HUYỀN VŨ MÔN CHI BIẾN - Tác giả: Khuyết Danh

Leave a Comment

 

HUYỀN VŨ MÔN CHI BIẾN

*

I. TỪ NHÀ TÙY SANG NHÀ ĐƯỜNG

Cuối thế kỷ thứ 6, nhà Tùy nổi lên, phá bỏ cục diện Nam – Bắc triều, thống nhất Trung Hoa, Tùy Văn Đế là ông vua có tài, dần dẹp hết những nước chư hầu cát cứ. Khi đã cao tuổi, Văn Đế giao chính sự trong triều bắt đầu giao cho Thái tử Dương Dũng. Dương Dũng không có tài về chính trị, lại hoang phí xa xỉ, nên Văn Đế không hài lòng. Con thứ Dương Quảng thấy được điều ấy, ngầm lấy lòng các đị thần và Độc Cô Hoàng hậu, mẹ ruột của hai anh em. Độc Cô hoàng hậu là người thông minh, lại có gia thế hiển hách, nhưng vì là người Tiên Ti, theo mẫu hệ nên trong nhà bà này cũng không hề chịu lép trước chồng: Độc Cô Già La không những không cho Tùy Văn Đế ăn nằm với các phi tần khác mà còn khuyến khích các quan lại trong triều cũng nên làm như vậy. Nắm được cái tẩy này của bà mẹ, Dương Quảng trước mặt bà ra vẻ sủng ái vợ chính hết mực, phi tần dường như không để vào mắt (nhưng đó là ban ngày, ban đêm Quảng vẫn quất đều đều…). Thậm chí, các người thiếp mà có mang, Dương Quảng cũng bắt họ phải bỏ. Văn Đế và Hoàng hậu rất đẹp lòng.

Năm 600, Văn Đế phế ngôi thái tử của Dương Dũng, đưa Dương Quảng lên thay, cùng năm đó Độc Cô Hoàng Hậu qua đời. Dương Quảng ở trước linh cữu khóc như mưa, đếch thiết gì ăn uống, quần thần mà đặc biệt là Văn Đế đều phải giơ ngón tay lên khen: Hảo à… Thế nhưng cả vua lẫn quan đều bị lừa: Đến tối khi về đến cung Quảng đều … ăn bù. Bốn năm sau, Tùy Văn Đế ốm nặng, biết cha sắp theo mẹ, Quảng bèn ra sức tạo dựng quan hệ với các đại thần trong triều để tạo chỗ đứng sau này. Chẳng ngờ, thư đi tin lại thế quái nào lọt đến tay Tùy Văn Đế, biết thằng nghịch tử này không thể dùng được nữa, ông triệu đại thần Dương Tố vào cung Nhân Thọ, định viết chiếu chỉ sắc phong Dương Dũng làm thái tử lại như cũ. Chẳng ngờ Dương Tố đã đớp tiền của Dương Quảng từ trước, lập tức mật báo cho Quảng, ngày hôm sau, một liều thuốc mới được thêm vào đơn thuốc hàng ngày cho Tùy Văn Đế, và cụ đi mát mẻ...

Thế là Dương Quảng lên ngôi và không còn gì ngăn cản được. Bước tiếp theo, Quảng hạ lệnh thắt cổ anh trai Dương Dũng, rồi sợ Dũng xuống âm phủ buồn, Quảng tiễn luôn một cơ số anh em trong dòng tộc xuống luôn cho có bạn. Số nào còn nhỏ quá hoặc ngu quá thì Quảng nhốt vào nhà lao làm phước. Để bù lại những năm tháng kìm nén dưới thời Tùy Văn Đế, Quảng lấy luôn 2 bà phi của cha mình đem xài luôn cho đỡ phí. Rồi tổ chức yến tiệc, ăn nhậu linh đình như để trả thù những ngày đói kém vừa qua.

Tuy nhiên, nói như thế ko có nghĩa rằng Tùy Dạng Đế - Dương Quảng là một kẻ bất tài, chỉ biết hưởng thụ. Quảng cũng kể ra là một vị vua văn võ toàn tài, làm được chơi được chứ không phải chỉ biết hưởng thụ. Lên ngôi ko bao lâu, Tùy Dạng Đế ra lệnh mở rộng, kéo dài Đại Vận Hà, con kênh đào nội địa chạy xuyên suốt từ bắc xuống nam, từ đông sang tây. Chính Tùy Dạng Đế là người đã xây dựng Đại Vận Hà một cách quy mô nhất, khơi thông giao thương, vận chuyển từ bắc xuống nam Trung Hoa, Đại Vận Hà đã giúp nhà Tùy và các triều đại phong kiến sau này giải quyết được triệt để vấn đề lương thực.

Đóng góp thứ hai của Tùy Dạng Đế là biến Lạc Dương trở nên nguy nga tráng lệ, trở thành kinh đô thứ hai của nhà Tùy và nhà Đường sau này. Về võ công, Tùy Dạng đế là ông vua thích chinh chiến và dám đánh lên cả phương bắc và giành chiến thắng vang dội, buộc người Khiết Đan, người Đột Quyết phải xin hàng, các bộ lạc "số má" ở mạc bắc lúc bấy giờ như Cao Xương, Thổ Dục Hồn cũng phải mang lễ sang triều cống không dám vọng động. Về phía đông, Tùy Dạng Đế mang quân đánh nước Lưu Cầu, là một đảo ở phía nam Okinawa ngày nay và giành thắng lợi.

Ngon ăn, ngài tiếp tục mang quân đánh Cao Câu Li, tiền thân của Triều Tiên sau này. Tuy nhiên, Cao Câu Li không phải Lưu Cầu, dân Cao Câu Li kiên cường kháng cự quân Tùy. Dù có lúc huy động đến quân số kỷ lục là 1,1 triệu quân nhưng nhà Tùy vẫn không đánh nổi, ngược lại còn sa lầy nặng nề trên đất Triều Tiên. Trong 3 năm, từ 611 đến 614, quân Tùy tổ chức 4 chiến dịch tiến công lớn đều bị chận lại. Những thất bại ở Cao Câu Li cộng với chính sách phu dịch, thuế khóa nặng nề đã làm dân chúng oán ghét triều đình. Chưa kể, để tập trung binh lực đi đánh Cao Li, nhà Tùy phải rút bớt binh lính ở các nơi, hậu quả là các bộ lạc cũng bất tuân theo nhà Tùy nữa.

Năm 615, Tùy Dạng Đế đi tuần thú phương bắc thì bị Đông Đột Quyết bất ngờ đánh úp, Dạng đế bị vây trong thành Nhạn Môn suốt 1 tháng, sau phải điều lính ở Cao Li về giải vây và hứa với tướng sĩ ko đánh Cao Li nữa thì sĩ khí mới lên, Dạng đế được giải vây sn toàn và ... chuẩn bị đánh Cao Câu Li lần thứ 5.

Đến lúc này thì nhân dân, binh lính đều chịu hết thấu. Sau đó, các lộ phản quân ở miền bắc trỗi dậy, mà mạnh nhất là Đậu Kiến Đức. Đến đầu năm 617, các nơi cũng bắt đầu dựng cờ nghĩa, bao gồm:

- Đỗ Phục Uy, thủ lĩnh nông dân, chiếm giữ vùng đất tương ứng với miền nam An Huy hiện nay.

- Cao Khai Đạo, thủ lĩnh nông dân, chiếm giữ vùng đất tương ứng với miền bắc Hà Bắc.

- Lương Sư Đô, thủ lĩnh nông dân, chiếm giữ vùng đất tương ứng với vùng Nội Mông hiện nay, tự xưng là hoàng đế Lương.

- Lý Quỹ, một tướng cũ của Tùy, chiếm giữ vùng đất tương ứng với trung và tây Cam Túc, tự xưng là Lương vương.

- Lý Nguyên, một tướng cũ nhà Tùy, anh em họ với Dượng Đế, chiếm giữ vùng đất tương ứng miền trung Sơn Tây hiện nay. Tại Trường An lập Dương Hựu làm Hoàng đế bù nhìn.

- Lâm Sĩ Hoằng, thủ lĩnh nông dân, chiếm giữ vùng đất tương ứng với Quảng Tây và Quảng Đông ngày nay, tự xưng là hoàng đế Sở.

- Lưu Vũ Chu, thủ lĩnh nông dân, chiếm giữ vùng đất tương ứng với miền bắc Sơn Tây, tự xưng Khả hãn Định Dương. Dưới trướng Lưu Vũ Chu có Uất Trì Cung, một danh tướng khai quốc nhà Đường sau này.

- La Nghệ, một tướng cũ của Tùy, chiếm giữ vùng đất tương ứng với Bắc Kinh hiện nay.

- Tiêu Tiển, một tướng cũ của Tùy, cháu nội của Tây Lương Tuyên Đế, chiếm giữ vùng đất tương ứng với Hồ Bắc, Hồ Nam và Quảng Tây. tự xưng là hoàng đế Lương.

- Tiết Cử, thủ lĩnh nông dân, chiếm giữ vùng đất tương ứng với miền đông Cam Túc và tây Thiểm Tây, tự xưng là Tây Tần Bá vương rồi hoàng đế Tần.

- Chu Xán, một tướng cũ của Tùy, chiếm giữ vùng đất tương ứng với miền nam Hà Nam và đông nam Thiểm Tây, ban đầu xưng là Già Hầu La vương, sau xưng là hoàng đế Sở.

- Lý Mật, tướng cũ của Dương Huyền Cảm, Cảm lại là con trai Dương Tố, người có công lớn trong việc đưa Dương Quảng - Tùy Dạng đế lên ngôi năm xưa. Sau khi Tố chết, Tùy Dạng đế ko trọng dụng Dương Huyền Cảm nên Cảm tức giận, làm phản. Nhưng sau đó Cảm thất bại, thuộc tướng là Lý Mật đem tàn binh chạy về núi Ngõa Cương lập trại, chiêu mộ binh sĩ chống triều đình. Bộ hạ Lý Mật có ba kẻ sau này lừng danh thiên hạ đó là: Trình Giảo Kim, Tần Quỳnh và Từ Thế Tích, sau này được mang họ Lý là Lý Thế Tích lừng danh.

Mùa xuân năm 617, Lý Mật, Trạch Nhượng chiếm được các kho lương gần Lạc Dương, Lạc Khẩu và Hoài Lư, do đó quân đội của họ được no đủ trong khi quân Tùy ở Lạc Dương thường bị đói khát. Lý Mật tiếm tước Ngụy công, sau đó giết Trạch Nhượng. Người ta cho rằng Lý Mật sẽ sớm trở thành hoàng đế. Dạng Đế sai Vương Thế Sung đến trấn thủ Lạc Dương, bước đầu ngăn cản được quân Lý Mật. Dạng đế lại sai Đường công Lý Uyên mang quân hỗ trợ. Mùa đông năm đó, Lý Uyên ở Thái Nguyên chiếm được Trường An, lập Dương Hựu làm Hoàng đế, tức Tùy Cung Đế, tôn Dạng Đế, lúc đó đang ở Giang Đô, làm Thái thượng hoàng. Toàn bộ miền bắc Trung Quốc khi đó không còn nằm trong sự kiểm soát của Tùy Dạng Đế nữa.

Tùy Dạng Đế trốn lỳ ở Giang Đô và vẫn ăn chơi sa đọa, việc chính sự ủy thác hết cho đại thần người Tiên Ti là Vũ Văn Thuật. Đến tháng 10 năm 616, Vũ Văn Thuật bị bệnh nặng. Trước kia hai con của Thuật là Vũ Văn Hóa Cập và Vũ Văn Trí Cập phạm tội, bị giam vào ngục, đến đây Thuật xin Dượng Đế tha cho họ. Sau khi Thuật chết, Dượng Đế xá tội cho anh em Hóa Cập và cho nối tước Hứa công, lại phong làm Hữu tuân vệ tướng quân.

Sang năm 618, lương thực ở Giang Đô cạn kiệt nhưng Dạng đế và Tiêu Hoàng Hậu vẫn ăn chơi xa xỉ, thậm chí người ta đồn rằng Tùy Dạng Đế linh cảm được mình sẽ bị giết nên thà làm quỷ phong lưu, lại càng ăn chơi tợn. Tháng 3 năm 618, đội ngự lâm quân của Tùy Dạng Đế, Kiêu Quả quân liên kết với Vũ Văn Hóa Cập kéo đến bao vây cung điện. Canh ba ngày 10 tháng 4 năm 618, Tư Mã Đức Kham phóng lửa, quân nổi loạn ồ ạt xông vào nắm giữ cung điện vào ngày hôm sau, tức 11 tháng 4. Tùy Dượng Đế nghe tin có biến loạn, muốn chạy sang Tây Các, bị Bùi Kiền Thông và Dương Nguyên Lễ tóm được. Vũ Văn Hóa Cập tự xưng Thừa tướng, vào phủ đường, kể tội Dạng Đế "bỏ bê tôn miếu, tuần du liên miên, bên ngoài loạn lạc, bên trong dâm loạn, sử đinh chết vì binh đao, đàn bà bị làm nhục, bốn phương ly tán, đạo tặc khắp nơi, chỉ nghe nịnh thần, bỏ bê trung lương". Người con trai út của Dạng Đế là Triệu vương Dương Cảo, năm đó 12 tuổi, được ông yêu thương, Hóa Cập bèn sai giết trước để chứng tỏ rằng bọn tạo phản không nói đùa. Sau đó lại định hạ sát Dạng Đế, Dạng Đế cho rằng thiên tử thì không thể chết trong binh đao, muốn dùng thuốc độc tự tử. Nguyên là trước kia ông từng đoán biết có ngày này, nên luôn chuẩn bị độc dược trao cho cung nhân. Lúc đó cung nhân bỏ chạy hết, không tìm được thuốc độc. Nên Dạng Đế cởi chiếc khăn quàng cổ ra, và Lệnh Hồ Hành Đạt dùng nó siết cổ Dạng Đế. Năm đó, Tùy Dạng Đế được 49 tuổi, ở ngôi 14 năm.

Không lâu sau ở Trường An, Lý Uyên ép Dương Hựu nhường ngôi, lập ra nhà Đường. Năm 619, Vương Thế Sung giết Dương Đồng - một tôn thất khác của nhà Tùy rồi xưng Trịnh Vương ở Lạc Dương. Noi gương bạn bè, Vũ Văn Hóa Cập cũng sát hại Dương Hạo, con trai Tùy Dạng đế để chiếm ngôi vua. Ở Hà Bắc, Đậu Kiến Đức cũng xưng Hạ Vương, nhà Tùy bị diệt vong kể từ đó. Sau đó, các thế lực phản vương giao tranh với nhau thêm vài năm, cuối cùng thống nhất về tay nhà Đường.

 

II. SỰ BIẾN HUYỀN VŨ MÔN

Đường Vương, sau này là Đường Cao Tổ Lý Uyên xuất thân là một võ tướng của nhà Tùy, được gío trấn thủ Thái Nguyên, phía bắc Trung Quốc. Lý Uyên có 4 người con trai là:

- Lý Kiến Thành

- Lý Thế Dân

- Lý Nguyên Bá

- Lý Nguyên Cát

Lý Thế Dân trong sự nghiệp kiến lập nhà Đường và thống nhất đất nước đã tham gia nhiều trận đánh quan trọng và lập nhiều chiến công lẫy lừng trên chiến trường, đồng thời chiêu mộ được nhiều người tài về dưới trướng mình. Những người này đều cho rằng Lý Thế Dân có công lao lớn với triều Đường nên xứng đáng ở vào ngôi vị cao hơn, ra sức khuyến khích Lý Thế Dân tranh ngôi thái tử. Tuy nhiên theo lệ cũ thì thái tử không nhất thiết phải đích thân lãnh binh, lập nhiều công trạng; làm thái tử quan trọng nhất là danh chính ngôn thuận và có năng lực chính trị tốt. Lý Kiến Thành là con trưởng nên được chọn làm thái tử từ đầu, được Đường Cao Tổ chuyên tâm bồi dưỡng đạo trị quốc trong khi Lý Thế Dân còn đang nam chinh bắc chiến, có đóng góp không nhỏ trong việc xử lý chính sự, định ra luật pháp, chiêu an dân chúng, khuyến khích sản xuất, đảm bảo cung cấp đầy đủ binh lương cho chiến trường và cũng chưa có sai phạm gì lớn. Đường Cao Tổ cảm kích công lao của Lý Thế Dân, phong Lý Thế Dân làm Thiên Sách Thượng tướng, ban cho nhiều đặc quyền, nhưng trước sau chưa từng tỏ ý muốn thay thái tử. Mâu thuẫn bùng nổ từ đây: Lý Thế Dân ra sức chiêu mộ người tài, xây dựng thế lực riêng, còn Lý Kiến Thành cũng cảm thấy Lý Thế Dân có ý đe dọa đến ngôi thái tử của mình nên tìm mọi cách tranh thủ sự ủng hộ của người em thứ ba là Lý Nguyên Cát cùng với một số phi tần và đại thần của Đường Cao Tổ, ý đồ hạ thấp uy tín, tước dần quyền lực và tiến tới làm suy yếu hoàn toàn vây cánh của Lý Thế Dân, khiến Lý Thế Dân không còn đủ thực lực đe dọa ngôi vị của mình nữa.

Thật ra Kiến Thành không phải không giỏi mà là chưa có cơ hội để chứng tỏ bản thân. Năm 622, Lý Kiến Thành vâng mệnh mang quân đi dẹp phản loạn Lưu Hắc Thát, kẻ đã gây ra bao nhiêu khó khăn cho nhà Đường ở phía bắc. Kiến Thành được người em Nguyên Cát tích cực trợ giúp nên chiến thắng, xách được đầu Lưu Hắc Thát về. Như vậy, thái tử Kiến Thành thoát được cái dớp ko biết đánh trận. Hai năm sau, năm 624, Đường Cao Tổ phát hiện thái tử tự ý gia tăng số binh sĩ dưới quyền, tức giận, ông hạ ngục tống giam, các bộ hạ định đánh tháo cho thái tử thì bị phát hiện, chúng nổi loạn và chạy ra ngoài, Lý Uyên sai Lý Thế Dân đi dẹp và hứa khi thắng lợi trở về sẽ cho Thế Dân thay chức thái tử. Nhưng về sau, Lý Uyên lại ... ba phải, nghe theo các phi tần và Tề Vương Nguyên Cát thả thái tử ra và ... dùng đạo lý để giảng hòa hai anh em.

Thấy ông bô ngày càng ba phải và lú lẫn, trong khi thằng anh cả và thằng em trai như hùm như beo, lại có cả bộ sậu hoành tráng, Lý Thế Dân tính đường xin ra ngoài để cho yên thân và phát triển thế lực riêng. Nhưng nước đi này bị quân sư của thái tử là Ngụy Trưng đọc vị được nên Lý Uyên lại ngăn cản ko cho đi. Sau đó, thái tử ngầm cho người đi liên hệ với Lý Tĩnh và Lý Thế Tích, hai vị đại tướng hàng đầu của Đường triều hòng tìm kiếm sự ủng hộ, nhưng Lý Tĩnh trước vốn bị Lý Uyên lột lon một lần nên từ chối hợp tác. Lý Thế Tích cùng xông pha chiến đấu nhiều năm với Lý Thế Dân nên ông này cũng lắc. Tình thế buộc thái tử phải tính đến chuyện ám toán Lý Thế Dân vì không thể tìm được sự đồng thuận của đại đa số trọng thần.

Giữa lúc đi không được, ở chẳng xong thì Lý Thế Dân bất ngờ trúng độc tại một buổi tiệc do Lý Kiến Thành tổ chức, nhưng may mắn không chết. Những năm 625 - 626, cảm thấy sự tranh đoạt ngôi vị giữa các con sẽ gây ảnh hưởng xấu cho triều Đường mới thành lập, Đường Cao Tổ dần dần tỏ ý muốn cắt giảm quyền lực của Lý Thế Dân, củng cố ngôi vị Thái tử. Lão Uyên già chủ động điều đi xa hoặc là xử tội chết những văn thần võ tướng trong phủ Tần Vương: Trình Giảo Kim bị điều ra ngoài làm thứ sử, Phòng Huyền Linh và Đỗ Như Hối bị điều ra khỏi phủ Tần Vương, còn Uất Trì Kính Đức suýt nữa bị Lý Uyên xử tội chết. Cùng năm đó Đột Quyết xâm lấn, Đường Cao Tổ cũng không cử Lý Thế Dân đi đánh dẹp như thường lệ mà giao việc này cho Lý Nguyên Cát. Lý Thế Dân không rõ ý cha mình thế nào bèn về nhà họp thuộc hạ. Phòng Huyền Linh, mưu sĩ hàng đầu đập bàn quát lớn:

- Còn tính mới toán gì nữa? Tề vương mà thắng trận trở về là chúng ta mất thủ cấp cả lũ.

Trưởng Tôn Vô Kỵ, anh vợ Lý Thế Dân, cũng là một bộ óc chiến lược tài ba lập tức tiếp lời:

- Hai anh em nhà ông bây giờ oán đã kết sâu nặng, không giải quyết ổn thỏa, đừng nói là phủ Tần Vương này, cả Đại Đường cũng chưa chắc giữ nổi.

Cuối cùng Vô Kỵ chốt hạ:

- Tiên hạ thủ vi cường, hậu hạ thủ tai ương. Vô độc bất trượng phu.

Theo mưu kế của thuộc hạ, khi Lý Nguyên Cát trở về, mới ngày hôm trước thì sang hôm sau Lý Thế Dân dâng tấu tố cáo Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát tư thông với 2 phi tần của Lý Uyên ở hậu cung. Đường Cao Tổ hoài nghi, cho triệu cả ba vào cung tra xét thực hư. Lý Thế Dân được tin lập tức sai Trưởng Tôn Vô Kỵ hành động: Sai bọn Uất Trì Kính Đức, Hầu Quân Tập, Trương Công Cẩn, Lưu Sư Lập, Công Tôn Vũ Đạt, Độc Cô Ngạn Vân, Đỗ Quân Xước, Trịnh Nhân Thái và Lý Mạnh Thường mang binh mã phục kích tại cửa Huyền Vũ. Đợi lúc Kiến Thành và Nguyên Cát đi vào liền đóng sập cổng, chận đường, rồi đổ ra giết chết cả hai. Lý Kiến Thành bị Thế Dân bắn chết, Lý Nguyên Cát bị Uất Trì Kính Đức đập chết. Lúc này, Phùng Dực, Phùng Lập là thuộc hạ của Thái tử và các tướng lĩnh trong phủ Tề Vương như Tiết Vạn Triệt nghe tin có biến vội dẫn hàng ngàn binh mã tấn công Huyền Vũ môn nhưng chưa phá được thì Uất Trì Kính Đức đã chặt thủ cấp của Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát giơ cao lên và quát:

- Chúng mài tìm đầu lâu hai thằng này hở?

Thấy Thái tử, Tề Vương đều đã chết, đạo binh mã này không đánh tự tan. Lý Uyên còn đang ngồi trong cung chờ ba đứa con trai thì nghe có tin báo ở bên ngoài đang xảy ra hỗn loạn. Đương lúc chưa biết sự thể ra sao thì Uất Trì Cung tay lăm lăm xà mâu dẫn theo một toán binh lính xông vào, chắp tay bẩm báo, nói rằng, Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát âm mưu làm phản đã bị Tần vương giết cả rồi, “Tần vương sợ loạn quân sẽ làm kinh động đến Hoàng thượng nên sai thần tới hộ giá”. Uất Trì Cung còn truyền đạt “thỉnh cầu” của Tần vương Lý Thế Dân muốn Lý Uyên hạ lệnh cho bọn lính bảo vệ cung Thái tử và phủ Tề vương không được kháng cự.

Sửng sốt trước sự biến, nhưng trước việc đã rồi, Uyên không thể trị tội Thế Dân vì bản thân Thế Dân là người có công chinh chiến đánh dẹp để dựng lên cơ nghiệp Nhà Đường, có nhiều uy tín với trăm quan và có vây cánh mạnh. Và cuối cùng, quan trọng nhất là thằng Uất Trì Cung nó đang lăm lăm ngọn thương hướng về mềnh. Lý Uyên đành phải thuận theo sự sắp đặt của Lý Thế Dân, hạ lệnh cho lính bảo vệ của Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát phải hạ vũ khí, không được kháng cự.

Ngay ngày hôm sau, tức ngày 5/9, Lý Uyên ban chiếu chỉ lập Lý Thế Dân làm Thái tử. Hai tháng sau đó, Lý Uyên tuyên bố truyền ngôi lại cho Lý Thế Dân, còn mình thì làm Thái thượng hoàng, sống an nhàn tới cuối đời. Đây là cuộc chiến huynh đệ tương tàn đẫm máu mà sử sách Trung Quốc vẫn gọi là “Sự biến Huyền vũ môn”.

Sau khi giết Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát ngay tại cửa Huyền vũ, bức ép cha là Lý Uyên phải lập mình làm Thái tử, để trừ hậu họa về sau, Lý Thế Dân dựa vào tội làm phản của Thành và Cát, giết sạch những người có liên quan. Toàn bộ gia đình Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát cũng như những người dính líu đến sự việc “mưu phản” đều bị Lý Thế Dân xử tội chết trong đó có năm người con trai của Lý Kiến Thành và 2 người con trai của Lý Nguyên Cát. Năm 626, ngày 4 tháng 9, Lý Thế Dân lên ngôi, tức là hoàng đế Đường Thái Tông, đặt niên hiệu là Trinh Quán (貞觀), mở đầu cho thời kỳ Trinh Quán chi trị (貞觀之治) thịnh vượng cho triều đại Nhà Đường. (Lý Nguyên Bá - con trai thứ 3 của Lý Uyên, năm 16 tuổi té ngựa gãy cổ chết, không con cái).

*

TÁC GIẢ (đang cập nhật)

Địa chỉ: (đang cập nhật)

Email: (đang cập nhật)

Điện thoại: (đang cập nhật)

 

 

 

 

 

- TRẦN CHÍ CƯỜNG giới thiệu -

- Cập nhật từ email: tranchicuong27@yahoo.com.vn ngày 11.10.2020.

- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.

.

0 comments:

Đăng nhận xét