VUA CHÚA VIỆT NAM CHỐNG THAM NHŨNG - Tác giả: Trần Đình Ba ; Đặng Xuân Xuyến giới thiệu

Leave a Comment

 


VUA CHÚA VIỆT NAM

CHỐNG THAM NHŨNG

 

Đặng Xuân Xuyến giới thiệu

 

Nạn tham nhũng ở nước Việt được ghi chép từ thời Hùng vương

Nạn tham ô, nhũng lạm gần như hiện diện trong tất cả các triều đại, như một "nội nạn". Tuy nhiên, do vấn đề tư liệu, nên mức độ đề cập của sử sách đến vấn nạn này nhiều hay ít tuỳ vào từng triều đại.

Thời nào cũng có

Nạn tham ô, nhũng lạm, hay tham nhũng là “quốc nạn”, “nội nạn” của bất kỳ một triều đại, một thiết chế chính trị nào. “Quốc nạn” này, còn gọi là nạn sâu dân, mọt nước đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến sự thịnh suy của triều đại mà nó can dự. Đồng thời, vấn nạn tham nhũng phản ánh sự thịnh đạt hoặc suy thoái của triều đại nào đó trong từng thời điểm lịch sử, cũng như hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước, tính răn đe của pháp luật ở từng thời điểm lịch sử cụ thể.

Xét trong lịch sử dân tộc ta, các triều đại Lý, Trần, Hồ, Lê sơ… hầu như triều đại nào cũng có nạn sâu dân, mọt nước. Vấn đề là, nạn tham nhũng có sự hiện diện ở mức độ khác nhau làm suy yếu tiềm lực của quốc gia, dân tộc, xuống cấp đạo đức xã hội, thể chế chính trị cũng theo đó bị gãy đổ nền móng… Cũng bởi mối nguy hại ấy mà bất kỳ thể chế, triều đại nào cũng đều muốn bài trừ, tận diệt loại giặc nội xâm cực kỳ nguy hiểm này.

Vậy, người xưa nhìn nhận về tham nhũng như thế nào? Tham nhũng là gì? Theo quan điểm của người xưa, thì “tham nhũng” được hiểu là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn đã có để nhũng nhiễu, hạch sách tiền của của nhân dân, tham ô, bòn rút của công nhà nước (“biếm công vi tư”). Những hành động ấy nhằm mục đích làm giàu cho cá nhân, vun vén lợi ích cho bản thân một cách không chính đáng.

Khi tìm hiểu qua những chiếu chỉ của vua, những tấu sớ của quan lại, những vụ tham nhũng cụ thể thời xưa, cùng với những điển chế, luật pháp có liên quan, chúng ta thấy tham nhũng diễn ra chủ yếu ở đối tượng là những người có quyền hành, mà thường là những người “quyền cao chức trọng”. Thế nên Bãng nhan Lê Quý Đôn trong phần “Châm cảnh” (Khuyên răn) của Kiến văn tiểu lục mới có câu rằng : “giữ chức cao thì việc đầu tiên là ăn của đút”. Những trường hợp cụ thể trong sử cũ có thể minh chứng như việc tham ô của Hành khiển Đỗ Tử Bình, An phủ sứ Hồ Tông Thốc… đời Trần, Thái phó Lê Văn Linh, Quốc lão Nguyễn Xí… đời Lê sơ là những người lợi dụng chức tước, vị thế mình có trong quan trường, trong xã hội để thực hiện hành vi làm giàu bất chính thông qua việc ăn hối lộ, mua quan bán tước, tham ô tài sản nhà nước. Hành vi tham ô, nhũng lạm của họ còn được thể hiện ở cả việc tư lợi về thời gian của kẻ dưới quyền để phục vụ lợi ích của mình, hoặc dùng nhân lực công của Nhà nước để làm lợi riêng…

Ta có thể điểm xét qua tác phẩm Từ thụ yếu quy của Đặng Huy Trứ (1825 - 1874) thời Nguyễn, với cái nhìn của một vị quan thuộc ý thức hệ phong kiến, chúng ta ghi nhận được cái nhìn của người xưa về nạn tham nhũng có một phạm vi bao quát lớn. Theo đó có 104 điều hối lộ không thể nhận (từ), nếu nhận sẽ trở thành kẻ tham nhũng. Có 5 trường hợp có thể nhận (thụ) mà không sợ là tham nhũng. Những điều nhận và không nhận này là đa phần dành cho kẻ làm quan, là những người đại diện cho Nhà nước, cho vua để cai trị dân. Họ đều là những kẻ nằm trong bộ máy công quyền cả.

Tổng quan tham nhũng thời Bắc thuộc

Là “nội nạn” của hầu hết vương triều, chế độ nào, nên hiện trạng tham ô, nhũng lạm gần như đều hiện diện trong các triều đại. Tuy nhiên, do vấn đề tư liệu, nên mức độ đề cập của sử sách đến vấn nạn này nhiều hay ít tuỳ vào từng triều đại.

Ở thời dựng nước đầu tiên, tức thời Văn Lang – Âu Lạc, hay còn gọi là văn minh sông Hồng, theo ghi nhận của Đại Việt sử ký toàn thư, và xa hơn nữa là cuốn sử được xem xưa nhất còn giữ lại được đến nay là Việt sử lược, ta không ghi nhận trường hợp tham nhũng cũng như ý kiến, quan điểm nào về tham nhũng, hối lộ của thời này (thế kỷ VII TCN - II TCN). Bởi, như ghi chép về thời Hùng Vương dựng nước, Việt giám thông khảo tổng luận có đánh giá là: “chăm ban đức huệ để vỗ yên dân, chuyên nghề làm ruộng, chăn tằm, không lo can qua chinh chiến”… “buộc nút dây mà làm chính sự, dân không gian dối, có thể thấy được phong tục thuần hậu quê mùa vậy”.

Sau khi nước Âu Lạc của An Dương Vương bị rơi vào tay Triệu Đà năm Nhâm Tuất (179 TCN), dân tộc ta đã trải qua thời gian hơn 1.000 năm phong kiến Trung Hoa đô hộ. Với mưu đồ thống trị, đồng hóa, các quan lại phương Bắc đã dùng quyền uy của kẻ cai trị để vơ vét của cải tư lợi cho bản thân. Theo ghi chép của sử cũ, hành vi tham ô của quan lại cai trị phương Bắc nhiều trường hợp được thực hiện lộ liễu tới mức độ cao hơn nữa là cướp bóc, chiếm đoạt, như Việt sử thông lãm có ghi:

Trên tham nhũng dưới càng tham nhũng,

Lớn gian tà, bé cũng gian tà.

Thầy buông tớ chẳng đành tha,

Quan trên thít một, sai nha thặng mười.

Thời Bắc thuộc, hành động tham nhũng được ghi nhận với đối tượng chủ đạo tham ô, nhũng lạm vơ vét tiền tài, vật lực của dân ta không ai khác, chính là những tên quan đô hộ đứng đầu nước ta cùng những kẻ dưới quyền.

Về những nguyên nhân cơ bản dẫn đến nạn tham nhũng của những quan cai trị phương Bắc đối với dân Việt, đó là từ chức vụ cao của họ, lại ở cách xa chính quyền trung ương nên quyền hành lớn, cùng với đó là sự dồi dào tài nguyên của nước Việt, mà Đại Việt sử ký toàn thư đã dẫn chứng: “Trước đây những người làm Thứ sử thấy đất châu có các thứ ngọc trai, lông trả, tê, voi, đồi mồi, hương lạ, gỗ tốt, nhiều người không liêm khiết, vơ vét của cải cho đầy, rồi lại xin đổi đi”. Về việc này, nhà sử học Lê Văn Hưu đã nhận xét: “Xem sử đến thời nước Việt ta không có vua, bị bọn thứ sử người Bắc tham tàn làm khổ, Bắc Kinh đường xa, không biết kêu vào đâu”. Ngay đến cả Thứ sử Giao Châu là Chu Thặng khi đến nước ta nhận chức, theo An Nam chí lược cho biết, khi nhìn thấy thực trạng này, đã phải viết thư về Trung Hoa với đại ý là đất Giao Châu là nơi xa xôi, tập tục phổ biến có sự tham ô, bọn cường hào, trưởng sử thì bạo ngược, hà hiếp bóc lột muôn dân.

 

Các quan thái thú tham nhũng hút máu người dân Việt

Đời sau khi tìm hiểu về thời Bắc thuộc, đã phải than oán rằng: Quan lại Ngô cũng bầy lang sói/Cũng tham ô, cũng thói dâm tàn".

Kéo dài hơn 1.000 năm, thời Bắc thuộc là một thời kỳ nhân dân ta liên tục nổi dậy đấu tranh giành độc lập dân tộc, phản kháng lại mọi sự áp chế, bóc lột, thống trị của ngoại bang. Còn kẻ cai trị, thì dùng trăm phương nghìn kế không chỉ để đồng hóa dân Việt, không chỉ để nhập bản đồ nước Nam vào bản đồ phương Bắc, mà còn làm sao vơ vét cho đầy túi tham nhân tài, vật lực của dân ta.

Tham nhũng thời thuộc Hán

Ở đây chỉ cả thời Tây Hán (202 tr.CN – 9 s.CN) và Đông Hán (23 - 220). Thời Tây Hán chia nước ta làm châu, quận, đặt quan Thứ sử, Thái thú trấn trị. Chúng tham ô, nhũng lạm dân ta không kể xiết nên thời Hán Vũ đế (141 - 87 TCN) đã phải đặt ra 6 điều trong chiếu thư để kiểm soát hành vi tham nhũng của Thứ sử. Việt sử cương mục tiết yếu cho hay, 6 điều đó là: “1. Cường tộc, hào hữu, ruộng đất vượt quy chế; 2. Quan thái thú không biết vâng theo chiếu thư, vơ vét gian trá; 3. Quan thái thú không tra án ngờ, giết hại người; 4. Quan thái thú chọn lựa, tiến cử người không công bằng, chỉ lấy người mình ưa thích; 5. Con em quan thái thú cậy thế vênh vang, xin xỏ, thỉnh thác; 6. Quan thái thú vào hùa với bọn cường hào, thông đồng biếu xén đút lót”.

Thời Đông Hán, sử ghi nhận đầu tiên là trường hợp Thái thú Giao Chỉ Tô Định khi cai trị dân Việt thì “tính tham lam mà hung dữ” (Trích An Nam chí lược), “Hiếp dân lấy của đem binh hại người” (Trích Thiên Nam ngữ lục). Từ đó góp phần mà khởi phát nên cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng năm Canh Tý (40). Ngoài trường hợp trên, nhiều viên quan đô hộ phương Bắc cũng bị lên án về sự tham ô, nhũng nhiễu. Theo ghi nhận của Việt Nam sử lược, trong thời Đông Hán “những quan lại sang cai trị Giao Chỉ thường có lắm người tàn ác, tham nhũng, bắt dân lên rừng xuống bể để tìm những châu báu”.

Ở đời vua Hán Hiển Tông (57 - 75), Lê Tắc trong An Nam chí lược cho hay, có Trương Khôi “làm Thái thú Giao Chỉ, vì ăn hối lộ bị tội, của bị tịch thu vào kho”. Không chỉ quan viên lớn của châu, quận tham nhũng, mà những người đứng đầu các địa phương như huyện lệnh cũng “vét đầy túi tham”. Hậu Hán thư có cho hay: “Trước kia, huyện lệnh Cư Phong là người tham lam, tàn bạo, không biết thế nào là chán. Người trong huyện là bọn Chu Đạt họp nhau với dân Man đánh giết huyện lệnh”. Năm Canh Tý (160), nhà Hán phải sai Hạ Phương làm Thứ sử mới yên được.
Thời Hán Hiến đế năm Kiến An thứ năm (200), Chu Phù được cử làm Thứ sử nhưng lại “phần nhiều cho người làng như bọn Ngu Bao, Lưu Ngạn chia nhau làm trưởng lại, vơ vét của dân, một con cá vàng thu thóc một hộc. Trăm học oán ghét làm phản, kéo đi đánh phá châu quận” (Trích Toàn thư). Sau hắn phải trốn chạy vì bị dân đánh đuổi.

Tham nhũng thời thuộc Ngô, Lương, Tùy, Đường

Thời Tam quốc (220 - 280), nhà Đông Ngô cai trị dân ta, hàng ngũ quan lại cai trị cũng một bọn tham lam tàn bạo như Việt Nam sử lược ghi: “những quan lại nhà Ngô thì thường là người tham tàn, vơ vét của dân”, đến nỗi đời sau khi tìm hiểu về thời Bắc thuộc, đã phải than oán rằng:

Quan lại Ngô cũng bầy lang sói,

Cũng tham ô, cũng thói dâm tàn.

Trường hợp Tôn Tư làm Thái thú Giao Chỉ của Đông Ngô là một dẫn chứng, hắn vì “tham bạo, làm hại dân chúng”, tự tiện bắt dân phải cống nộp nặng nề, lại bắt hàng nghìn thợ thủ công giỏi tay nghề sang Kiến Nghiệp (tức Nam Kinh) của nhà Ngô đến nỗi năm Quý Mùi (263) dân oán giận nổi dậy mà giết đi.

Thời nhà Tống cai trị, có Hoàn Hoằng làm Thứ sử Giao Châu mà tiền của kể đến hàng vạn. Sang thời nhà Lương, cái tệ đục khoét vẫn tiếp diễn:

Quan lại Lương cũng dòng khu khoét,

Cũng túi tham vơ vét cho đầy.

Chẳng từ áo rách khố dây,

Moi xương móc tuỷ đọa đầy Giao dân.

Theo Việt sử yếu, thời Lương có Thứ sử Tiêu Tư là người tham lam, bạo ngược vô cùng, làm cho “dân ta lao khổ lầm than lâu ngày” (Trích Việt sử diễn nghĩa), đến nỗi một lực lượng lớn nhân dân do Lý Bí cầm đầu nổi dậy khởi nghĩa chống lại, còn Tiêu Tư phải đem vàng bạc đút lót rồi chạy về châu Quảng.

Sang thời nhà Tùy đời vua Tùy Dạng đế (605 - 616), Khâu Hòa làm Thái thú Giao Chỉ như miêu tả của Toàn thư: “cậy uy thế nhà Tùy, thường đi tuần các khe động ở biên giới, ở châu hơn 60 năm, Lâm Ấp và các nước tặng cho Hòa những ngọc minh châu, sừng tê văn và vàng bạc của báu, cho nên Hòa giàu như vương giả”.

Thời nhà Đường cai trị nước ta, nhà sử học Trần Trọng Kim đánh giá là “Từ khi nước ta thuộc về nước Tàu, chỉ có nhà Đường cai trị là nghiệt hơn cả”. Bởi thế chăng mà sử ghi lại có nhiều trường hợp tham nhũng nhất ở triều đại này đối với dân Việt ta. Trong đó có Lý Thọ khi làm Đô đốc Giao Châu, vì tham ô mà bị xử tội năm Mậu Tý (628). Lại lúc Khúc Lãm làm đô hộ ở đời Đường Trung Tông (705 - 710) vì tham lam, bạo ngược mất lòng dân mà bị giết.

Khi Cao Chính Bình làm Đô hộ, đánh thuế rất nặng, làm cho dân ta rơi vào cảnh lầm than khổ cực, từ đó mà dẫn tới khởi nghĩa Phùng Hưng đến nỗi Cao Chính Bình lo sợ mà phát bệnh chết trong thành Tống Bình năm Tân Mùi (791). Tiếp đó là Lý Tượng Cổ làm An Nam Đô hộ, bị Toàn thư phê là: “tham bạo hà khắc mất lòng dân chúng”, bị Dương Thanh khởi binh giết chết năm Kỷ Hợi (819).

Về cuối đời nhà Đường, quan lại phương Bắc phần nhiều chỉ vì tư lợi bản thân mà ức hiếp nhân dân, chẳng hạn có quan Đô hộ Lý Trác đời vua Đường Tuyên Tông (847 - 859) bị Đại Việt sử ký tiền biên phê phán là “hà khắc tham lam tự tư tự lợi, cưỡng mua của người Man một con bò chỉ trả cho họ một đấu muối, lại giết tù trưởng Man là Đỗ Tồn Thành”, đến nỗi người Mường, người Mán không chịu nổi liên kết với người Nam Chiếu đánh vào An Nam phủ. Thời Thôi Lập Tín làm An Nam Đô hộ, con rể hắn làm quyền nhiếp chức Thứ sử Hoan Châu, được biết đến là kẻ tham lam quá độ.

Suốt thời Bắc thuộc, ghi nhận nhiều trường hợp quan cai trị phương Bắc, nhất là thời nhà Đường đã tham nhũng, vơ vét của cải, là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các cuộc nổi dậy, hoặc khởi nghĩa của nhân dân ta do Hai Bà Trưng, Lý Bí, Dương Thanh, Phùng Hưng… lãnh đạo. Như nhận định của Lê Tắc: “Đương thời ấy ở đất Giao Châu có nhiều của báu, các quan Thứ sử bổ tới, lớp trước cũng như lớp sau, không ai giữ được nết trong sạch, nên lại thuộc và nhân dân đều oán mà làm phản”. Tất nhiên, nhiều cuộc khởi nghĩa có mục đích chính trị rõ ràng chứ không chỉ mang tính địa phương từ nguyên nhân trực tiếp là bọn tham quan ô lại. Điều này, trong Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, GS Trần Văn Giàu cũng nhận xét về các cuộc khởi nghĩa thời Bắc thuộc, ngoài tính chất dân tộc với mục đích lớn nhất là đánh đổ bọn thống trị giành lại độc lập, thì nguyên cớ trực tiếp để khởi nghĩa là chống tham quan ô lại, chống thuế nặng sưu cao từ chính bọn đại diện cho chính quyền đô hộ đang tâm cướp bóc, chiếm đoạt của dân lành.

 

Nhà Lý oai hùng thắng Tống nhưng lại chịu thua trước 'sâu mọt'

Nhà Hậu Lý (1009 - 1225) bước lên vũ đài chính trị, ghi tên mình vào sử nước kế tiếp nhà Tiền Lê, hiện tình tham nhũng đã được ghi nhận trong một số đời vua Lý. Và mức độ ảnh hưởng của nạn sâu dân mọt nước là to lớn khi ảnh hưởng tới cả sự suy vi của triều đại đất Cổ Pháp vào cuối thời Lý.

Bước qua đêm dài Bắc thuộc, thế kỷ X tính ra, là thế kỷ mà các triều đại nối tiếp nhau ra sức củng cố nền độc lập, nhất thống mới giành được. Điểm mặt tham nhũng thời này, sử liệu không cho ta được bằng chứng gì cho sự hiện diện của nạn sâu dân, mọt nước.

Điểm này, xuất phát từ những thực tế lịch sử của hiện tình bấy giờ. Bởi buổi ấy nào nhà Ngô (938 - 965), tiếp nhà Đinh (968 - 980), lại nối nhà Tiền Lê (981 - 1009), các triều đại này ta thấy có thời gian tồn tại không được dài. Nhà Ngô trải 3 vua, mới lập nền tự chủ, nhà Đinh thì dẹp loạn 12 sứ quân đang lo ổn định quốc gia, nhà Tiền Lê thì lo cho sự an nguy quốc gia từ mối đe dọa nơi phương Bắc của nhà Tống, thế nên việc củng cố nền độc lập, củng cố chính quyền trung ương là mối quan tâm hàng đầu lúc bấy giờ.

Ta lại thấy như thời nhà Đinh trị nước, vua Đinh Tiên Hoàng khi trị dân thì theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho hay, đã “đặt vạc dầu lớn ở sân, nuôi hổ dữ ở cũi, hạ lệnh rằng: “Hễ kẻ nào vi phạm thì bắt bỏ vào nấu trong vạc, hay cho hổ ăn thịt”. Ai nấy sợ hãi, không dám phạm pháp”. Biện pháp cứng rắn này đã góp phần làm cho tính răn đe, áp chế các trọng tội có tác dụng lớn, mà Việt sử diễn nghĩa có ghi là:

Trị thiên hạ, muốn lấy oai,

Nuôi hùm, bày vạc răn loài tội nhân.

Nhà Hậu Lý (1009 - 1225) bước lên vũ đài chính trị, ghi tên mình vào sử nước kế tiếp nhà Tiền Lê, hiện tình tham nhũng đã được ghi nhận trong một số đời vua Lý. Và mức độ ảnh hưởng của nạn sâu dân mọt nước là to lớn khi ảnh hưởng tới cả sự suy vi của triều đại đất Cổ Pháp vào cuối thời Lý. Cư điểm xét qua một số vụ tham nhũng dưới đây hẳn rõ.

Tháng 9 năm Mậu Ngọ (1138), vua Lý Thần Tông (1127 - 1138) mang bệnh sắp mất. Trước đó, tháng 5 năm Nhâm Tý (1132), hoàng thứ trưởng tử Lý Thiên Lộc được sinh ra, dù là con của một người thiếp nhưng do các bà hoàng hậu khác chưa sinh con trai, nên Thiên Lộc được chọn làm người kế vị. Nhưng đến tháng 4 năm Bính Thìn (1136), hoàng trưởng tử là Lý Thiên Tộ được Lê Hoàng hậu sinh.

Khi Thần Tông bệnh nặng, theo Đại Việt sử ký toàn thư cho hay, ba bà vợ của vua là “Cảm Thánh, Nhật Phụng, và Phụng Thánh muốn đổi lập thái tử khác, mới sai người đem của đút cho Tham tri chính sự Từ Văn Thông, nói rằng nếu có vâng mệnh thảo di chiếu thì chớ bỏ lời của ba phu nhân. Văn Thông nhận lời”. Lúc này, vua Thần Tông biết mình ốm nặng khó qua khỏi, sai Văn Thông soạn di chiếu để chọn người kế vị, nhưng Văn Thông đã nhận của đút, cầm bút mà lưỡng lự không viết. Ba vị phu nhân kia thừa dịp đến bên long sàng của vua mà dùng nước mắt đàn bà, khóc lóc cùng cái lẽ rằng xưa nay, lập người kế vị ngai vàng phải lấy con trai trưởng chứ không thể lấy con thứ… Vua mủi lòng liền xuống chiếu rằng “Thiên Tộ tuy còn nhỏ nhưng là con đích. Hãy để Thiên Tộ nối ngôi của Trẫm”, liền lập Thiên Tộ làm Thái tử” (Trích Việt sử cương mục tiết yếu). Vậy là tham nhũng đã dự phần cho cuộc thay đổi ngôi vua thứ sáu của nhà Lý. Thế nên trong Ngự chế Việt sử tổng vịnh, vua Tự Đức mới phê phán:

Huống lúc truyền hiền đương tựa ghế,

Văn Thông dừng bút chẳng ghi danh.

Thời vua Lý Anh Tông (1138 - 1175), khi vua còn nhỏ tuổi, Đỗ Anh Vũ là em của Đỗ Thái hậu cậy thế lực của chị nên lên giữ chức cao, trở thành kẻ quyền thân lũng đoạn triều chính, uy quyền che lấp cả vua. Hắn và Lê Thái hậu lại lá gió cành trăng với nhau làm việc mèo mả gà đồng. Năm Canh Ngọ (1150), Điện tiền đô Chỉ huy sứ Vũ Đái, Hỏa đầu đô Quảng Vũ là Lương Thượng Cá, Phò mã lang Dương Tự Minh… để cứu nguy cho chế độ mình phụng sự, bèn cùng hợp lực bắt giam Đỗ Anh Vũ để xử tội. Lê Thái hậu thương xót người tình, bèn giấu vàng trong cơm đút lót cho Vũ Đái, nhờ đó Anh Vũ giữ được mạng. Nhưng sau này hầu hêt những quan lại bắt hắn đều bị hắn ra tay trả thù, kẻ chết, người bị đi đày. Trong Việt sử mông học, đã chê trách rằng:

Mẹ vua là Lê thị,

Dâm đãng đáng chê cười.

Thông dâm với Anh Vũ,

Thực trái đạo làm người.

Đem đày xa phò mã,

Vàng bạc mua chuộc người.

Bất nhân và đại ác,

Tiếng xấu để muôn đời.

Đỉnh điểm cho nguy cơ nạn sâu dân, mọt nước làm suy vong nhà Lý chính là thời vua Lý Cao Tông (1175 – 1210). Khi vua Anh Tông băng hà năm Ất Mùi (1175), Long Trát lên ngôi vua, có sự giúp rập của Thái úy Tô Hiến Thành lúc này quyền bính lớn nhất triều. Việt sử lược cho biết, Chiêu Linh Hoàng Thái hậu đã đút lót cả mâm bạc cho vợ lẽ của Tô Hiến Thành là bà Lã Thị hòng mong cho Lý Long Xưởng (con cả bị phế vì tội thông dâm) được lên làm vua thay Lý Cao Tông. Nhưng việc ấy không thành, bởi tính thanh liêm và sự cương nghị của quan họ Tô, thể hiện ngay ở lời nói của ông với vợ mình, được Lịch triều hiến chương loại chí ghi là: “Ta là bậc đại thần, chịu mệnh vua ký thác giúp ấu chúa; nay nhận hối lộ mà bỏ người nọ dựng người kia, còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới suối vàng?”.

Biết mưu của mình không thành, Thái hậu lại vời ông đến trực tiếp lấy danh lợi mà dụ dỗ, mua chuộc. Lấy cái lẽ là:

- Ông đối với nước đáng gọi là trung đấy. Song tuổi ông cũng đã về chiều, mà lại thờ vua non tuổi, những việc ông làm thì ai biết cho? Chi bằng lập trưởng quân, thì người đó sẽ mang ơn ông, mà cho ông giàu sang lâu dài, há có phải hay không?

Nhưng lời mật ngọt mà trái đạo nào dễ lọt tai, ông cũng khẳng khái nói:

- Bất nghĩa mà được giàu sang, đó không phải là điều người trung thần nghĩa sĩ vui làm. Huống hồ di chúc của tiên vương, lời nói còn văng vẳng bên tai thì đối với công nghị sẽ làm sao? Thần không dám phụng chiếu.

Nhờ có sự cứng cỏi của ông, mà mối nguy việc hối lộ, tham nhũng thay quyền, đoạt vị chưa làm suy yếu nhà Lý. Ngai vàng suýt một phen đổi chủ. Thế nên, trong Sử Nam bốn chữ khi nhắc đến ông là nói đến đức liêm không tham “hơi đồng”:

Hiến Thành nhận chiếu,

Phò dựng ngôi trời.

Khinh vàng trọng ngãi (nghĩa).

Phụ chánh một người.

Tuy nhiên, khi quan họ Tô mất, vua Cao Tông thiếu người đỡ đần, và rồi… Việt sử tiêu án nhận định nhà Lý suy vong từ thời điểm Cao Tông, bởi “vua thì chỉ chăm về tiền của, ngày ngày cùng bọn cung nữ dong chơi, quần thần đều công nhiên hối lộ”, nên nạn tham nhũng theo đó mà hoành hành, làm cho nhà Lý ngày một đi xuống, đúng như lời ca thán trong Đại Nam quốc sử diễn ca:

Dấu xe quanh khắp giang san,

Chính hình lỗi tiết du quan quá thường.

Lại thêm thổ mộc cung tường,

Mua quan bán ngục nhiều đường riêng tây.

Cuối thời Cao Tông, đất nước bị loạn lạc, một phần bởi tham nhũng mà nên khi năm Đinh Mão (1207) Đoàn Thượng, Đoàn Chủ làm phản, vua sai Đàm Dĩ Mông, Phạm Bỉnh Di và các tướng đi dẹp. Việt sử lược cho hay Đoàn Thượng “ngầm sai người đến đút lót cho Thượng phẩm phụng ngự Phạm Du, xin đem đồ đảng theo Du”. Nhờ đó mà Đoàn Thượng được sống. Mối họa nội loạn của Đoàn Thượng vì sự nhúng tay của hối lộ, tham nhũng mà chưa dẹp được. Năm sau, Phạm Du được cử làm quan coi châu Nghệ An nhưng lại làm phản, vua Cao Tông phải sai Phạm Bỉnh Di đi đánh.

Năm Kỷ Tỵ (1209), Bỉnh Di dẫn quân đánh Phạm Du, rồi tịch thu gia sản nhà Du đốt hết, Du căm tưc lắm, nên như Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết: “Phạm Du mới ngầm sai người đến kinh đô đem vàng bạc đút lót cho người trong nội, nói rõ Bỉnh Di tàn khốc, giết hại những người vô tội”. Bọn quan lại thân cận bởi tham hơi đồng nên thay đổi sự thật, người có công trở thành kẻ có tội. Khi Phạm Bỉnh Di về triều, lập tức bị bắt và sau đó bị giết. Từ ấy mà loạn Quách Bốc trả thù cho chủ diễn ra. Rồi nạn Đoàn Thượng sau đó hoành hành khiến cho vua Lý Cao Tông phải chạy loạn khắp nơi. Biến loạn thời Cao Tông chính là cơ hội để anh em họ Trần hưng khởi và dần xác lập vị trí của mình để sau này lập triều đại mới thay triều Lý.

Xét ra, hậu quả tham nhũng thời Hậu Lý thật to lớn. Thực trạng tham nhũng ấy chứng tỏ sự đi xuống trầm trọng không chỉ về đạo đức, cương thường cuối thời Lý, mà một phần nguyên nhân góp vào sự suy vi của triều đại do Lý Thái Tổ sáng lập từ cuối thế kỷ XII, đầu thế kỷ XIII chính do sự dự phần của nạn sâu dân mọt nước. “Tham nhũng, ăn chơi trác táng và phung phí là những nét quen thuộc ở mọi cấp bậc của triều đình” – Nhận định trên của Giáo sư Lê Thành Khôi trong Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX khi viết về thời này, thực chẳng ngoa chút nào.

 

Nhà Trần đánh quan tham nhũng bằng gậy để bêu nhục

Tham nhũng thì hầu như thời nào cũng có. Và khi “cơ thể bị bệnh”, thì rõ ràng phải tìm “thuốc” (biện pháp) để “chữa bệnh”. Nhà Trần cũng thế, và những biện pháp khả dĩ nhất đã được thực hiện.

Có một điểm đáng lưu ý có có tác dụng lớn đối với tư cách đạo đức quan lại nhà Trần, đó là ở bình diện chung về đạo đức quan lại, những gương quan lại thanh liêm có rất nhiều. Họ đa phần là những người tài giỏi, có uy tín cao trong triều đình và tên tuổi những gương sáng ấy, đến nay vẫn còn được hậu thế tưởng nhớ, ngợi ca. Tỉ như An phủ sứ Thiên Trường Trần Thì Kiến thời Trần Anh Tông từng móc họng trả cỗ không nhận hối lộ để tạo thuận lợi cho kẻ cầu cạnh; Nội thư hỏa chánh chưởng phụng ngự Nguyễn Bính thời Trần Minh Tông nộp lại tiền bổng cho triều đình sau khi đi làm việc công. Những người theo nghĩa tôn quân như thế, chính là cơ sở, gốc nền cho sự thanh sạch nơi quan trường thời Trần.

Thời Trần, Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi không chỉ được biết đến với Ngọc tỉnh liên phú, với danh vị “lưỡng quốc trạng nguyên”, mà cao cả hơn, ông là viên quan không tham vàng, mờ mắt vì bạc tiền. Mạc Đĩnh Chi làm quan liêm khiết, không a dua, cảnh nhà rất thanh đạm. Vua Trần Minh Tông biết hoàn cảnh của ông nên ban đêm sai người đem 10 quan tiền bỏ vào nhà ông. Đến hôm sau Mạc Đĩnh Chi vào chầu, tâu ngay với vua việc ấy. Vua bảo: “Không ai đến nhận, cho khanh lấy mà tiêu”. Trong Ngự chế Việt sử tổng vịnh, vua Tự Đức có thơ khen ông là:

Nãi ông bất khẳng vi tiền lộ,

Kỳ hóa an tri hậu duệ tư.

Nghĩa là:

Bạc tiền chẳng chịu làm nô lệ,

Của lạ dè đâu để cháu con.

Chu Văn An sống liêm khiết và đầy trách nhiệm với nước khi dâng Thất trảm sớ khuyên vua giết bảy tên nịnh thần hại nước… Bên cạnh đó, như Phong tục sử (Lịch sử phong tục và danh nhân nước Nam có viết: “Tính An ngay thẳng trong sạch, tu luyện khổ tiết, không cầu lợi đạt”... “Có khi được ban thưởng, sau khi bái tạ xong bèn lấy đem cho người, thiên hạ cho ông là rất cao thượng”. Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An là những “hiền lương” cả về tài năng và nhân cách cho nhà Trần.

Đối với tội tham nhũng, luật lệ thành văn thời Trần nay không còn, nên ta không rõ tường tận, cụ thể việc xét xử tội trạng này như thế nào. Nhưng với những gì còn lại từ sử cũ, tội đục khoét của dân, của nước ấy cũng chẳng nhẹ đâu. Cứ như ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư, đơn cử từ trường hợp Phí Mạnh thì rõ. Theo đó năm Nhâm Thìn (1292), Phí Mạnh làm An phủ Diễn Châu “giữ chức chưa được bao lâu, có tiếng đồn là tham ô, vua triệu về, đánh trượng”. Vậy là ở trường hợp này, vua Trần đã có hành động cụ thể trừng trị tội tham ô, đó là “đánh trượng” kẻ tham nhũng bị dân tố cáo. Đó không chỉ là việc phạt kẻ có tội, mà còn đòn trượng giáng xuống, cao hơn hết là đánh vào lòng tự trọng, làm cho kẻ phạm tội hổ thẹn.

Phí Mạnh sau đó hối cải, từ bỏ con đường “vinh thân phì gia” bất chính để theo đường ngay lối thẳng. Và vua Trần không bỏ hẳn ông ta, mà ngược lại, vẫn giữ làm An phủ sứ ở Diễn Châu, tức là tạo điều kiện để chuộc lỗi, một biện pháp được xem là nhân văn. Kết quả đã rõ khi sử còn những dòng ghi nhận trường hợp Phí Mạnh ở trên sau được dân Diễn Châu ngợi ca là: “Diễn Châu an phủ thanh như thủy” (An phủ Diễn Châu trong tựa nước). Dễ đâu từ kẻ bị dân tố cáo, sau lại được dân ca ngợi nếu không phải là biết “quay đầu là bờ”.

Quan lại giữ mình liêm khiết được tôn vinh, trân trọng. Còn nhớ tới gương Thái sư Trần Thủ Độ (1194 - 1264) thời đầu triều Trần, dù quyền lực thực tế cao hơn cả vua, nhưng đặt lợi ích quốc gia, dòng tộc cao hơn lợi ích bản thân, không hề dùng quyền thế để làm lợi riêng cho mình. Sử sách còn truyền lại việc có người thân quen muốn làm chức câu đương (chức dịch trong xã, giữ việc bắt bớ, giải phạm nhân) mà nhờ cậy vợ ông là Linh từ Quốc mẫu Trần Thị Dung xin cho, ông đồng ý nhưng với điều kiện phải chặt một ngón chân với lý do người này nhờ cậy mà được chức, để phân biệt với những câu đương khác. Dĩ nhiên việc xin ấy sau không thành. Hay trong Trần Thủ Độ - Danh nhân truyện ký của Trúc Khê cho hay, khi vua Trần Thái Tông định dùng anh ruột ông là An Quốc làm Tể tướng, Thủ Độ đã trình bày ý mình rằng nếu An Quốc tài giỏi thật sự, thì ông xin về hưu để nhường cho anh, còn nếu cho rằng mình giỏi hơn An Quốc, thì không thể lại dùng cả An Quốc, bởi hai anh em cùng làm Tể tướng sẽ sinh ra cái tệ lũng đoạn triều chính. Nhờ thế mà với nhà Trần, Trần Thủ Độ được xem là người có công lớn tột bậc, và trong buổi đầu triều đại, kỷ cương phép nước được tạo lập, củng cố.

Nhà Trần, để phòng chống nạn tham nhũng, cũng đã có một số biện pháp đáng chú ý khác như trong xét xử các vụ án, pháp luật thời Trần cho phép người coi ngục đi báo tin vụ kiện được lấy tiền cước lục tùy quãng đường xa gần, ty xét án được lấy tiền bình bạc (tiền xét án). Điểm này ở thời Lý chưa có. Vậy là những viên quan liên quan đến lĩnh vực hình án được nhận tiền công công khai khi đi báo tin, khi xét xử. Biện pháp này khuyến khích ở mức độ nhất định trách nhiệm, lòng hăng hái của họ để tận tâm trong công việc.

Nếu như thời Lý có tiến hành biện pháp khảo khóa quan lại 9 năm một lần. Thì thời Trần cũng có kế thừa biện pháp này với quy định việc xét duyệt quan lại 15 năm một lần. Theo Nhà Lê sơ (1428 - 1527) với công cuộc chống nạn “sâu dân, mọt nước”, biện pháp khảo khóa rõ là nhằm cất nhắc quan lại thực tài, liêm khiết lên vị trí cao, phù hợp năng lực, phẩm chất, hạ bậc, thải loại quan lại yếu kém. Nhưng rõ là như Lịch triều hiến chương loại chí cho hay, quãng thời gian 15 mới xét duyệt ấy quả là quá dài với đời làm quan của những kẻ đội mũ, đi hia.

Thời Lý, quan lại được cấp lương bổng chỉ giới hạn theo lĩnh vực hạn hẹp, thì thời Trần đã có lệ cấp lương bổng cho quan viên thực hiện ngay từ đầu triều đại, và tiền đó được lấy từ thuế thu của dân, như Đại Việt sử ký toàn thư ghi về năm Bính Thân (1236): “Mùa xuân, tháng Giêng, định lệ cấp lương bổng cho các quan văn võ trong ngoài và các quan ở cung điện, lăng miếu, chia tiền thuế, ban cấp theo thứ bậc”.

 

Tham nhũng nhà Trần và chuyện vua Minh Tông xử chết cha vợ

Sau thời Lý, dòng họ Đông A ngồi ngai vàng, trong 175 năm góp mặt vào sử Việt, làm nên ba chiến thắng oanh liệt trước quân xâm lược Mông – Nguyên, nhà Trần tạo biết bao dấu ấn riêng như chế độ thái thượng hoàng cùng vua trị nước, cho phép hoàng thân, quốc thích có điền trang, thái ấp, quân đội riêng cùng tham gia chống giặc… Ấy, còn riêng việc chống nạn tham nhũng, cũng có đôi điều để nói.

Khi dòng vua xuất thân từ nghiệp chài lưới bắt đầu năm Ất Dậu (1225), sử ghi nhận thời vua Trần Thái Tông (1225 - 1258) ở ngôi dài 33 năm, rồi tới vua con Trần Thánh Tông (1258 - 1278) cũng 20 năm trị vì chứ đâu ít, nhưng hiện tượng tham ô, nhũng lạm của cải chưa thấy hiện diện.

Quãng thời gian này, rõ là việc lo xác lập, củng cố ngai vàng cho dòng họ rất ư quan trọng, nên từ vua chí quan tận tâm, tận lực mà dẹp phản loạn còn vương vấn nhà Lý, còn nuôi mộng đế vương để dựng nghiệp nhà cho vững. Lại thêm việc cố kết sức mạnh dòng họ, dân tộc để chống xâm lược Mông Cổ, lo cho sự yên nguy của nước trở thành nhiệm vụ hàng đầu.

Thế nhưng từ thời vua Trần Nhân Tông (1279 - 1293) hiện tượng đục tiền, khoét của đã có chép trong sử xưa. Dẫu vậy, những vụ tham nhũng nhỏ lẻ ở thời nhà Trần xét suốt chiều dài 175 năm tồn tại không thấy được ghi lại nhiều và cũng không diễn ra thường xuyên lắm.

Qua việc tổng hợp trong sử cũ, hiện tượng tham nhũng vặt có một số trường hợp như Đại Việt sử ký toàn thư có chép việc vào năm Nhâm Thìn (1292), Phí Mạnh làm An phủ Diễn Châu “giữ chức chưa được bao lâu, có tiếng đồn là tham ô, vua triệu về, đánh trượng”. Hay trường hợp Hồ Tông Thốc tham nhũng tài sản của dân đến nỗi tội trạng bị phát giác mà Khâm định Việt sử thông giám cương mục có đề cập vào năm Bính Dần (1386).

Không chỉ có quan lại tham ô, nhũng lạm của cải, mà trong giới hoàng thân quốc thích, việc đó cũng xảy ra. Đơn cử như có vụ của bà Trần Thị Thái Bình vốn là cung tần của Thượng hoàng Trần Anh Tông tính tham lam, đã dùng vị thế của mình có được chiếm đoạt ruộng đất dân lành, sau bị khởi kiện phải trả lại cho dân vào đầu thế kỷ XIV. Còn lại, hầu như không thêm trường hợp cụ thể nào ghi về những vụ tham ô, nhũng lạm thường thấy nữa.

Có một điểm đáng nói ở đây là về tư tưởng hưởng lợi từ chức tước, vị thế của đội ngũ quan lại thời Trần. Điều đó được biểu hiện rất rõ qua sự trần tình của An phủ sứ Hồ Tông Thốc với vua Trần Nghệ Tông.

Ấy là khi làm An phủ sứ, Hồ Tông Thốc có lấy của dân, sau bị phát giác. “Nghệ Tông lấy làm lạ hỏi ông. Ông lạy tâu: “Một con chịu ơn vua, cả nhà ăn lộc trời” (Trích Việt sử cương mục tiết yếu). Sự giãi bày ấy nay vẫn còn thấy bóng dáng trong câu ngạn ngữ “Một người làm quan, cả họ được nhờ” của dân Việt ta

Vua Nghệ Tông vốn tính không cương quyết, khi nghe viên quan tham nhũng họ Hồ trả lời vậy thì lại không trách phạt, răn dạy gì mà ngược lại còn tha cho cái tội tham ô, phong cho chức Hàm lâm học sĩ phụng và kiêm coi Thẩm hình viện.

Tư tưởng của kẻ bề trên nghiễm nhiên được lấy của kẻ dưới còn được nhìn thấy qua lăng kính của một tôn thất nhà Trần là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, người có tiếng là tham lam, thô bỉ từng bị dân Bài Áng bất bình thưa kiện năm Bính Thân (1296).

Khi sự việc đưa lên vua Trần Anh Tông xem xét, Đại Việt sử ký toàn thư có cho hay, Khánh Dư với vị trí của kẻ là tôn thất nhà vua, đã ngạo mạn mà đã trả lời rằng: “Tướng là chim ưng, dân lính là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng thì có gì là lạ”. Câu trả lời ấy dĩ nhiên vua không hài lòng, còn Khánh Dư thì cũng lưu lại kinh thành chỉ bốn ngày rồi về ngay vì sợ ở lâu vua khiển trách.

Như trên là một số vụ tham nhũng nhỏ lẻ được ghi lại, cùng với đó là tư tưởng ăn của bất chính từ đội ngũ quan lại, hoàng thân quốc thích thời Trần. Trong thời gian tồn tại 175 năm của dòng họ Trần, sử còn ghi lại có hai trường hợp mà vì tham nhũng, đã gây nên hậu quả cực kỳ nghiêm trọng, làm ảnh hưởng trực tiếp tới chính sự nhà Trần. Mà xét ở một mức độ nào đó, cũng là góp phần cho sự đi xuống của dòng họ Đông A trong nghiệp chính trị.

Theo Nhà Lê sơ (1428 - 1527) với công cuộc chống nạn “sâu dân, mọt nước” có lược thuật, vào năm Mậu Thìn (1328), vua Trần Minh Tông đã giết oan cha vợ là Quốc phụ thượng tể Trần Quốc Chẩn.

Nguyên do cái chết oan của Quốc Chẩn là bởi vua tuổi đã cao mà Hoàng hậu chưa có con, Cương Đông Văn Hiến hầu (con Thái sư Trần Nhật Duật) muốn lật đổ hoàng hậu để Hoàng tử Vượng (vua Trần Hiến Tông sau này) thay, nên Quốc sử toản yếu chép “mới đem của đút cho gia thần Quốc Chẩn là Trần Phẫu 100 lạng vàng, bảo Phẫu vu cáo cho Quốc Chẩn về việc mưu phản”.

Vua Trần Minh Tông không xét kỹ nên lệnh bắt giam cha vợ, sau đó Trần Quốc Chẩn phải chết oan. Việt sử diễn âm còn kể:

Bởi nghe Khắc Chung tôi gian,

Cho nên Quốc Chẩn tội oan thấu trời.

Về sau, bởi vô tình không phát giác sớm âm mưu ấy mà vua Minh Tông bị chê là:

Nhưng không rõ ngay gian,

Ấy là điều đáng tiếc.

(Trích Việt sử mông học)

Ngoài vụ tham nhũng mà làm thiệt thân cha vợ vua Trần, thì đặc biệt nghiêm trọng là việc tử trận của vua Trần Duệ Tông (1373 – 1377) khi đánh Champa lại có nguyên do gián tiếp từ việc tham nhũng của quan lại mà nên.

Thời vua Trần Duệ Tông ngồi ngai vàng trị nước, thì ở Champa (Chiêm Thành) vua Chiêm bấy giờ là Chế Bồng Nga đang tại vị, thường đem quân lấn cướp đất đai biên giới Đại Việt.

Để phòng bị việc biên giới phía Nam, vua Duệ Tông sai Hành khiển Đỗ Tử Bình đem quân trấn giữ đất Hóa Châu. Vua Chiêm Chế Bồng Nga lo bị quân ta đánh, nên như lời thuật của Đại Việt sử ký toàn thư, y đã sai người “đem 10 mâm vàng dâng lên vua. Tử Bình ỉm đi, cướp làm của mình, nói dối là Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, nên đem quân đánh. Vua giận lắm, quyết ý thân chinh”.

Chính từ việc tham nhũng của tên quan đại diện triều đình coi giữ biên ải, vì 10 mâm vàng sống làm cho lóa mắt, lo vinh thân cho mình, mà hại đến vận nước, đến muôn dân, góp phần dẫn tới cuộc chiến tranh Việt - Chiêm.

Còn vua Trần Duệ Tông khi đánh vào đất Chiêm Thành đã tử trận năm Đinh Tỵ (1377), chết trong đám loạn quân không tìm thấy xác. Từ sau sự kiện ấy mà về sau, quân Chế Bồng Nga thừa cơ nhà Trần trên bước đường suy vi, đã liên tục vào nước ta đánh cướp, thậm chí tiến quân đến Thăng Long tới ba lần làm vua tôi nhà Trần phải chạy loạn. Tình hình chính trị không ổn định, triều Trần cũng dần đi vào buổi mạt vận.

Không phải là tham nhũng đã dự phần to lớn làm cho nghiệp chính trị của dòng họ xuất thân nghề chài lưới đi đến sự vãn hồi, kết cục đó sao?

 

Chuyện quan lại tham nhũng bán thông tin cơ mật cho phương Bắc

Tuyên phủ sứ Nguyễn Tông Trụ nhận riêng đồ lễ của quan nhà Minh tiết lộ việc Lê Thái Tổ vì nghe lời gièm pha mà giết hại các công thần Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo cho viên quan Lã Hồi của Long Châu biết.

Là triều đại tạo được ấn tượng tốt đối với hậu thế bởi những thành tựu đạt được trên nhiều mặt. Nhưng nạn tham nhũng vẫn hiện diện và là một “ung nhọt” nguy hiểm mà các vị vua nhà Lê sơ (1428 - 1527) tìm mọi biện pháp để khắc chế, diệt trừ.

Nạn tham nhũng thời Lê sơ bắt đầu manh nha thời vua đầu triều Lê Thái Tổ và khởi phát từ thời vua Lê Thái Tông trở về sau, dần hiển hiện rõ nét vào thời hậu kỳ của nhà Lê sơ, tương ứng với thời vua Lê Uy Mục và các đời vua sau. Tức là khoảng hơn 20 năm đầu thế kỷ XVI.

Trong 100 năm tồn tại của nhà Lê sơ, sử cũ ghi lại khoảng hơn 30 vụ việc lớn nhỏ liên quan tới tham nhũng, hối lộ của quan lại, tôn thất nhà Lê sơ. Hơn 30 vụ án hay việc liên quan đến tham nhũng, hối lộ thuộc về 40 năm đầu thời Lê sơ. Thời trị vì của vua Lê Thái Tổ (1428 - 1433) ghi nhận có vụ tham nhũng của Cầm Quý dựa vào hành động cát cứ. Toàn thư có ghi: “Quý là người tham lam, tàn bạo, cấm dân không được trồng trọt tranh với mình, xây dựng cung thất lớn, lấy đồng làm cột, vợ cả vợ lẽ phải kể hàng trăm, bắt dân đóng góp nặng, nói láo là để nộp cống, nhưng thực ra là vơ vét hết về mình. Thái Tổ định giết hắn, nhưng vì bấy giờ còn đương có việc, nên chưa rảnh tính đến”.

Vụ án tham nhũng cuối cùng được sử chép trong 40 năm đầu thời Lê sơ là vụ án của nội quan Phan Tông Trinh cùng đồng bọn xảy ra tháng 11 năm Mậu Tý (1468) thời vua Lê Thánh Tông. Những nội thần gồm Nguyễn Thư, Chu Đức Đại, Dương Minh Phong, Ngô Át và Phan Tông Trinh hầu cận trong cung vua, nhưng nhiều lần ăn hối lộ, bị phát giác và khép vào tội chết. Sau đó vua Lê Thánh Tông xem xét và có mức xử cụ thể cho từng người.

Trong khoảng 30 vụ tham nhũng, hối lộ sử cũ ghi chép lại, thì chủ yếu là những vụ xảy ra với quan lại trong triều. Ở cấp địa phương được ghi chép ít hơn nhưng không phải là không có. Điển hình là sự kiện năm Ất Mão (1435) được Việt sử cương mục tiết yếu ghi lại, vua Lê Thái Tông cho người đi khắp cả nước bí mật điều tra, bắt và xét hỏi tới 53 kẻ tham quan ô lại bao gồm những Tuyên phủ, Chuyển vận, Tuần sát các lộ, trấn, huyện.

60 năm cuối nhà Lê sơ từ niên hiệu Hồng Đức (1470 - 1497) của vua Lê Thánh Tông cho đến thời vua Lê Cung Hoàng (1522 - 1527), chính sử không ghi rõ số vụ, việc tham nhũng, nhưng chắc chắn tình trạng tham nhũng đã gia tăng và tính chất ngày càng trầm trọng. Bởi, với một Lê Uy Mục dùng ngoại thích tạo điều kiện cho những kẻ bất tài như Thừa Nghiệp vốn là kẻ chăn trâu mà coi phủ Tôn nhân, Tử Mô làm nghề bán cá lại trông quân Túc vệ… Một Lê Tương Dực về cuối thời trị vì chăm lo việc thổ mộc, bòn rút sức lực, tiền tài của dân xây điện trăm nóc, Cửu trùng đài… Vua Lê Chiêu Tông (1516 - 1522) và Lê Cung Hoàng tài năng hạn chế, không có thực quyền trị nước, chắc chắn tham nhũng, hối lộ càng có cơ hội để phát triển nhiều hơn khi mà trên không ngay, dưới ắt chẳng thẳng. Ngay như vua Lê Hiến Tông nối nghiệp vua Lê Thánh Tông trị nước cũng được xem là sáng suốt thế, còn phải tỏ ra lo lắng với nạn tham nhũng ở thời trị vì của mình thì lấy gì làm hi vọng sự công bằng, thanh sạch ở những vị vua đức kém, tài hèn về sau.

Đánh giá về “phong độ sĩ phu” thời Lê sơ mà Lê Quý Đôn gọi là Tiền Lê, qua đó thể hiện một phần hiện trạng xã hội, trong Kiến văn tiểu lục, ông cho rằng: “Từ năm Đoan Khánh (niên hiệu của Lê Uy Mục – Người dẫn) trở về sau, lời bàn luận sáng suốt bẵng đi, thói cầu cạnh mỗi ngày một thịnh, người có chức vị ít giữ được phong độ thanh liêm nhún nhường, trong triều đình không nghe có lời can gián, gặp có việc thì rụt rè cẩu thả, thấy lúc nguy thì bán nước để toàn thân, dầu người gọi là bậc danh nho, cũng đều yên tâm nhận sủng vinh phi nghĩa, rồi nào thơ ca nào trao đổi, khoe khoang tán tụng lẫn nhau, tập tục sĩ phu thối nát đến thế là cùng, tệ hại biến đổi lần này không thể nào nói cho xiết được”.

Có nhiều vụ tham nhũng liên đới trực tiếp tới nhiều công thần, đại thần. Tiêu biểu trong những trường hợp tham nhũng đó có Thái phó Lê Văn Linh cho người làm quan để nhận hối lộ riêng vào đời Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông; Thái úy Lê Thụ sắm lễ cưới cho con trai là Lê Quát năm Mậu Thìn (1448) bằng cách nhận lễ vật của quan lại cấp dưới, nên mới gây nên cảnh còn chứng cứ ở Khâm định Việt sử thông giám cương mục: “những kẻ bon chen xu phụ đua nhau đem lễ đến dâng”… “Các trấn, các lộ nhân đó bắt dân đóng góp cung ứng để mua lòng Lê Thụ”…
Những đại thần ở chức vụ Thái phó, Thái úy như trên, theo Lê triều quan chế đều là những chức giữ trọng trách cao nhất trong hàng ngũ đại thần thời Lê sơ. Trong khi ấy, Đô đốc thuộc hàng Chánh nhất phẩm, còn Thượng thư sáu bộ thuộc hàng Tòng nhị phẩm, đều là những phẩm hàm cao trong hàng cửu phẩm thời Lê sơ. Việc lợi dụng chức vụ để tham nhũng của những viên đại thần không chỉ diễn ra một lần là dứt. Sũ cũ còn chép việc Nguyễn Nhữ Soạn phạm tội tham ô đến ba lần, hay Lê Thụ đều ít nhất hai lần tham nhũng năm Giáp Dần (1434) khi là Tổng quản tiền quân và năm Mậu Thìn (1448) khi là Thái úy. Thậm chí như cha con công thần Nguyễn Xí còn đều cùng nhau phạm tội tham ô.

Các vụ tham nhũng thời Lê sơ đa phần lợi dụng chức vụ để vơ vét của công hoặc nhận quà, tiền biếu xén của cá nhân với mục đích kinh tế là chính hòng làm giàu cho bản thân. Những trường hợp của Tổng quản lộ An Bang Nguyễn Tông Từ cùng Đồng tổng quản Lê Dao bán trộm hàng hóa, chiếm riêng mỗi người 100 quan tiền năm Giáp Dần (1434), hay Chuyển vận sứ Nguyễn Liêm của huyện Thủy Đường (thuộc Hải Dương) nhận hối lộ hai tấm lụa năm Ất Mão (1435)… không phải là việc hiếm. Hoặc các viên quan lợi dụng việc công mà làm việc tư. Thế nên mới có sự thể là Kim ngô vệ đồng tổng tri Lê Quát sai 70 tên lính làm thuyền riêng, phí tổn tới 18 quan tiền của quân đội vào năm Bính Tý (1456).

Hiện tượng tham nhũng rất nguy hại còn hiện diện trong lĩnh vực ngoại giao, thể hiện ở trường hợp đầu năm Giáp Dần (1434), Tuyên phủ sứ Nguyễn Tông Trụ trong chuyến đi sứ sang nhà Minh cầu phong cho vua Lê Thái Tông không giữ được thể diện của kẻ đại diện nhà nước. Ngược lại, y còn nhận riêng đồ lễ của quan nhà Minh ở đất Long Châu (thuộc tỉnh Quảng Tây) rồi tiết lộ việc Lê Thái Tổ vì nghe lời gièm pha mà giết hại các công thần Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo cho viên quan Lã Hồi của Long Châu biết. Không chỉ phạm tội lợi dụng vị trí sứ thần để tư túi riêng cho bản thân ở nước người, Tông Trụ còn phạm cả tội làm lộ bí mật quốc gia.

Cũng trong lĩnh vực ngoại giao, sử còn ghi lại việc nhiều viên quan to thời vua Lê Nhân Tông gồm: Tư khấu Lê Khắc Phục, Tả hữu nạp ngôn Nguyễn Mộng Tuân, Hữu ty thị lang Đào Công Soạn, Trung thừa Hà Lật (thuộc Ngự sử đài), Tây đạo tham tri Nguyễn Thúc Huệ, Thẩm hình viện phó sứ Trịnh Mân, Nội mật viện tham tri Lê Văn năm Mậu Thìn (1448) được triều đình giao trọng trách lên biên giới miền Đông đạo để hiệp đồng xem xét tình hình biên giới với các quan trấn thủ Quảng Đông của nhà Minh. Khi đi, các viên quan được ban cho tiền theo thứ bậc. Nhưng khi việc hiệp đồng hai bên không diễn ra, những viên quan đại diện nhà nước thay vì trả lại tiền cho triều đình, lại lấy tiền được ban mua hàng hóa của Trung Hoa rồi về.

 

Mời nhấp chuột đọc thêm:

- Thế thái nhân tình qua thơ Đặng Xuân Xuyếnl

- “Tưng tửng” 7 chuyện cùng Nguyễn Đăng Hànhl

- Bạn đọc cảm nhận bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl

- Bạn đọc cảm nhận về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl

- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 1l

- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 2l

- Hôn quân Lưu Tử Nghiệp và vai diễn của Trương Dật Kiệtl

- Vài cảm nhận khi xem phim BỐ GIÀ (web drama) của Trấn Thànhl

 

Mời nghe nhạc phẩm TẾT QUÊ HƯƠNG

của Minh Vy, qua tiếng hát Cẩm Ly:

Tác giả: Trần Đình Ba - nguồn: Một Thế Giới

Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet

Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.

0 comments:

Đăng nhận xét