu hay người dưng, dùng
tuốt, dốc hết ra mà sát phạt. Chẳng còn gì ăn thua nữa thì quệt muội đèn, chơi
trò bôi râu. Người đánh kẻ chầu rìa, vui vẻ, om sòm nhiều hôm thâu đêm…
Chơi tà tà nhé, – Kiên đề nghị
– nếu dở ván thì trời để cho cả bốn thằng sống qua trận này, để còn chơi tiếp…“ (Nỗi Buồn Chiến Tranh)
Vậy là, cỗ bài này chỉ còn lại một chân. Mình Kiên sống sót.
Cái chết tuy đã được báo trước, nhưng trước cái chết quằn quại của những người
lính trẻ từ cả hai phía Bắc –Nam, làm cho người đọc không khỏi bàng hoàng, đau
xót. Và hình ảnh người lính bắn nhầm vào con xà niêng, cạo lông làm thịt một
cách rùng rợn, cho ta thấy sự điển hình tàn nhẫn dã man của chiến tranh: “khi ngả ra, cạo sạch bộ lông thì hóa ra: con
vật hiện nguyên hình là một mụ đàn bà béo xệ, da sần lở, nửa xám, nửa trắng
hếu, cặp mắt trợn ngược… Cả trung đội thất kinh, rú lên ù té, quẳng tiệt nồi
niêu, dao kéo…”
Phải nói, trí tưởng tượng, sự liên tưởng phong phú và tài
năng kết nối sự việc là những yếu tố chính làm nên sự thành công của Nỗi
Buồn Chiến Tranh. Chẳng có hương thơm nào có thể rửa hết mùi tử khí
trong tâm hồn người lính chiến. Một cánh quạt trần quay cũng làm ông giật mình
kinh hãi.
“…Nhiều hôm không đâu
giữa phố xá đông người tôi đi lạc vào một giấc mơ khi tỉnh. Mùi hôi hám pha tạp
của đường phố bị cảm giác nồng lên thành mùi thối rữa. Tôi tưởng mình đang đi
qua đồi “Xáo Thịt” la liệt người chết sau trận xáp lá cà tắm máu cuối tháng
Chạp 72.
Tử khí xộc lên từ vỉa hè
nồng nặc đến nỗi tôi phải vội đưa tay lên bịt mũi như kẻ hóa rồ trước mắt người
qua đường. Có đêm tôi giật mình thức dậy nghe tiếng quạt trần hóa thành tiếng
rú rít rợn gáy của trực thăng vũ trang. Thót người lại trên giường tôi nín thở
đợi một trái hỏa tiễn từ tàu rà phụt xuống. “Chéo-éo-éo … Đoành!…”
Đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh, tôi mới vỡ ra
một điều, cái sự tưởng tượng của trang văn nó cần tính khái quát và cụ thể hơn
so với thơ. Ở đây chỉ có một hình ảnh nhỏ “..luôn luôn nhìn xuống như sợ giẫm phải cái bóng của mình…“ người đọc
đã liên tưởng, thấy được toàn bộ con người cũng như gia cảnh của người hàng
xóm, tang thương vật vờ một cách sâu sắc hơn. Cái quan sát tỉ mỉ, lối miêu tả
đầy hình ảnh này, chỉ nhà văn tài năng mới có được:
“…Có hôm ông bước xuống
cầu thang vào sau bữa cơm trưa, xách trên tay chiếc cặp lồng đựng bữa tối. Ông
không cao gì lắm nhưng vì quá gầy nên trông lênh khênh. Cổ lộ hầu, vai hẹp,
lưng lòng khòng, luôn nhìn xuống như sợ giẫm phải bóng của mình. Ba người con
của ông đều nằm lại trong chiến tranh. Anh con thứ là Toàn. Hy sinh gần như
trước mắt Kiên. ông Huynh không biết chuyện đó. Vợ ông bị liệt khi báo tử đến
người con cuối cùng. Vợ chồng ông sống nghèo khổ, câm nín, trống rỗng suốt bao
năm trời. ông Huynh vẫn ngày ngày đi lái tàu điện…“ (Nỗi Buồn Chiến Tranh)
Đôi lúc, ta thấy dường Bảo Ninh đã cởi chiếc áo lính ra, đứng
từ góc cạnh khác để nhìn vào cuộc chiến. Đã giúp ông nhìn khách quan hơn. Và từ
cái nhìn khách quan ấy, đã cho ông hiểu rõ hơn về bản chất của cuộc chiến. Từ
đó, lòng nhân đạo là mạch nối giữa ông và người đọc thông qua trang viết:
“…Tên tuổi anh ta tôi
không biết, chỉ biết anh ta là lính của liên đoàn 6 biệt động quân; Người Nam
hay Bắc hay Trung cũng chả biết vì anh ta chỉ rên, rên thì dân xứ nào cũng một
giọng như nhau…”
Câu nói, cũng như lời ước đầy tính nhân đạo, khi kết thúc
chiến tranh: “Giá mà vào giờ phút giải
phóng, tất cả những người lính đều được phục sinh”. Nhưng đó là những người
lính nào? Vâng! Chính là những người lính chung của cả hai miền chiến tuyến.
Đấy là tư tưởng Bảo Ninh trong toàn bộ tác phẩm này.
Thân phận của người lính sau chiến tranh, nằm trong cái bế
tắc chung của toàn xã hội. Với những chính sách diệt tư sản tư nhân, cấm chợ
ngăn sông, giá-lương-tiền, lạm phát phi nước đại, có những gia đình miền núi
phía Bắc phải chết đói. Sự dối trá làm băng hoại đạo đức xã hội. Nhưng từ trên
xuống dưới, các bác vẫn say sưa trong niềm vui chiến thắng. Phấn khởi lạc quan
đến mức, bác Tố Hữu Phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng(Phó thủ tướng) sau khi đi
Pháp về, ví nếu trái đất là một chiếc nón, thì chúng ta đang ở trên đỉnh chóp
cái nón đó. Làm cho người lành như nhà thơ Trần Đăng Khoa, cũng phải sửng sốt
trước mặt bác Phó chủ tịch: Không biết chiếc nó đó đang úp hay ngửa?
Trong cái sấp, ngửa đó, Bảo Ninh nhận đã ra cái bi đát từ
chính mình, đồng đội mình và trong gia đình, xã hội. Sau cuộc chiến súng đạn,
là chiến tranh (trong) lòng người, còn ghê sợ hơn thế. Làm cho ông hoàn toàn
thất vọng và kinh tởm những khuôn mặt giả dối ấy:
” – Hừ! Hòa bình! Mẹ
kiếp, hòa bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ máu thịt bao anh em mình, để
chừa lại có chút xương. Mà những người được phân công nằm lại góc rừng le là
những người đáng sống nhất…- Nền hòa bình này… Hừ tôi thấy hình như các mặt nạ
người ta đeo trong những năm trước rơi hết. Mặt thật bày ra gớm chết…“ (Nỗi
Buồn Chiến Tranh)
Một gia đình người hàng xóm có ba con liệt sỹ đói nghèo với
cuộc sống vật vờ. Một đứa em gái người bạn chết trận là gái làm tiền. Người yêu
đã là gái bao, Kiên cũng như bao đồng đội khác, lạc lõng, không thể hòa nhập
vào cuộc sống, sau chiến tranh. Cuộc sống của họ chìm mình vào những cơn say và
nôn ọe. Hình ảnh người lính hùng dũng lái xe chiến trường năm xưa, nay chỉ còn
lái trong những lúc ám ảnh của linh hồn.
“…Xóc mạnh ổ gà, ổ
trâu, chồm nẩy lên thì còn chịu được – Vượng kể – chứ mà những đoạn nhún nhảy,
êm êm, mềm mềm, nhũn nhũn là tớ ọe liền, nôn chóng mặt đến buông cả tay lái.
Đêm về không ngủ được. Ngủ lại gào lên như bị cắt tiết. Thế là tửu. Mà tửu vào
thì còn lái chó gì được nữa…“ (Nỗi Buồn Chiến Tranh)
Có lẽ đồng đội của Bảo Ninh đều là những người ra đi từ miền
quê, những nông dân chân lấm tay bùn, nên hầu như ông sử dụng từ ngữ địa phương
của nông thôn miền Bắc trong cuốn sách, như một lời tri ân, tưởng nhớ chăng?
Vâng! Đúng như vậy, từ đầu đến cuối cuốn sách này, hình như
chúng ta không hề tìm thấy động từ xem- nhìn- nó được thay bằng động từ nom,
nông dân đồng bằng sông Hồng hay sử dụng “…Kiên
nom thấy trong quầy …vẻ mặt hắn lúc này, nom phải đặt biệt nhà quê…“ Hay
cụm từ dưới đây là một minh chứng rõ ràng “Xin
để mắt quan tâm…“
Tôi nghĩ, việc sử dụng tiếng địa phương đúng với văn cảnh,
hoàn cảnh, sẽ làm cho câu chuyện, lời văn sẽ sinh động và thật hơn. Đoạn trích
dưới đây, với những lời nói, từ ngữ địa phương, miền quê ấy, làm tăng thêm cái
trớ trêu của người ăn xin với người (có thể là) đồng đội cũ, sau chiến tranh:
“…Kiên bước qua đường.
Dưới cột đèn trước cửa một hiệu ăn anh thấy một người ăn mày đang đứng co ro,
tay giấu trong nách, rạp xuống ngẩng lên vái người qua đường và cất giọng ống
bơ rỉ kêu van một cách tự tin:
“Xin hãy để mắt
quan tâm đến tình cảnh người khác một phút đồng chí ơi! Xin hãy nhớ tới những
miền đang lụt lội, đồng chí”.
- Ăn mày mà lập trường
gang thép gớm chưa? Mẹ kiếp, cái dân An Nam nhà mình chỉ giỏi chống ngoại xâm
chứ đến ăn xin cũng chẳng biết đường – một ông bệ vệ diện bành tô quắp một ả áo
lông đi từ trong quán ra, lên giọng – ê, hạ lập trường xuống, thì cho.
Ả áo lông cười rú lên như
bị cù. Kể cũng buồn cười thật. Một lúc nào đó mình sẽ dùng đến cảnh này, tự
nhiên Kiên nghĩ thế. Có thể sẽ viết rằng thằng cha bệ vệ kia và người ăn xin là
bạn cũ của nhau. Thậm chí là đồng đội. Mà cũng có thể… Nhưng, vớ vẩn chưa kìa…“.
Bảo Ninh đã viết khá nhiều trang về sinh hoạt văn chương của
những năm sau chiến tranh. Thời văn học nghệ thuật phuc vụ, minh họa cho đường
lối lãnh đạo của đảng. Thời kỳ văn chương không có cái tôi ở trong đó.
Đọc những trang viết này của Bảo Ninh, làm tôi sực nhớ đến
bác Đặng Quốc Bảo, họ hàng bên mẹ tôi, nguyên bí thư trung ương đoàn. Cuối
những năm 1979 đầu năm 1980, bác thường hay đến các trường đại học để nói
chuyện về văn hóa nghệ thuật, lý tưởng thanh niên … Thời kỳ đó, trước cửa
trường đại học, hay nơi sinh viên thường tụ tập, luôn có đội cờ đỏ cầm chai,
cầm kéo kiểm tra. Ống quần, không đút cái vỏ chai vào được, gọi là ống típ, ống
bó cắt xẻ ngược lên tới đầu gối. Quần ống rộng ống loe cắt, áo bó áo chẽn cắt.
Người ta cắt xé tất cả những gì cho là văn hóa của Mỹ Ngụy, để lại. Cứ nhè lúc
bác Bảo diễn về văn hóa trên bục, thì ở vòng ngoài bọn cờ đỏ đè mấy thằng sinh
viên ra thiến. Quần áo người ngợm thằng nào cũng te tua như vừa đánh trận về.
Một lần tôi đến nhà bác ở phố Phan Đình Phùng, con đường đẹp
và yên tĩnh bậc nhất của Hà Nội. Phải nói bên ngoại tôi, toàn những ông làm to,
nhưng với con cháu, thân mật tình cảm nhất là bác Đặng Quốc Bảo. Sau khi thăm
hỏi mẹ, bà tôi, là đến là chương trình lý tưởng thanh niên. Rồi ví dụ, những
ngày đầu cách mạng, bác phải cà răng căng tai để làm công việc dân vận ở Tây
Nguyên. Và nhiều công việc đại loại như nhà văn, người lính địa phương quân
Trung Trung Đỉnh đã viết… Bài học của bác vừa kết thúc, không hiểu sao lúc đó,
tôi buột miệng hỏi: Lúc bác đang nói về văn hóa với thanh niên, bọn cờ đỏ đè
sinh viên ra cắt quần áo, một việc làm giết văn hóa như vậy, bác có biết không?
Bác cũng bất ngờ câu hỏi của tôi. Có lẽ một câu hỏi bác không bao giờ nghĩ đến.
Cũng may, lúc đó ca sỹ Mạnh Hà đến, nhận nhiệm vụ sang Liên Xô, dự Festival hay
gì đó. Tôi đứng dậy, xin phép bác về. Mạnh Hà bắt tay tôi, nhìn áo chẽn quần
loe của anh, tôi định nói, ông anh ăn mặc thế này, vào cổng trường đại học, thế
quái nào cũng bị chúng nó làm thịt.
Cũng đến 34 năm tôi không gặp lại bác Đặng Quốc Bảo. Nhưng
gần đây được đọc những bài viết của bác, tôi thấy tư tưởng suy nghĩ hoàn toàn
khác, không giống những bài giảng của bác trước đây. Tôi rất thích đọc những
bài viết này, kể cả bài về chính trị, dù tôi không thích chính trị và những bài
viết về nó. Khi nào về Việt Nam, nhất định tôi sẽ đến thăm bác, và xin được
nghe bác giảng bài mới này. Dẫu biết, bác đã già lắm rồi và tôi cũng không còn trẻ
nữa.
Trong bối cảnh xã hội đang cùng nhau lên đồng, cùng nhau cắt
tiết văn hóa, Bảo Ninh viết trần trụi, trắng hếu ra như vậy, cha con người lính
tên Kiên phải xé tranh, đốt bản thảo là phải. Có người cho rằng, hành động đốt
bản thảo của Kiên là tiêu cực. Nhưng tôi lại nghĩ khác. Sự đốt bản thảo của của
Kiên là hành động phản kháng tích cực, một cách tự nhiên tâm lý con người. Bởi
nhà văn cũng là con người bình thường, không nên thần thánh hóa và ấn cho anh
ta cái lý tưởng phơi phới không có thật nào đó. Nếu nhà văn Kiên không đốt bản
thảo, bọn cờ đỏ gác cổng kia, không trước thì sau chúng nó cũng thiến mất thôi.
Thôi thì, xé hết quần loe áo bó, hoa hoét màu mè, cứ mặc quần nâu áo gụ, đến
trường cho nó lành.
Đằng sau sự đốt tranh, đốt bản thảo ấy, có hiệu quả báo động,
lên án, cảnh tỉnh quá đi ấy chứ, không thì làm sao Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh
phải kêu lên, hãy cởi trói cho các văn nghệ sỹ. Không có sự đốt tranh, đốt bản
thảo của cha con người lính Kiên, thì sẽ không có cuốn sách Nỗi
Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh ra lò, đến tay chúng ta và bạn bè năm
châu như hôm nay. Vâng! Sự tàn khốc của kiểm duyệt trong giai đoạn đó là thế.
Vậy thì phải cảm ơn sự đốt lửa của nhà văn Kiên lắm lắm… Tôi lại nghĩ, ngày còn
sống, đọc đến đoạn văn này, Phùng Quán, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm… chẳng vỗ
đùi đen đét khen Bảo Ninh.
Dường như Bảo Ninh dành những từ, những câu văn hay và đẹp
nhất viết về Phương. Là người có tính cách mạnh mẽ, có khát vọng tự do, nên lúc
nào Phương cũng cảm thấy bị tù túng bức bối, muốn phá tan đi tất cả. Là người
“vì sợ mà chẳng sợ gì nữa“, nên Phương luôn hành động được coi dị thường trong
giai đoạn đó. Bước vào đời Phương đã cú sốc nặng, con đường bước vào gái bao là
tất yếu, trong khung cảnh tối tăm như vậy. Cũng như Chí Phèo, ai cho Phương làm
người lương thiện, khi xung quanh toàn là Bá Kiến.
Khi đọc đến đoạn, Phương chủ động hơi chồm lên, vòng tay ôm
lấy cổ Kiên kéo xuống, tôi lại nghĩ đến hành động, dám phá tan những ràng buộc
của lễ giáo phong kiến của Thúy Kiều. Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình đến
với Kim Trọng, khi ông bà Vương Viên Ngoại vắng nhà. Đó là hình ảnh đẹp. Một
hình ảnh cho chúng ta thấy một điều, quyền lực, chế độ xã hội, tiền bạc qua năm
tháng rồi sẽ biến đổi, chỉ còn lại khát vọng tình yêu là vĩnh cửu:
“Nhưng Phương không mệt
à? – Kiên thấy giọng mình như lạc đi – Không lạnh à?
- Có – Phương đáp và hơi
nhổm người lên, vòng tay ôm lấy cổ Kiên kéo xuống. Thoạt tiên, một cảm giác
nhức nhối làm Kiên gai hết người, run lên, gân cốt chùng xuống nhưng rồi sự
chấp nhận biến thành sức cuốn mãnh liệt lập tức ghì riết anh, nuốt chặt anh vào
thân hình mềm mại, thơm mát và nóng hổi, chân thành và mù quáng, đầy cuồng bách
của Phương. Đó là một cái gì không thể ngờ được, như thể tiếng sét, và hơn cả
đau đớn, như thể đột ngột cất lên một tiếng kêu tự đáy lòng. Và không phải là
cái hôn đầu tiên nhưng là nỗi da diết đầu tiên được khám phá ra bên bờ hồ…
Song, tất cả diễn ra chỉ trong khoảnh khắc. Đột nhiên một ý chí sầm tối và cứng
rắn đánh thức nhói lên nói rằng anh không được, anh không thể, rằng… ráng hết
sức bình sinh Kiên tự giằng mình ra, thả buông vòng tay đang dằn xiết Phương,
ngồi chồm dậy. Sự buông hẫng ấy làm Phương lặng đi. Mọi cảm giác choáng loạn
tản bay nhường chỗ cho sợ hãi và xấu hổ. Cô lăn tránh sang bên, gài nhanh hàng
cúc áo sơ mi che kín ngực rồi nhè nhẹ ngồi lên. Sóng hồ dập dềnh, ì oạp vỗ vào
bờ cỏ. Xa xa, từ chỗ pháo đội cao xạ chất nổi trên đám bè neo sâu trong hồ một
hồi kẻng khuya chậm rãi dõng lên. Vị thần bảo hộ cứu tinh cho sự trong trắng và
trong sạch của đôi bạn, chẳng là ai khác ngoài chính họ.
Gió thở dài. Im lặng lan
xa. Hai người như thể vừa từ đáy nước nổi bồng lên để rồi mỗi người bị cuốn dạt
ra mỗi ngả. Kiên đưa tay ra, run run nắm lấy cổ tay Phương như muốn níu giữ cô.
- Kiên sợ phải không? –
Phương dịch lại gần – Sợ phải không? Phương cũng sợ. . . Nhưng vì sợ mà chẳng
sợ gì nữa. . .“ (Nỗi Buồn Chiến Tranh)
Tôi rất thích đọc những đoạn văn tả cảnh, tả tình của Bảo
Ninh vì rất khoáng đạt, từ ngữ đơn giản nhưng vẫn toát lên sự sang trọng. Nó
lung linh sương khói mờ ảo như một bài thơ tình vậy. Đây là một trong những
trang văn hay và đẹp nhất mà tôi đã được đọc:
“…Đêm hè mát rượi, mà
trán và lưng anh ướt mồ hôi. Tràn ngập nỗi sợ hãi và lòng thương mến, anh xiết
chặt eo Phương. Anh cảm thấy yếu đuối, mờ mịt. Tình yêu. Sự tôn thờ quy phục.
Anh không sợ. Nhưng anh không thể. Anh không dám.
Phương khẽ nằm xuống kéo
Kiên ngả xuống theo. Cỏ mát rượi, hơi sương, nhưng nền đất vẫn còn đọng hơi ấm
buổi chiều. Kiên gối đầu lên tay Phương, áp chặt vào mình cô. Như một cậu bé.
Đúng là Phương không điên mà cô như là một người chị, một người mẹ trẻ, cô lùa
tay vào tóc anh vuốt nhè nhẹ và thì thầm kể chuyện về người cha của anh. Mái
tóc hồi đó Phương để rất dài, xỏa rộng phủ lên mình Kiên, ấm và thơm lạ lùng.
Hé mắt nhìn qua làn tóc, Kiên nhận thấy trăng hạ tuần đã lộ. Vừng trăng mỏng và
cong hiện ra rất nhanh ở rìa một khối mây đùn cao trên đỉnh hồ. Rồi lập tức bị
che khuất. Anh nhìn thấy ánh lửa đập dờn như lửa ma trơi trên sân thượng. Cha
và Phương. Những bức tranh màu lá úa và màu vàng như rơm. Những linh hồn được
phóng thích ra khỏi mặt vải. Giọng Phương đều đều, ngái ngủ hệt như giọng một
người mẹ kể chuyện cổ tích trong màn. Kiên không nhận thấy là mình đã bật mở
hết cúc áo của Phương cho tới khi hai bầu vú trắng phau bật ra. Vành trăng lướt
thoáng một dải sáng lên mặt hồ và bãi cỏ. Phương nằm yên, không trở mình, có lẽ
đã ngủ say. Kiên không nhận thấy là miệng mình đã ngậm chặt lấy đầu vú của
Phương còn thành thạo hơn một chú bé con. Anh mút nhè nhẹ thoạt tiên là như
thế, như thuở mới ra đời người ta bú. Nhưng rồi kế đó là một nỗi khát khao kỳ
quái thôi thúc, anh dùng cả sức mạnh của hai bàn tay, cho đến lúc cảm nhận
trong miệng cái vị ươn ướt ngòn ngọt thoáng cả nỗi đau đớn mơ hồ như thể vị
ngọt từ giấc mơ của Phương thấm truyền sang…“ (Nỗi
Buồn Chiến Tranh)
Góp vào sự thành công Nỗi Buồn Chiến Tranh có nhiều yếu
tố, nhưng yếu tố quan trọng nhất làm nên nó là SỰ THẬT TÀN NHẪN CỦA CHIẾN
TRANH. Sự thật đó đã chạm được vào nỗi đau tận cùng của con người. Nó như một
bức thông điệp sáng giá đưa văn học Việt Nam đến gần với văn học chung thế
giới. Và Nỗi Buồn Chiến Tranh - Bảo Ninh góp phần không nhỏ cùng với
những Chuyện Ba Người của Tô Hoài, Mảnh Đất lắm Người Nhiều Ma -
Nguyễn Khắc Trường, Ly Thân- Trần Mạnh Hảo…. chứng minh sức sống của văn học hiện
thực không xã hội chủ nghĩa.
Tất nhiên, trong một tác phẩm văn học nào cũng vậy, ngoài
những yếu tố thành công, dứt khoát còn có mặt hạn chế, Nỗi Buồn Chiến Tranh cũng
không ngoại lệ. Trong phạm vi bài viết này, tôi chưa thể đề cập đến.
Có một điều thú vị, khi đọc truyện ngắn của Bảo Ninh, tôi
nghiệm ra, trong văn chương không có đề tài nào lớn hoặc nhỏ. Lớn, nhỏ do tài
năng người viết. Có những cái rất nhỏ, tưởng chừng viết dăm ba câu là đủ, nhưng
ông đã mở ra những điều rất lớn, rất đáng suy nghĩ ở trong đó. Câu chữ trong
truyện ngắn của Bảo Ninh thô ráp, nhưng sau nó là cái tinh tế mượt mà. Giống
như cô gái hiện đại thời nay sống trong ngôi nhà cổ cũ kỹ vậy.
Nhất định tôi sẽ trở lại với đề tài truyện ngắn của ông.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết của
(về) tác giả Đông La0
- Các bài viết của
(về) tác giả Nguyên Ngọc0
- Các bài viết của
(về) tác giả Trần Mạnh Hảo0
- Các bài viết của
(về) tác giả Sương Nguyệt Minh0
- Bạn đọc cảm nhận
bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ TRÒ ĐỜI:
*.
ĐỖ TRƯỜNG
Địa chỉ: Thành
phố Leipzig, tỉnh Leipzig,
Bang Sachsen, Cộng hòa Liên Bang Đức.
Email: dotruong07@yahoo.de
.............................................................................................................
- Cập nhật từ email
dovantuyenbk@yahoo.com.vn ngày 28.02.2021
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu
tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện
quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét