CẶP
ĐÙI EM NHƯ HAI LƯỠI KÉO...
*
(Tác giả Đặng Văn Sinh) |
Vào những năm của
thập niên 80 và 90 thế kỷ XX, người Nhật phát triển công nghệ truyền hình đạt
đến đỉnh cao mà một trong những hãng nổi tiếng là Sony. Với cấu trúc cong, độ
nét cao, tạo được chiều sâu, màn hình hiển thị đã ở trình độ thượng thừa, nhưng
các nhà thiết kế vẫn chưa hài lòng. Người ta còn muốn chế tác một loại Tivi
siêu đẳng, trong đó, tích hợp những tiến bộ kỹ thuật độc quyền gây hiệu ứng
không gian ba chiều. Thế nhưng mọi sự cải tiến có vẻ như đã chạm ngưỡng giới
hạn, kỳ vọng của các ông chủ công nghệ nghe nhìn xứ Phù Tang vẫn dẫm chân tại
chỗ.
Trong khi ấy, người
Mỹ, không chơi trò loay hoay với kỹ thuật nâng cao độ phân giải của truyền hình
Analog mà các đầu óc thông thái của thung lũng Silicon nghĩ ra truyền hình kỹ
thuật số (digital), băng thông rộng, mở ra kỷ nguyên mới cho công nghệ nghe
nhìn. Quả thật, màn hình kỹ thuật số nét căng, gần đây lại được nâng cấp bằng
công nghệ HD khiến cho các hãng nổi tiếng của Nhật phải ngậm ngùi goodbye công
nghệ truyền thống và nhanh chóng bắt tay vào công nghệ Mỹ.
Đương nhiên, công
nghệ khác với văn chương, bởi văn chương thuộc hình thái ý thức nhưng hình như
vẫn có sự tương đồng. Xã hội nào văn học ấy. Chính phủ nào công dân ấy. Không
thể đòi hỏi công dân hạng một trong khi chính phủ chỉ có trình độ hạng ba và
ngược lại. Người của thế kỷ XXI khó có thể soạn bi kịch cổ Hy Lạp hay sáng tác
thơ văn thuộc thế kỷ XV. Mỗi thời kỳ lịch sử có lý tưởng và đặc trưng thẩm mỹ
khác nhau, do đó cách tư duy hình tượng cũng khác nhau. Nguyễn Du vĩ đại thật
nhưng ngày nay không ai sáng tác truyện thơ lục bát như “Đoạn trường tân thanh”. Nguyễn Huy
Lượng vô cùng lãng mạn, nhưng thời đại kỹ thuật số và công nghệ 4.0, không ai
viết “Tụng Tây Hồ Phú”. Trong tiến trình phát triển xã hội, mỗi thời kỳ, nội
hàm ý thức thẩm mỹ đều tương thích với một ngoại diên, chính trị, triết học;
mỗi mô hình kinh tế đều phù hợp với cấu trúc văn hóa, trong đó, bao hàm cả văn
học nghệ thuật.
Thơ lục bát, song
thất lục bát là vốn quý của dân tộc nhưng lại là sản phẩm của nền kinh tế nông
nghiệp tự cấp tự túc kéo dài hàng ngàn năm bởi cấu trúc tâm lý, đặc trưng hình
tượng, nhạc điệu và vần điệu. Có thể nói, thơ truyền thống thuộc hệ hình thẩm
mỹ của một thời đã qua, không tương thích với cách tư duy hiện đại, với nhịp
sống hối hả và diễn biến tâm lý người Việt thời công nghiệp hóa.
Hơn thế nữa, đặc
trưng cốt tử của văn chương là Sáng tạo, là Cá thể dứt khoát không bao giờ chấp
nhận văn chương Đám đông. Sáng tạo có thể là thất bại nhưng văn, thơ không sáng
tạo là... tắc tử! Có lẽ nhận thức rất rõ về nguyên tắc này mà nhà thơ Dương
Tường viết chỉ có mỗi một câu cho bài thơ của mình “Tôi đứng về phe nước mắt”.
Cho nên, khoảng hai
ba chục năm nay, các nhà thơ, trong đó có cả những nhà thơ cao tuổi, đã cố gắng
Đổi mới thơ trên cả hai bình diện Nội dung và hình thức. Họ sử dụng một Hệ hình
thẩm mỹ mới, không vần, không nhạc điệu, thậm chí không chủ đề trung tâm, loại
bỏ tất cả các Chức năng để biểu đạt tư tưởng thẩm mỹ của mình thông qua công
nghệ sắp đặt, cấu trúc từ, ngữ trong mối quan hệ phi tuyến tính, phi logique.
Tiếp nhận loại văn
bản này, trước hết, người đọc cần phải được trang bị những lý thuyết căn bản về
văn học Hậu Hiện đại, phải hiểu được thế nào là “ngoại biên”, “trung tâm”,
“giải cấu trúc”, “liên văn bản” và sự chuyển hóa những khái niệm ấy trong
trường liên tưởng. Đó là những thuật ngữ biểu đạt các khái niệm rất khác với hệ
thống lý luận về văn học Hiện thực (nhất là Hiện thực Xã hội Chủ nghĩa, vốn là
lý thuyết sáng tác chỉ tạo ra thứ văn chương đồng phục, nhằm minh họa nghị
quyết, chính sách, mà Nguyễn Minh Châu đã phải viết "Lời ai điếu...", còn Nguyễn
Khải cho đến cuối đời vẫn lọ mọ "Đi tìm cái tôi đã mất" trong tùy bút
chính trị nổi tiếng). Ở phương Tây, loại hình thơ văn như thế được các nhà lý
luận, phê bình xếp vào phương pháp Hậu hiện đại, ví dụ như Thơ Tân hình thức,
Thơ Siêu thực...
Tôi chưa muốn đề
cập đến các nhà thơ người Việt hải ngoại với nhiều tác phẩm Hậu hiện đại khá
nổi tiếng từng đăng tải và thành danh trên trang web Da màu, Tân hình thức hay
Hợp lưu mà chỉ điểm qua những tác giả đã thể nghiệm và khá thành công ở trong
nước được cộng đồng quốc tế vinh danh, thậm chí trao giải thưởng cao quý như
Mai Văn Phấn, Bùi Chát, Lý Đợi, Nguyễn Viện, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh, Liêu Thái,
Phapxa Chan, Vũ Lập Nhật... Mai Văn Phấn đã có cả chục tập thơ Hậu Hiện đại
được bạn đọc trẻ đón nhận, đồng thời được chuyển dịch sang nhiều thứ tiếng như
Anh, Pháp, Hàn Quốc mà nổi bật là “Hôm
sau”, “Và đột nhiên gió thổi”,
“Bầu trời không mái che”, “Những hạt giống của đêm và ngày”, “Buông tay cho trời rạng”, “Vừa sinh ra ở đó”, “Firmament
Without Roof Cover”. “Bầu trời
không mái che” xuất bản bằng tiếng Anh tại Hoa Kỳ.
Sự đổi mới thơ,
không chỉ với các tác giả Hậu Hiện đại, mà ngay cả các nhà thơ vốn luôn trung
thành với các thể loại truyền thống đôi khi cũng nhảy sang địa hạt Hậu Hiện đại
như một động thái thử nghiệm. Trong cuốn sách “Bản sonate hoang dã”, nhà thơ Trần Nhuận Minh có những câu đọc
lên nghe mà hoảng hồn bởi nó mang hơi hướm của một lối tư duy khác với hệ thẩm
mỹ “thế sự” của ông:
“Cặp đùi em như hai lưỡi kéo
Khép lại dịu dàng
Có thể cắt đứt đời nhiều hảo hán...”.
Còn Lò Ngân Sủn,
rít thuốc lào sòng sọc, lúc nào cũng lừ khừ như ông từ vào đền, nhưng cái kiểu
tư duy thơ ngược đời của nền văn hóa DÁY tuyệt vời sau đây, ai dám bảo ông là
không Hậu Hiện đại:
“Người đẹp trông như tuyết
chạm vào thấy nóng
Người đẹp trông như lửa
sờ vào thấy mát
Người không khát - nhìn người đẹp cũng khát
Người không đói - nhìn người đẹp cũng đói
Người muốn chết - nhìn người đẹp lại không
muốn chết nữa”...
Không ít tác giả
trẻ thuộc khuynh hướng Hậu Hiện đại những năm gần đây đã có những đóng góp đáng
kể vào việc tìm tòi, sáng tạo đổi mới thơ Việt trong tiến trình hội nhập với
cộng đồng quốc tế. Phapxa Chan và Vũ Lập Nhật là những cây bút điển hình, xứng
đáng với các giải thưởng mà Văn Việt đã trao. Trong “Thư về cố quận”, chàng trai trẻ đa tài này có những câu thơ làm
thiên hạ giật mình:
“Anh vật xuống sa trường
tên đạn là mưa
chân người là lụa
ngập ngụa máu ngoan
chảy loang tràn lúa
Anh vật xuống sa trường
nát tan nhờ vó ngựa
tàn tạ bởi rêu sương
anh bỗng khao khát
nhớ đường
về quê cũ”
Còn Vũ Lập Nhật lại
có cách thức liên tưởng như một thao tác “giải cấu trúc”, phá vỡ mọi trật tự
bất biến về một xã hội bế tắc bởi vô số nghịch lý:
“Em nhìn anh bằng ánh mắt thẫn thờ
Và em hỏi anh
Nếu đặt cả thành phố này trong một cái chảo
Đổ vào đấy những lớp màu vàng nhớp nhúa
Thứ mà người ta vẫn hay gọi là dầu ăn
Sau đó ta tung tẩy
Những con phố xô nghiêng
Những chiếc xe vỡ nát
Tất cả sôi lên
Thêm nữa những con người bị hất tung
Chỗ họ lơ lửng cách chảo chừng vài đốt ngón tay
Thứ nào sẽ khét trước?”.
*
Nói tóm lại, đọc
thơ Hậu Hiện đại rất cần một phông văn hóa mới để hiểu và giải mã những hiện
tượng như Lý Đợi, Bùi Chát, Phapxa Chan hay Vũ Lập Nhật. Đó là những cây bút
luôn trăn trở về sự tìm tòi sáng tạo đổi mới thơ Việt vì một nền văn học hiện
đại, tiến bộ nhưng không đánh mất bản sắc dân tộc.
*
ĐẶNG VĂN SINH
Địa chỉ: nhà văn, giáo viên nghỉ hưu -
An
Bình, Nam Sách, Hải Dương.
........................................................................................
-
Cập nhật từ email: huongmai8081@yahoo.com.vn ngày 09.11.2020.
-
Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại..
0 comments:
Đăng nhận xét